ĐV - Nghị
định 69/2002/NĐ-CP quy định đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang thực hiện
chuyển đổi, các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi được xét giảm vốn
Nhà nước tại DN.
Trường hợp giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
không đủ để xử lý lỗ luỹ kế và nợ không có khả năng thu hồi Bộ Tài chính quyết
định chuyển giao một số khoản nợ phải thu cho tổ chức có chức năng mua bán nợ
và tài sản tồn đọng của Nhà nước xử lý.
Nghị định 206/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định 69 quy
định rõ DNNN được quyền bán các khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán, nợ
phải thu khó đòi, nợ phải thu không đòi được để thu hồi vốn trên nguyên tắc
trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định cho các tổ chức kinh doanh mua bán nợ.
Chính
phủ gánh nợ thay làm tăng nợ công
PV: Ông bình luận
gì về nghị định này của Chính phủ khi mới đây báo cáo số nợ phải trả của các
DNNN năm 2012 là gần 1,35 triệu tỷ đồng, tổng số nợ phải thu là 275.975 tỷ đồng?
TS Đỗ Thiên
Anh Tuấn: - Việc áp đặt những kỷ
luật mang tính thị trường đối với các DNNN là một đòi hỏi cấp thiết trong tiến
trình tái cơ cấu khu vực này. Gánh nặng nợ lớn của các DNNN cũng cho thấy rằng,
một nguồn lực rất lớn hiện nay đang được phân bổ cho một khu vực mà thực tiễn
đã chứng minh là yếu kém. Sự chiếm giữ nguồn lực lớn của các DNNN đã chèn lấn
các nguồn lực dành cho các khu vực còn lại trong nền kinh tế.
Trong các khoản nợ kể cả phải thu lẫn phải trả của khu
vực DNNN, một phần không nhỏ là các khoản nợ xấu xuất phát từ hoạt động yếu kém
của các DNNN này mà trong thời gian dài chúng ta không có phương cách để xử lý
triệt để.
Tiếp cận ở góc độ quản trị tài chính, việc sử dụng đòn
bẩy tài chính cao nhưng lại hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn đến rủi ro tài chính
rất lớn cho doanh nghiệp. Nhiều báo cáo trước đây đã mô tả tình trạng sử dụng
đòn bẩy tài chính cao của DNNN nhưng lộ trình giảm đòn bẩy tài chính đã không
được hoạch định rõ ràng cũng như không hề được giám sát có trách nhiệm.
Với quy định mới này, tin tốt là nó sẽ góp phần giảm
dần gánh nặng tài trợ đối với ngân sách Nhà nước, tạo áp lực để buộc các DN cần
có lộ trình tái cấu trúc lại hoạt động kinh doanh nói chung và tái cơ cấu nợ
nói riêng theo hướng hiệu quả hơn và minh bạch hơn, tiệm cận với các chuẩn mực
của thị trường.
Tinh thần tự vay, tự trả trong quy định mới được tôn
trọng hơn trước. Mặc dù vậy, tin không tốt là nó cho thấy Nhà nước đang làm
thay nhiệm vụ của DN và điều này có thể tạo ra tâm lý ỷ lại cho DNNN.
PV: - Vừa qua
trong quá trình tái cơ cấu Vinashin, khoản nợ 600 triệu USD vay các tổ chức tín
dụng nước ngoài của Vinashin đã được Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp DATC hoàn thành việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh
của Chính phủ trên thị trường Singapore. Theo ông, bằng cách này phải
chăng Chính phủ đang nhận thay nợ cho Vinashin?
TS Đỗ Thiên
Anh Tuấn: - Chắc chắn 600 triệu
USD sẽ được tính vào nợ công, làm tăng gánh nặng nợ công của Việt Nam .
Trước đây khoản nợ của Vinashin không bảo lãnh chính
thức mà bảo lãnh ngầm và bảo lãnh ngầm đó đã có căn cứ xác nhận lại khi Chính
phủ đã đứng ra chính thức bảo lãnh, tức là khoản nợ 600 triệu USD nước ngoài và
cả 12.000 tỷ đồng nợ trong nước đã làm tăng gánh nặng nợ công tương ứng, chưa
kể hiện còn khoảng 17.000 tỷ đồng nữa đang chuẩn bị tái cơ cấu tiếp.
Ngoài Vinashin, rủi ro nợ công còn nằm tiềm ẩn trong
một số các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước như Vinalines, Tập đoàn Sông Đà, Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)... do nhiều khoản nợ hiện nay đang rơi vào tình
trạng có nguy cơ gặp khốn khó tài chính.
Nếu tình hình kinh tế vĩ mô không có sự cải thiện thì
khả năng các khoản nợ đó sẽ không thể trả được, việc tái cơ cấu gặp khó khăn,
Chính phủ lại buộc phải đứng ra để tái cơ cấu nợ cho các tập đoàn, lại làm gia
tăng gánh nặng lên ngân sách.
PV: - Nếu với các khoản nợ xấu của DNNN khác cũng
được bảo lãnh như vậy, gánh nặng nợ công, khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế sẽ
như thế nào, thưa ông?
TS Đỗ Thiên
Anh Tuấn: - Hiện nợ công của Việt Nam
mặc dù được định nghĩa theo thông lệ quốc tế, tức là bao gồm nợ của Chính phủ,
nợ do Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, do Việt Nam là
nước mà ở đó khu vực kinh tế nhà nước rất lớn, đặc biệt là DNNN, nên quản lý nợ
công của chúng ta nếu chỉ tập trung vào 3 thành phần trên thì sẽ không nhận
thấy được rủi ro của nó.
Theo tôi, nếu tính cả nợ tiềm ẩn của các DNNN vào nợ
công thì tỷ lệ nợ công trên GDP không dừng lại ở con số khoảng 50% như hiện nay
mà phải trên dưới 100%, tức tương đương với ngưỡng nợ công hiện nay ở Mỹ.
Chính vì lý do đó mà trọng tâm của quản lý nợ công của
chúng ta không chỉ tập trung vào nợ của Chính phủ mà quan trọng là các khoản nợ
do Chính phủ bảo lãnh và nợ trong khu vực DNNN có nguy cơ Chính phủ phải đứng
ra bảo lãnh giống như trường hợp Vinashin.
Việc bảo lãnh cho các khoản nợ xấu của các DNNN không
chỉ gây ra tâm lý ỷ lại cho các DNNN mà còn ảnh hưởng đến một số phương diện
khác như tỷ lệ nợ công tăng làm tăng chi phí tài trợ của Chính phủ. Khi tỷ nợ
công tăng lên lãi suất vay nợ của Chính phủ tăng theo, làm tăng gánh nặng tài
trợ ngân sách để trả lãi. Hơn nữa, khi chi phí vay nợ của Chính phủ tăng
sẽ kéo theo chi phí vay nợ của khu vực tư nhân tăng theo, bởi vì Chính phủ được
đánh giá có độ rủi ro thấp hơn tư nhân nhưng khi Chính phủ đi vay nợ với chi
phí cao thì khu vực tư nhân rất khó vay được vốn rẻ.
Nói khác đi, khu vực tư nhân lúc này đã phải gánh luôn
rủi ro nợ công của Chính phủ. Điều này cũng giải thích vì sao mặt bằng lãi suất
của Việt Nam
những năm qua luôn giữ ở mức khá cao ngay cả khi nền kinh tế suy giảm. Hệ quả
của nó là làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp và làm giảm sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Quy định rõ
trách nhiệm lãnh đạo DNNN
PV: - Thực tế,
việc bán nợ đã từng có, vậy nợ này thường được xử lý ra sao, thưa ông?
TS Đỗ Thiên
Anh Tuấn: - Bán nợ từ trước đến nay
vẫn mang nặng tính hình thức, chỉ là việc chuyển đổi từ DNNN này sang DNNN
khác, không phải bán nợ theo cơ chế thị trường. Bằng cách xử lý nợ như vậy
không mang lại bất kỳ hiệu quả nào.
Một DNNN này đứng ra gánh thay cho một doanh nghiệp
nhà nước khác, nợ vẫn cứ lòng vòng trong khu vực DNNN chứ không hề mất đi.
PV: - Các
hình thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn...
vẫn là tiền từ ngân sách Nhà nước. Theo ông, nợ xấu của các DNNN cần được
xử lý như thế nào?
TS Đỗ Thiên
Anh Tuấn: - Công ty quản lý tài
sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) mới chỉ xử lý phần nợ của khu vực tư
nhân mà cụ thể hơn là xử lý phần nợ có đảm bảo trong khi đó nợ xấu trong khu
vực DNNN là rất lớn.
Theo tính toán của Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia
(NFSC) thì nợ xấu của khu vực DNNN có thể chiếm tới 70% tổng nợ xấu nhưng hiện
cách xử lý nợ của chúng ta qua VAMC mới chỉ có khả năng giải quyết tối đa phần
nhỏ 30%.
Nợ của DNNN vẫn phải chờ Bộ Tài chính thông qua một đề
án xử lý nợ xấu riêng. Việc xử lý nợ chậm trễ sẽ làm mất niềm tin đối với các
nhà đầu tư quốc tế và là trở ngại đối với quá trình tái cơ cấu các DNNN cũng
như nền kinh tế.
Bản thân mô hình xử lý nợ của VAMC hiện cũng rất bất
cập và cần phải được khẩn trương cơ cấu lại. Sau khi VAMC được tái cấu trúc lại
theo mô hình xử lý nợ khác thì lúc đó nợ của khu vực DNNN cũng phải xử lý qua
cơ chế thị trường, không thể xử lý riêng như vậy vì chúng ta đang ở trong một
nền kinh tế thị trường, tạo ra sự minh bạch và cạnh tranh công bằng thì khu vực
DNNN cũng phải có cơ chế xử lý nợ theo đúng cơ chế thị trường, không thể dùng
một đề án riêng để xử lý.
Phải có sự ràng buộc ngân sách cứng, nhất quán với
quan điểm DNNN tự vay, tự trả và Nhà nước không bảo lãnh, tài trợ, tái tài trợ
dưới bất kỳ hình thức nào.
Trách nhiệm của các lãnh đạo DN cũng phải được quy
định rõ ràng, kể cả việc hồi tố trách nhiệm của các cựu lãnh đạo.
Các khoản nợ phải có lộ trình khẩn trương để buộc các
DN phải xử lý, không thể chờ đề án của Bộ Tài chính, trong khi chờ thì các DN
đó cũng chờ, mọi người đều chờ và cuối cùng thì không ai có động thái làm gì
cả. Cần thúc đẩy nhanh và áp đặt các kỷ luật tài khóa mới để không tạo gánh
nặng nợ công và gánh nặng cho cả nền kinh tế.
PV: Xin trân
trọng cảm ơn ông!
Trả lờiXóaDân mình không phải lo âu
Nợ nần to nhỏ Đảng lo hết rồi
Còn lâu mới để dân sầu
Đảng mình vĩ đại Đảng mình vinh quang
Thất mùa thì bởi...thiên tai
Xóanợ nần..chồng chất..thiên tài đảng...ta
chừng nào tham nhũng ...thành..ma
dân tình hết khổ..mới là..vinh quang
ô thôi....dân chúng xài sang
cứ tăng thu...phí..tình tang...nợ mòn
nước mình tuy nhỏ mà...ngon
đỉnh cao trí tuệ...luôn ngon hơn người...?
chừng nào tham nhũng..chết tươi
thì người bạc tóc..mới tươi nụ cười...
Con dại cái mang!
Trả lờiXóaBạn 1008 nói xai dồi?
Trả lờiXóaCon ăn-cái ăn gấp đôi.
Đơn giản thế mà ko ai ngợi ra???
Bôi đen rùi.....nhấn nút đe le te là xong.......
sao ne duoc cai no cua vinashin chu.chi doi tra, leo lu de che mat du luan thoi. den thoi diem nao do thuan loi lai dua dau ra chiu bang bo. roi cai lung cua nguoi dan phai oan them de tra no, vi nhung no boc giau nut do do vach, nhung an tan, pha hai dat nuoc.cai the che no kem coi , bung bit, toi te la vay nhung cac cu van cu tan duong vi cai ghe quyen luc cua minh. that la lu lan, tham san si.gio mat an tham.
Trả lờiXóadung noi la con dai cai mang, khong dung dau, cai dai, nen con cung dai. ca nha deu dai.dai de an tan pha hai.
Trả lờiXóaThực chất, do Cái mà Con làm chuyện dại rồi gánh tội, còn Cái cứ cười hơn hớn, không hề chút nào chịu trách nhiệm, không chút chạnh lòng!.
XóaChính phủ có làm ra tiền đâu mà gánh nợ? đòn gánh luôn luôn ở trên vai nhân dân!
Trả lờiXóa