* MỸ CHI
Theo TS Nguyễn Đình Cung, việc thực hiện những nội
dung của Đề án tái cơ cấu kinh tế vẫn còn nhiều “sự ngập ngừng”.
Liên tưởng một cách nôm na thì nền kinh tế cũng giống
như con người. Khi cách thức sinh hoạt và làm việc không hợp lý hoặc không còn
phù hợp với hoàn cảnh mới thì cơ thể sẽ trở nên ốm yếu mệt mỏi, các bộ phận làm
việc cũng không còn hiệu quả. Chuỗi nguyên nhân này dẫn đến việc chúng ta không
giữ được thành tích làm việc như trước, và cuối cùng là thu nhập của chúng ta
giảm sút. Chất lượng cuộc sống theo đó mà đi xuống.
Khi rơi vào hoàn cảnh như vậy, điều cần thiết đối với
con người là thay đổi cách thức sinh hoạt và làm việc nói trên. Còn đối với một
nền kinh tế mệt mỏi thì điều cần thiết chính là những cuộc tái cơ cấu. Từ đầu
những năm 1980 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu không
nhỏ, đó là nhờ vào những cuộc đổi mới và tái cơ cấu này.
Từ cuộc đổi
mới năm 1986…
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới”
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Với cuộc cải cách này, Việt Nam đã đưa GDP tăng trưởng liên
tục từ năm 1986 đến 1996 với mức tăng trưởng bình quân 6,6%/năm. Lạm phát từ 3
con số được đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996. Một thành tựu vẫn luôn được
nhắc đến khi nói về giai đoạn này là Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã có dư
gạo để xuất khẩu.
Năm
1997, khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra khiến cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng
chậm lại. Từ năm 1997 – 2006, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,1%, tức vẫn
ở mức cao so với các nước khác. Trong khi đó, lạm phát được giữ ở mức thấp với
mức tăng trưởng CPI bình quân là 4,5%/năm. Năm 1999 và 2001, CPI tăng không
đáng kể. Đặc biệt vào năm 2000, nền kinh tế còn ở trong tình trạng giảm phát.
Tuy nhiên, từ năm 2007 đến nay, tăng trưởng GDP có
chiều hướng giảm với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng
trưởng bình quân của CPI là 11,8%. Lạm phát mới được kiềm chế trong 2 năm 2012
và 2013.
Cốt
lõi của những cuộc tái cơ cấu
Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2012 của WB, thành
công của Việt nam trong giai đoạn 1986 - 1997 là nhờ 3 nguyên nhân chính. Thứ
nhất là xuất phát điểm thấp và không có nhiều sự méo mó. Thứ hai, Việt
Nam
đã theo đuổi quy trình cải cách tuần tự từng bước một và từ dưới lên, tập trung
chủ yếu vào các đơn vị sản xuất.
Điều này có nghĩa là trên mỗi bước đi, hiệu quả và thể
chế các chính sách mới đều được kiểm nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp với nền
kinh tế Việt Nam .
Trong nông nghiệp, Việt Nam đã xóa bỏ tập thể hóa sản xuất nông nghiệp, thiết
lập quyền sử dụng đất, giảm vai trò của HTX, tự do hóa giá cả nông nghiệp và
khuyến khích nông dân xuất khẩu.
Nguyên nhân thứ ba là có những cải cách
chung và cơ cấu khuyến khích đúng đắn như thay đổi chính sách nhằm nâng cao
hiệu quả của các doanh nghiệp, thúc đẩy sản lượng nông nghiệp, mở cửa nền kinh
tế cho ngoại thương và đầu tư nước ngoài, cải cách chính phủ.
Nói một cách khác, các chính sách trong giai đoạn
này nhằm vào việc kích cung, sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn vật chất và con
người Việt Nam .
Trong những năm 90, sự gia tăng mạnh mẽ về vốn không
phải là nguyên nhân chính của sự tăng trưởng. Gần 40-60% tăng trưởng là
nhờ tăng năng suất và phần còn lại nhờ tích lũy tư liệu SX.
Từ năm 1997 trở đi, Việt Nam tiếp tục các bước tiến mới
trong công cuộc cải cách nền kinh tế. Thành tựu lớn nhất trong giai đoạn này là
thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN và hình thành sở Giao dịch Chứng khoán vào
năm 2000. Việc này nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và minh bạch thông tin
trong hệ thống tài chính, thúc đẩy DN hoạt động hiệu quả hơn.
Những năm 2000, Việt Nam nhận được dòng vốn cao kỷ lục.
Trong giai đoạn này,năng suất chỉ đóng góp 15% tăng trưởng, phần còn lại do
tích lũy vốn vật chất và nguồn vốn con người. Từ 2007-2010, tăng trưởng
hầu như hoàn toàn là dựa vào tích lũy vốn. Cơ sở của sự tích lũy vốn này là
tăng trưởng tín dụng. Đây là một nguyên nhân giúp cho Việt Nam giữ được mức tăng trưởng GDP và
lạm phát thấp như đã nói ở trên.
Tuy nhiên, sự lệ thuộc thái quá vào vốn hay các yếu tố
đầu vào sẽ tạo nên sự tăng trưởng không bền vững.
Theo TS. Phạm Thế Anh - Phó Viện trưởng phụ trách Viện
Chính sách Công & Quản lý, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nguyên Kinh tế
trưởng của CTCP Chứng khoán MB thì trong giai đoạn 2007 đến nay, Việt Nam đang
sa lầy vào chính sách kích thích tổng cầu để loay hoay hết kiềm chế lạm phát
lại sang thúc đẩy tăng trưởng trong khi những chính sách này chỉ có tính ngắn
hạn và nhất thời. Điều này khiến cho nền kinh tế bất ổn liên tục trong những
năm qua. "Những gói kích thích tổng cầu khổng lồ không sao lấy lại được
cho VN động lực tăng trưởng như thời kỳ trước đó".
… đến đề án
tái cơ cấu 2013, chúng ta có gì?
Đề án tái cơ cấu nền kinh tế được Chính phủ phê duyệt
vào tháng 02/2013 với các 3 nhiệm vụ trọng tâm: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ
cấu DNNN và tái cơ cấu NHTM.
Theo nhận xét của Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung tại Diễn
đàn “Phục hồi tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế: Cơ hội và thách thức” được
CIEM tổ chức vừa qua thì việc thực hiện những nội dung này vẫn còn nhiều “sự
ngập ngừng”.
Trong tái cơ cấu đầu tư công, nội dung cơ bản là
đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn
trải, phân tán và lãng phí, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước, mở
rộng tối đa cơ hội và phạm vi cho đầu tư tư nhân. Kết quả chủ yếu trong 2 năm
qua trong tái đầu tư là giảm tỷ trọng đầu tư/GDP từ mức bình quân 39% trong
2006-2010 xuống 30,5% năm 2012.
Tuy nhiên, ông Cung nhận xét trong khi cơ
chế mới về quản lý đầu tư nhà nước chưa hình thành, thì thực tiễn quản lý kiểu
cũ đang trở lại, có vẻ đang ngày càng mạnh thêm. Và như vậy, nguy cơ gia tăng
thêm đầu tư nhà nước, khôi phục lại tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, kém
hiệu quả là rất lớn.
Quá trình thực hiện tái cơ cấu DNNN cho thấy
một thực tế là tiến trình cổ phần hóa hết sức chậm. Việc thoái vốn đầu tư ngoài
ngành đang gặp nhiều khó khăn. “Nếu không thay đổi về tư duy, cách tiếp cận và
có những giải pháp kỷ luật phù hợp, tương ứng thì khó hoàn thành trước năm
2015 như Nghị quyết TW3 đã xác định.” – chuyên gia này phát biểu.
Tái cơ cấu NHTM có vẻ là hoạt động “nóng” nhất
khi đã có nhiều cuộc sáp nhập được tiến hành. Tuy nhiên tình trạng sở hữu
chéo dưới nhiều hình thức khác nhau vẫn chưa được hạn chế, chưa được minh bạch
hóa và chưa kiểm soát một cách có hiệu quả. Sự sở hữu chéo này bao gồm sở
hữu ngân hàng – ngân hàng, ngân hàng – doanh nghiệp, doanh nghiệp – ngân hàng
trong đó đặc biệt là có một số nhóm cổ đông lớn vừa sở hữu ngân hàng vừa sở hữu
doanh nghiệp, tạo thành một mạng lưới sở hữu chéo phức tạp, tinh vi và khó kiểm
soát.
Thực tế đó ở mức độ nhất định có thể làm giảm
hiệu lực, thậm chí vô hiệu hóa các quy định về tiêu chuẩn an toàn của từng tổ
chức tài chính nói riêng và của toàn hệ thống tài chính nói chung.
Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung nói thêm: "Trong các yếu
tố thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng thì thể chế là
quan trọng nhất. Bởi vì thể chế phù hợp không chỉ thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế
mà cả phát triển hạ tầng, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và ổn
định kinh tế vĩ mô vững. Tuy vậy, chất lượng thể chế của nước ta mấy năm
nay không được cải thiện".
Vì
vậy, chuyên gia cho rằng tái cơ cấu chuyển đổi mô hình tăng trưởng về bản chất
phải là cuộc cải cách lần hai. Điều đó có nghĩa là cuộc tái cơ cấu này phải tạo
ra sự thay đổi sâu rộng và nâng cấp thể chế thị trường Việt Nam để tạo ra
động lực khuyến khích mới theo chuẩn mực kinh tế thị trường phổ biến và hiện
đại. Thông qua đó, sự phân bổ lại và sử dụng nguồn lực quốc gia sẽ có hiệu quả
hơn. Và như vậy,đổi mới kinh tế phải đi cùng với đổi mới đồng bộ hệ thống chính
trị.
TS. Phạm Thế Anh cũng đề cao biện pháp cần làm hiện
nay là sử dụng chính sách “trọng cung” mà cụ thể là hỗ trợ DN đầu tư vào cải
tiến công nghệ, đầu tư vào giáo dục đại học và dạy nghề để cải thiện năng suất
cho nền kinh tế.
M.C
---------------
nhân thưc, quan diêm, kiên nghi cua Bac Cung va Bac Tuân va Bac B K Thanh dêu hay va chuân nhưng nhom lơi ich câu kêt vơi quan tham khg muôn thay dôi thê chê nhăm tiêp tuc tươc doat va danh căp quyên loi cua ND lao dông. nhưng chung quên răng khi ngươi dân da kiêt kiêt quê thi cung la luc huyêt mô dang chơ don nhom ngươi vô luân nay. xin cam ơn cac bac va mong nhân dươc nhiêu chia se hay tư cac Bac.kinh chuc cac Bac, nam ơi an lanh , hanh phuc.
Trả lờiXóaTrong một hội nghị về công tác nhân tài, PGS-TS Đỗ Minh Cương, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc Ban Tổ chức trung ương đã nói ra một sự thật: “Giả thiết nếu Bill Gates có làm việc trong hệ thống chính trị nước ta thì đến già cũng không lên được trưởng phòng…”.
Trả lờiXóaYên tâm đi, tình thế tuyệt vọng sẽ có giải pháp tuyệt vọng?
Tăng trưởng? Đùa dai thế! Sau khi trừ đi nợ nần, ta sẽ thấy nước này luôn giảm trưởng mà thôi!
Trả lờiXóaTất cả những con số tăng trưởng ,lạm phát của việt nam ta là con số MA .Những con số MA nhảy múa ca hát làm cán bộ các cấp vui sướng,phấn khởi,hồ hởi . Chỉ có người dân là bụng nép mặt nhăn...
Trả lờiXóa