Translate

Trang BVB1

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2016

Hòa ước Trung-Nhật 1952 phải chăng đã “mặc nhiên” giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Hoa Dân Quốc ?

* TRƯƠNG NHÂN TUẤN
Bài viết của tác giả Lê Nam Trung Hiếu trên BBC, được giới thiệu là “Giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Huế, đang là nghiên cứu sinh chuyên ngành sử quốc tế tại Bỉ”, có viết như sau: “...chỉ 7 tháng sau hội nghị San Francisco, Nhật Bản và Đài Loan ký với nhau một hiệp ước hòa bình riêng rẽ, trong đó khoản 2 mặc nhiên công nhận hai quần đảo trên thuộc chủ quyền của Đài Loan, đồng nghĩa với việc chối bỏ chủ quyền được đại diện của Quốc gia Việt Nam tuyên bố công khai tại hội nghị San Francisco”.
“Hai quần đảo trên” viết ở đoạn trên là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều này hoàn toàn không đúng. Khoản 2 của hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật 1952 không hề “mặc nhiên công nhận” hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Đài Loan.
Điều 2 Hiệp ước Hòa bình 28-4-1952 giữa Trung Hoa Dân quốc và Nhật Bản, nguyên văn như sau: “It is recognized that under Article 2 of the Treaty of Peace with Japan signed at the city of San Francisco in the United States of America on September 8, 1951 (hereinafter referred to as the San Francisco Treaty), Japan has renounced all right, title and claim to Taiwan (Formosa) and Penghu (the Pescadores) as well as the Spratly Islands and the Paracel Islands.[i]”.
Tạm dịch: Hai bên nhìn nhận rằng theo điều 2 của Hiệp ước San Francisco ngày 8-9-1951, Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa chủ quyền cũng như mọi yêu sách về đảo Đài Loan, Bành Hồ cũng như quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Không thấy đoạn nào trong điều ước này nói Nhật giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan hiện nay). Chỉ thấy ghi là  hai bên “nhìn nhận điều 2 của Hiệp ước San Francisco 8-9-1951”.
Vậy thì điều 2 của Hiệp ước San Francisco 8-9-1951 nói gì?
Nguyên văn Điều 2, Hòa ước San Francisco 8-9-1951:
Article 2
Japan, recognizing the independence of Korea, renounces all right, title and claim to Korea, including the islands of Quelpart, Port Hamilton and Dagelet.
Japan renounces all right, title and claim to Formosa and the Pescadores
Japan renounces all right, title and claim to the Kurile Islands, and to that portion of Sakhalin and the islands adjacent to it over which Japan acquired sovereignty as a consequence of the Treaty of Portsmouth of September 5, 1905.
 Japan renounces all right, title and claim in connection with the League of Nations Mandate System, and accepts the action of the United Nations Security Council of April 2, 1947, extending the trusteeship system to the Pacific Islands formerly under mandate to Japan. 
Japan renounces all claim to any right or title to or interest in connectionwith any part of the Antarctic area, whether deriving from the activities of Japanese nationals or otherwise. 
Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracel Islands.
Tạm dịch:
Nhật phải từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa (chủ quyền) và mọi yêu sách tại:
(a) Triều Tiên, và công nhận nền độc lập của xứ này,
(b) đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ,
(c) quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline cũng như các đảo khác đã nhượng cho Nhật qua Hiệp ước Portsmouth năm 1905,
(d) tại các đảo đã được giao cho Hội Quốc Liên quản lý và theo quyết định của Hội đồng Bảo an ngày 2 tháng 4 năm 1947,
e/ vùng Bắc cực,
(f) các quần đảo Spratly (Trường Sa) và quần đảo Paracels (Hoàng Sa).
Điều 2 của Hiệp ước San Francisco 1951 không hề xác định Hoàng Sa và Trường Sa, kể cả đảo Đài Loan, sẽ giao cho nước nào!
Theo ngôn ngữ công pháp quốc tế, sự từ bỏ lãnh thổ của Nhật không phải là một sự từ bỏ “in favorem”, tức là giao lại cho một quốc gia đối tượng nào đó, mà là một sự từ bỏ đơn thuần. Số phận của những vùng lãnh thổ từ bỏ sẽ do phe chiến thắng quyết định.
Ngay từ điều 2 của Hiệp định San Francisco cũng đã xác định là Nhật không có bất kỳ một “quyền” nào đối với những lãnh thổ từ bỏ (Japan renounces all right, title and claim…). Tức là Nhật không có thẩm quyền giao các vùng lãnh thổ từ bỏ đó cho bất kỳ một quốc gia nào.
Nếu Nhật có thẩm quyền giao HS và TS cho Trung Hoa Dân Quốc, tại sao điều 2 của Hiệp ước Hòa Bình Trung-Nhật 28-4-1952 lại không ghi rõ HS và TS giao lại cho Trung Hoa Dân quốc mà chỉ đơn thuần lập lại điều 2 của hiệp ước San Francisco 1951 ?
Vì vậy muốn biết số phận của các vùng lãnh thổ (mà Nhật từ bỏ) giao cho ai thì phải nghiên cứu Hiệp ước San Francisco 1951 và các kết ước liên quan.
Hội nghị San Francisco bắt đầu từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, gồm có 52 quốc gia tham gia, trong đó có 49 quốc gia ký hiệp ước hòa bình với Nhật. Vào thời điểm đầu hàng, 14-8-1945, Nhật đã có tuyên chiến với 46 nước, trong đó không có Việt Nam. Từ thời điểm này đến ngày mở đầu Hội nghị San Francisco ngày 4 tháng 9 năm 1951, Hội nghị đón nhận thêm 9 nước khác (tuyên bố chiến tranh với Nhật). Các nước này là các nước đã bị Nhật chiếm đóng lúc chiến tranh, không tự chủ về ngoại giao, vì ở tình trạng dưới quyền bảo hộ của một nước khác. Một trong 9 nước đó là Việt Nam.
Hòa ước San Francisco 1951 viết bằng 4 ngôn ngữ: Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Nhật. Nhưng chỉ có ba ngôn ngữ đầu là có hiệu lực pháp lý. Hòa ước bao gồm gồm 7 chương, 27 điều và một lời mở đầu. Điều 2 nói về lãnh thổ (đã ghi lại ở trên). Ta thấy rằng Hiệp ước San Francisco 1951 cũng không qui định rõ rệt số phận các lãnh thổ mà Nhật từ bỏ. Vì vậy điều cần thiết phải nghiên cứu các kết ước liên quan cũng như “hậu trường”, tức những vận động tiền hội nghị.
           Các kết ước liên quan đến lãnh thổ gồm có Tuyên bố Cairo 1943, ký giữa đại diện ba nước Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa là Theodore Roosevelt, Winston L.S. Churchill và Tưởng Giới Thạch. Tuyên bố Cairo là kết quả của Hội đàm Cairo, qui định về số phận các vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm cũng như hứa hẹn quyền lợi dành cho Trung Hoa để nước này đứng về phía Đồng minh.
Nội dung tóm lược những vùng lãnh thổ mà Nhật phải trả lại là:
– Tất cả những đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã chiếm từ sau Thế chiến I;
– Trả lại cho Trung Hoa những vùng mà Nhật đã cướp của Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ;
– Tất cả các vùng lãnh thổ mà đế quốc Nhật đã chiếm bằng vũ lực;
– Nhân dân Hàn Quốc lấy lại chủ quyền đất nước mình trong một thời gian nhất định.
Tức là, những vùng lãnh thổ mà Nhật từ bỏ, giao lại cho Trung Hoa gồm Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Không hề thấy có ghi Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mật ước Yalta, ký ngày 11 tháng 2 năm 1945 giữa đại diện của Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô tại Yalta, nói về điều kiện để Liên Xô tuyên bố chiến tranh với Nhật. Stalin chấp nhận tuyên bố chiến tranh với Nhật Bản chỉ sau khi Đức thua trận. Các khoản liên quan đến lãnh thổ dành cho LX gồm có:  giữ nguyên trạng xứ Ngoại Mông (Mông Cổ), trả lại cho Liên Xô phần phía nam đảo Sakhaline, nhượng cho Liên Xô quần đảo Kouriles.
Một văn kiện khác cũng đề cập đến lãnh thổ, là Tối hậu thư Potsdam (Tuyên bố Potsdam) của các nước Đồng minh là Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa gởi cho Nhật Bản ngày 26 tháng 6 năm 1945.
Nội dung gồm một số điều bó buộc Nhật Bản phải chấp nhận : 1/ thi hành các điều đã xác định theo tuyên bố Cairo; 2/ lãnh thổ Nhật Bản sẽ chỉ giới hạn trên các đảo Hondo, Hokkaido, Kiousiou và Si Kok cũng như trên một số đảo nhỏ khác sẽ được xác định do các nước đồng minh; 3/ Nhật sẽ bị hoàn toàn giải giới và các lực lượng quân đội Nhật sẽ giải ngũ.
Liên Xô ký vào Tuyên bố Potsdam ngày 8 tháng 8 năm 1945.
Ngày 10 tháng 8 chính phủ Nhật cho biết họ chấp nhận các điều kiện của Tối hậu thư Potsdam.
Ngày 14-8-1945 Nhật tuyên bố đầu hàng. Ngày 2 tháng 9 đại diện Nhật Hoàng ký vào văn bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện với tướng Douglas Mac Arthur tại vịnh Tokyo. Văn kiện đầu hàng không điều kiện được đại diện 9 nước sau đây ký nhận: Hoa Kỳ, Trung Hoa, Anh, Liên Bang Xô-viết, Úc, Canada, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp, Hòa Lan và Tân Tây Lan.
Sự kiện này cần nhắc nhở vì sự hiện diện của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp trong văn bản đầu hàng của Nhật Bản là một sự kiện quan trọng (cho việc khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Tất cả các văn kiện trên không có điều nào nói về số phận của hai quần đảo HS và TS. Tối hậu thư Potsdam quan trọng vì tái xác nhận Tuyên ngôn Cairo và được sự nhìn nhận vô điều kiện của Nhật.
Vì vậy, muốn tìm hiểu các vùng lãnh thổ do Nhật từ bỏ sẽ giao cho quốc gia nào ta phải nghiên cứu về “tiền Hội nghị San Francisco” đồng thời xét đến công pháp quốc tế và tập quán quốc tế về những vấn đề chủ quyền ở các vùng lãnh thổ bị từ bỏ (trường hợp không in favorem).
Theo tác giả Focsaneanu Lazar trong “Les Traités de paix du Japon. In: Annuaire français de droit international, volume 6, 1960. pp. 256-290 ». Hội nghị San Francisco đã đưa ra 4 giải pháp để giải quyết số phận các vùng lãnh thổ mà Nhật từ bỏ. Lược dịch ra như sau :
a)    Đề nghị thứ nhứt, các vùng đất (Nhật từ bỏ) thuộc quyền quản lý của tất cả các nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tức hình thức "cộng đồng quản lý" (condominium). Việc chuyển giao chủ quyền đã được thực hiện lúc Nhật ký kết Tuyên bố Potsdam và đầu hàng vô điều kiện (14-8-1945). Điều 2 của Hiệp ước chỉ nhằm mục tiêu hợp pháp hóa hành vi từ bỏ lãnh thổ của Nhật mà thôi. Vấn đề kế thừa những vùng lãnh thổ (Nhật từ bỏ) không còn liên quan đến Nhật cũng như Hiệp ước 1951. Tức là số phận của những vùng đất này đã được đồng minh định đoạt rồi. (Chính phủ Pháp nghiêng về giải pháp này.)  

b)   Thứ hai, các vùng đất này thuộc quyền quản lý của các nước ký kết vào Hiệp ước. Đề nghị này bị Liên Xô chống đối. Hai nước Ấn Độ và hai nước Trung Hoa thì đòi hỏi "cộng đồng quản lý" ngay cả lãnh thổ của Nhật.
c)    Các vùng đất này trở thành đất vô chủ (terrae derelictae).
d)   Các vùng đất này trở thành đất vô chủ, người ta có thể chiếm hữu. Điều này hàm ý, những nước tham chiến đang chiếm đóng tạm thời tại các vùng lãnh thổ đó có thể chiếm đóng vĩnh viễn và tuyên bố chủ quyền.
Chiếu những điều xảy ra trên thực tế, ta thấy điều (a) và (d) đã được thực hiện.
Một chi tiết quan trọng điều 2 của Hiệp ước San Francisco là do đại diện phái đoàn Pháp đề nghị.
Hành vi của Pháp dĩ nhiên là có tính toán.
Bởi vì, từ ngày 28 tháng 2 năm 1946 Pháp đã ký kết với Trung Hoa Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới của Pháp tại Trung Hoa đồng thời cam kết dành sự ưu đãi về kinh tế cho Trung Hoa, như nhượng tuyến đường xe lửa Vân Nam – Hải Phòng, dành ưu đãi về kinh tế, kiều dân Trung Hoa sống tại Việt Nam được hưởng qui chế ưu đãi đặc biệt. Đổi lại quân đội Trung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Pháp vào thay thế.
Trong khi đó, phía nam vĩ tuyến 16, vì lý do chiến lược, Anh cũng đồng ý nhượng quyền lại cho Pháp.
Tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật rút đi Pháp liền gởi quân đến các nơi này để khẳng định chủ quyền. Tại Hoàng Sa quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Tháng 10-1946, quân Pháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủ quyền.
Như thế, hành động của Pháp phù hợp hoàn toàn theo đề nghị (a) và (d) về việc giải quyết các vùng đất do Nhật từ bỏ.
Pháp đã khẳng định lại chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, dưới sự mặc nhiên chấp thuận của Hoa Kỳ và Anh.
Hồ sơ của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ các năm 1955-1957, đọc ở link sau đây :http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1955-57v03/d187  ta thấy Mỹ đã có thái độ rõ rệt về chủ quyền HS và TS thuộc VN.
Tổ chức GATO (General Agreement On Tariffs And Trade) tiền thân của WTO cũng nhìn nhận HS và TS thuộc VN. Ngày 16-4-1951, bảng sắp xếp theo địa lý các vùng trao đổi thuơng mại với Hoa Kỳ, Hoàng Sa và Trường Sa đã được cơ quan này xếp vào lãnh thổ của Việt Nam.
Còn về tuyên bố của đại diện VN tại Hội nghị San Francisco là ông Trần Văn Hữu, vì không có nước nào lên tiếng phản đối, dĩ nhiên là tuyên bố này có hiệu lực: Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam. Nó củng cố, hợp thức hóa những vận động của Pháp về lãnh thổ trên thực tế đã thể hiện từ năm 1946.
Hòa ước Trung-Nhật năm 1952 Nhật không thể giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Hoa Dân Quốc. Một mặt vì Nhật không có thẩm quyền, mặt khác là không thể giao một lãnh thổ đã có chủ. Tác giả bài viết cho rằng điều 2 Hòa ước Nhật-Trung 1952 "đồng nghĩa với việc chối bỏ chủ quyền được đại diện của Quốc gia Việt Nam tuyên bố công khai tại hội nghị San Francisco" là không đúng. Ông Trần Văn Hữu không hề có hành vi nào "chối bỏ chủ quyền". Ngược lại, tuyên bố của ông tại Hội nghji San Francisco mới làm cho điều 2 Hòa ước -Nhật-Trung không có giá trị.
Kết luận: Khoản 2 của hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật 1952 không hề “mặc nhiên công nhận” hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Đài Loan. Kết luận của tác giả bài báo trên BBC hiển nhiên là phiếm diện. Ngay cả Trung Quốc hiện nay cũng không thấy vịn đến Hòa ước 1952 như là một bằng chứng về chủ quyền của người Hoa tại HS và TS. Chi tiết trong bài viết của tác giả tuy không đáng kể so với nội dung bài viết, nhưng tác hại rất đáng kể cho chủ quyền của VN.
Bài viết còn để lộ nhiều điểm sai sơ đẳng khác. Nhưng không đề cập vì thuộc phạm vi bài viết này.
TNT
------------
[i] https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%20138/v138.pdf

Publié par Nhan Tuan Truong à 22:43 /Blog TruongNhanTuan
------------

7 nhận xét:

  1. Dân lương thiệnlúc 19:57 9 tháng 8, 2016

    "Trí thức" hay "Trí ngủ" khác nhau ở chỗ này đây.
    Nói ra một câu, viết ra một chữ, là một lần đánh dâu vết sáng hay vết đen của giá trị con người trí thức.
    Nhân danh thì rất nhiều, nhưng giá trị lại không chỉ tầm thường mà đáng lên án

    Trả lờiXóa
  2. Lê Nam Trung Hiếu được giới thiệu là “Giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Huế, đang là nghiên cứu sinh chuyên ngành sử quốc tế tại Bỉ” Thằng này là Việt gian bán nước, xuyên tạc lịch sử chứ giảng viên lịch sử gì.

    Trả lờiXóa
  3. Hòa ước hay chiến ước hay giao nhận đến giờ này không còn ý nghĩa gì
    vì đã mất hết rồi

    Trả lờiXóa
  4. Giá năm 1974 Bắc Việt tỉnh táo cùng VNCH đánh TC ở Hoàng Sa thì dân tộc ta đại phúc rồi!
    Hồi 1953, CNCS không "giải phóng" Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) được là do... Bắc Triều Tiên thực ra cũng ghét TC, không hợp tác toàn diện, đâm ra TC không thể cộng sản hóa hết Triều Tiên. Và chưa bao giờ Bắc Triều Tiên coi mình là thằng em, con chó, của TC!

    Trả lờiXóa
  5. Bởi rứa học sinh bây giờ có đứa đếch nào thèm học môn sử do đãng "biên soạn" ra nữa đâu.
    Trình độ thì có hạn,khốn nạn thì vô biên.

    Trả lờiXóa
  6. Rất hoan nghênh tác giả Trương Nhân Tuấn đã có một bài viết sâu sắc dễ thuyết phục người, thể hiện chân tài thực học vốn có của tác giả. Tôi tin là bài viết này rất có ý nghĩa đối với NCS Trung Hiếu, một trí thức hậu thế cả về tuổi đời và tri thức nghề nghiệp liên quan đến Trung Hiếu. Tôi nghĩ có lẽ bạn Trung Hiếu không đến nỗi không có ý thức trách nhiệm của một nhà sử học trẻ đâu, mà chưa đủ kiến thức sâu để đưa ra được những đánh giá chuẩn xác thôi. Ngay tại Hội nghị Hòa bình San Francisco, ông Trần Văn Hữu, lúc đó là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao đã công khai tuyên bố trước đại diện 51 nước khác rằng Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Lời tuyên bố này không gặp bất cứ phản đối nào của các nước trong và sau hội nghị. Đến 1974, một lần nữa, ông Trần Văn Hữu (lúc đó đã định cư ở Pháp)đã nhắc lại lời tuyên bố ở hội nghị nói trên và khẳng định một lần nữa về chủ quyền 2 quần đảo này. Đáng tiếc, đảng CS cầm quyền đã biếu không cho giặc, không phải CHỈ từ lúc đất nước còn chia đôi (1974) mà ngay khi đã thống nhất rồi vẫn để hàng loạt diện tích lọt vào tay bọn bành trướng TQ. Khó khăn đấy như không nên buông xuôi vì lịch sử không chỉ thuộc về kẻ mạnh đâu. Rồi có lúc nó "vỡ" ra khi sụp đổ thì con cháu ta phải đòi lại thôi. cHỈ thấy xấu hổ thay cho bọn bán nước.

    Trả lờiXóa
  7. Và vào năm 1958 ,ông phạm văn đồng đã ký văn bản đồng ý 2 quần đảo hoàng sa và trường sa là của trung quốc. Thời điểm đó ông đồng ký giao cho trung quốc là vì muốn mượn trung quốc để đánh nam việt nam nhưng đã mắc bẫy thằng trung quốc. Và bây giờ rất khó để lấy lại.

    Trả lờiXóa