Ngày cuối năm 2013, nhìn về Chủ quyền Biển-Đảo Việt Nam |
Bản đồ Việt Nam có QĐ Hoàng Sa thời Nhà Nguyễn |
BVB - Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên nắm
quyền... và được tiếp tục trong thời Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Tại tỉnh Quảng Ngãi từ lâu đời đã tồn tại Di tích miếu
Hoàng Sa ở đình làng Lý Hải thuộc đảo Lý Sơn. Công việc thực thi chủ quyền ở
khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa Nguyễn
Phúc Nguyên lên nắm quyền và đặt ra các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đặc trách công
việc khai thác và bảo vệ biển Đông từ tuyến ngoài.
Đây là một phương thức thực thi chủ quyền độc đáo của
nhà nước Việt Nam
trên các vùng quần đảo giữa biển Đông mà không có bất cứ một quốc gia nào trong
khu vực có được... Các hình thức thực thi chủ quyền này được tiếp tục và phát
triển trong thời Tây Sơn và triều Nguyễn.
Triều Tây Sơn
Thành tựu vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn là đã
bước đầu thống nhất được đất nước sau nhiều thế kỷ bị chia cắt thành hai khu
vực Đàng Trong, Đàng Ngoài. Đây cũng là lần đầu tiên sự thống nhất được thực
hiện trên phạm vi rộng lớn tương đương với nước Việt Nam ngày nay. Cũng là lần đầu tiên
toàn bộ đường bờ biển chạy dài từ Vịnh Bắc Bộ đến Vịnh Thái Lan với hàng ngàn
hòn đảo ven bờ cùng các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài biển Đông đã thuộc
về quyền kiểm soát của Nhà nước Việt Nam.
Giống như các chúa Nguyễn trước đây, Triều đại Tây Sơn
của Quang Trung - Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa và Bắc Hải
với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác vùng quần đảo xa giữa biển Đông.
Đội Hoàng Sa thời kỳ chúa Nguyễn được ấn định số lượng 70 suất và hoàn toàn chỉ
chọn người xã An Vĩnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Sách giáo khoa thời Nhà Nguyễn dạy về Chủ quyền QĐ Hoàng Sa, Trường Sa |
Hằng năm, cứ vào tháng 2 đội xuất hành gồm 5 chiến
thuyền ra Hoàng Sa, Trường Sa thu nhặt hóa vật của tàu bị nạn, tìm kiếm hải vật
và ở lại đây đến tháng 8 mới trở về nộp cho triều đình Phú Xuân.
Có lẽ vì đội Hoàng Sa không quản lý hết được vùng biển
đảo rộng lớn nên chúa Nguyễn đã quyết định đặt thêm đội thuyền Bắc Hải. Đội này
do đội Hoàng Sa kiêm quản và cũng có nhiệm vụ giống như đội Hoàng Sa nhưng chỉ
hoạt động ở khu vực phía Nam ,
từ Bắc Hải, Côn Lôn cho đến các đảo ở vùng Hà Tiên. Đội Bắc Hải tuyển người ở
thôn Tứ Chính và xã Cảnh Dương thuộc tỉnh Bình Thuận và không cố định số suất
thủy thủ như đội Hoàng Sa.
Phong trào nông dân Tây Sơn khi bùng nổ đã phát triển
rất nhanh và đến cuối năm 1773, đã giải phóng được một vùng rộng lớn từ Quảng
Nam ở phía Bắc cho đến tận Bình Thuận ở phía Nam. Như thế là toàn bộ các vùng
quê hương của hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải, từ rất sớm, đã nằm trong khu vực
kiểm soát của quân Tây Sơn.
Vào ngày 15 tháng giêng năm 1776, Cai hợp phường Cù
Lao Ré (đảo Lý Sơn) là Hà Liễu đã làm đơn trình bày rõ: "Bây giờ chúng tôi
lập hai đội Trường Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch được bao nhiêu xin
làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt vật
hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu xin dâng nạp. Nếu như có tờ
truyền báo, xảy chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm”.
Tờ
đơn đã được chính quyền Tây Sơn (vua Thái Đức) xem xét, chuẩn cho và hiện vẫn
còn lưu giữ lại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh,
huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Cũng tại nhà thờ họ Võ, đến nay vẫn còn giữ
được Chỉ thị ngày 14/2 năm thứ 9 hiệu Thái Đức (1786) của Thái Phó Tổng Lý Quản
binh dân chư vụ Thượng tướng công "Sai Hội Đức hầu Cai đội Hoàng Sa luôn
xem xét đốc suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi 4 chiếc thuyền câu
vượt biển thắng tiến Hoàng Sa cùng các sứ Cù Lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng,
bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, đá quý… đều chở về
kinh tập trung nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy
bớt các vật quý hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá đều sẽ bị trị tội".
Ngoài ra còn có bản Ngự phê lời tâu của dân xã An Vĩnh
về việc dâng nộp các loại đồi mồi, hải ba, quế hương và xin miễn sưu dịch đã
được thánh chỉ ban thưởng vàng và phê "chuẩn cho". Văn bản chép rõ:
"Niên hiệu Thái Đức năm đầu đến năm thứ 15 (1778-1792)" và "niên
hiệu Cảnh Thịnh năm đầu đến năm thứ 9 (1793-1801). Khi ấy John Barrow là phái
viên của phái bộ Macartney đi từ Anh sang Trung Quốc có ghé qua khu vực Đà Nẵng
vào tháng 6 năm 1793 (dưới triều vua Quang Toản), trong A Voyage to
Cochinchina, in the year 1792-1793 (Một chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, vào
những năm 1792-1793) mô tả: "Tàu thuyền xứ Đàng Trong có nhiều kiểu dáng
khác nhau, được dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới, thu lượm hải sản và
tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là Paracels (Hoàng Sa)".
Từ những tư liệu hiện có, đã xác định được chủ quyền
trên các quần đảo ngoài biển Đông dưới thời Tây Sơn. Thời ấy tình hình nước
Trung Hoa rất phức tạp, nhiều người chống đối chính quyền Mãn Thanh đã phải
phiêu bạt trên biển đông, triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực
lượng này quy thuận. Chiếu dụ Tàu Ô viết dưới thời Quang Trung từng vạch rõ:
"Họ’’ (dân Tàu) ra vào nơi bể nước (biển Đông), tụ tập đồ đảng lấy việc
cướp bóc làm kế sinh nhai, có lẽ cũng là việc bất đắc dĩ, phần vì thiếu miếng
ăn nên phải làm vậy, phần vì những chính sách bạo ngược xua đẩy. Quang Trung
kêu gọi họ sớm đầu hàng. Và chiều theo sở nguyện của từng người thậm chí chấp
thuận cho cả "những người có chí lớn, muốn xông pha nơi ngọn sóng cùng hải
đảo". Quy thuận những người Trung Hoa phiêu bạt trên biển Đông và sử dụng
họ tham gia vào công việc nhà nước là một chính sách quan trọng và có tính
chiến lược của vương triều Tây Sơn lúc ấy.
Sách
Thánh Vũ Ký của Ngụy Nguyên (1794-1857) cho biết: Có nhiều người Trung Hoa làm
nội ứng cho An Nam, được chúa An Nam Quang Toản phong cho làm Tổng binh hoặc
Đông Hải vương: "Triều đình đang bận việc dẹp phía Tây, chưa lo xa đến
vùng biển đảo, vì thế mà giặc hoạt động rất táo tợn. Năm đầu niên hiệu Gia
Khánh (1796) vị tướng ở Khúc Châu là Khôi Luận, Tổng đốc lưỡng Quảng là Cát
Khánh đã nhiều lần tâu vua rằng: bọn giặc biển Tàu Ô là Trần Thiên Bảo đã được
An Nam cho làm Tổng binh và cấp cho ấn" (Tr.25b).
Cũng trong cuốn sách này Ngụy Nguyên mô tả "Di
thuyền" (thuyền của quân Tây Sơn) cao, to hơn thuyền Trung Hoa, trên đặt
nhiều súng, hoành hành lâu năm trên mặt biển và nếu quân nhà Thanh gặp thì cũng
khó có thể địch được. Đây là một bằng chứng khẳng định lực lượng hải quân Tây
Sơn trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ
nhân của các vùng đảo, quần đảo giữa biển Đông.
Thời Nhà
Nguyễn
Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục
chính sách tiến ra biển Đông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên khu vực
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các triều: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị…
đã thực thi chủ quyền của mình bằng nhiều hình thức như vãn thám, kiểm tra,
kiểm soát, khai thác các hóa vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị
nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu
dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết. Những đóng góp
quan trọng của triều Nguyễn thế kỷ 19 vào lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên
biển Đông là sự tiếp nối chính sách của vương triều Tây Sơn ngày ấy.
Nhà Nguyễn quan tâm đến hoạt động xuất nhập khẩu và
kinh tế biển từ rất sớm. Các hoạt động vươn ra biển Đông của nhà Nguyễn thời ấy
chính là nhằm khẳng định chủ quyền lãnh hải và khai thác biển đảo, trong đó có
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được ghi chép tương đối đầy đủ, thống nhất
trong các bộ sử ký của nhà Nguyễn, cũng như trong các tài liệu của người nước
ngoài mà chúng ta thu thập được trong những năm đổi mới và mở cửa hội nhập...
Tờ lệnh Hoàng Sa |
Theo tư liệu lịch sử, Thích Đại Sán là một trong những
vị cao tăng người Trung Hoa được chúa Nguyễn mời đến đất Thuận Hóa để truyền
kinh Phật. Ông là người đã khai sáng chùa Thiền Lâm vào năm 1695, mở Đại giới
đàn ở chùa Thiên Mụ (Huế), làm cố vấn chính trị cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông
đến Thuận Hóa bằng đường biển, qua cảng thị Hội An. Khi trở về cố quốc, ông đã
viết cuốn Hải ngoại ký sự. Cuốn sách được xem là một cẩm nang đối với giới
nghiên cứu. Đọc Hải ngoại ký sự có thể thấy từ thế kỷ 15-17, nhà nước phong
kiến Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình trên một vùng lãnh hải rộng lớn,
trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thông qua các biện pháp: thu thuế
tàu thuyền buôn nước ngoài; thiết lập đội hải quân Hoàng Sa, hàng năm ra khai
thác hải sản, tìm vớt cổ vật, hàng hóa từ những chiếc tàu bị đắm trên vùng biển
này.
Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) có 2
đoạn viết về Hoàng Sa: "Ở ngoài núi Cù Lao Ré (tức huyện đảo Lý Sơn thuộc
tỉnh Quảng Ngãi ngày nay) có đảo Đại Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa). Ngày
trước, nơi đây thường sản xuất nhiều Hải vật chở đi bán các nơi, nên nhà nước
có thiết lập một đội Hoàng Sa để thu nhận các hải vật. Người ta phải đi 3 ngày
mới đến được đảo Đại Trường Sa ... Ở trong các hòn đảo có bãi cát vàng,
dài chừng hơn 30 dặm, bằng phẳng và rộng lớn, nước trong nhìn suốt đáy. Ở trên
các hòn đảo có vô số tổ yến, còn các thứ chim thì kể có hàng ngàn, hàng vạn
con... Trên bãi có rất nhiều vật lạ như ốc hoa, có thứ mang tên là ốc tai voi,
lớn như chiếc chiếu... Lại có thứ ốc được gọi là ốc xà cừ, thứ ốc này để trang
sức các đồ dùng... Có thứ đại mạo là con đồi mồi rất lớn. Có con hải ba (ba ba
biển) cũng giống như con đồi mồi nhưng nhỏ hơn, mai mỏng, người ta dùng trang
sức các đồ dùng...".
Lê Quý Đôn cho biết, đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy
người ở xã An Vinh (Quảng Ngãi) bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển. Ra
đi từ tháng giêng. Ra đảo tự bắt chim, cá làm thức ăn... Đến tháng 8 đội Hoàng
Sa trở về cửa Eo (cửa Thuận An) rồi lên thành Phú Xuân trình nộp các sản vật đã
khai thác được. Nghiệm thu hải vật xong đội Hoàng Sa được bán riêng những con
ốc hoa, mai hải ba, hải sâm. Sau đó các thành viên của đội được trở về nhà.
Ngoài đội Hoàng Sa, các chúa Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc hải. Đội Bắc hải
không qui định bao nhiêu người. Đội này tàu thuyền nhỏ hơn, hoạt động ở vùng
đảo Côn Lôn, ở xứ Cồn Tự thuộc vùng Hà Tiên. Họ chủ yếu khai thác hải sản, ít
khi tìm được vàng bạc, đồ vật quý giá từ các tàu đắm như ở Hoàng Sa.
Các
công trình: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú; bộ biên niên sử
của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục (ĐNTL) chính biên và tiền biên; Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ; Đại Nam nhất thống chí... cũng đều có ghi chép về Hoàng
Sa giống như Lê Quý Đôn đã miêu tả nhưng cụ thể hơn, tần suất nhiều hơn, nội
dung rõ ràng và cụ thể hơn.
Quyển 10 ĐNTL tiền biên chép: "Tháng 7 năm Giáp
Tuất (1754) dân đội Hoàng Sa gặp gió to, giạt vào hải phận Quỳnh Châu, thuộc nhà
Thanh. Tổng đốc nhà Thanh chu cấp cho lương đầy đủ rồi sai đưa về. Chúa sai
viết thư qua...". ĐNTL chính biên quyển 50, 52 cho biết: Năm 1815, 1816
vua (Gia Long) cho thủy quân và đội Hoàng Sa ra xem xét, đo đạc thủy
trình. Quyển 104 chép: "Năm 1833, vua (Minh Mạng) bảo Bộ Công rằng: Dải
Hoàng Sa trong hải phận Quảng Ngãi, xa trông trời nước một màu không phân biệt
được nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị hại. Nay nên dự bị thuyền bè
đến sang năm sẽ phái người tới dựng miếu, lập bia, lại trồng nhiều cây cối.
Ngày sau cây cối to xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc
cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời vậy".
Quyển 154 chép: "Năm 1835 dựng ‘thần từ’ ở Hoàng
Sa... Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh
tốt, giữa cồn có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bia khắc 4 chữ Vạn Lý
Ba Bình... Năm ngoái vua (Minh Mạng) định lập miếu ở chỗ ấy, vì gặp lúc sóng
gió không làm được. Đến nay mới sai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính
và giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật
liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên trái dựng bia đá, phía
trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về".
Tác giả Sơn Hồng Đức, giảng viên địa lý học ĐH Văn
khoa Sài Gòn, sau khi tham gia chương trình Điều nghiên bình địa hỗn hợp Việt
Mỹ đã có bài viết Khảo sát về quần đảo Hoàng Sa. Tác giả cho biết: "Từ Đà
Nẵng tàu khởi hành vào buổi chiều, sáng hôm sau là đến Hoàng Sa. Đảo Tri Tôn là
điểm đến đầu tiên của hải trình". Ở đảo Hoàng Sa tác giả mục kích: Có vài
ngôi mộ binh sĩ thời nhà Nguyễn đã hy sinh. Phía Đông có am thờ gọi là Đền Bà;
có pho tượng Quan Âm đặt trên bệ đá chạm trổ tinh vi, có lẽ do các ngư phủ Việt
Nam
dựng lên. Phía Bắc có ngọn hải đăng. Gần đó trước kia có căn cứ quân sự, đài
khí tượng. Đài khí tượng được chính phủ bảo hộ xây dựng và chính thức hoạt động
vào năm 1938. Ngày 9-3-1945 quân Nhật cũng đảo chính ở đây, tước khí giới trung
đội lê dương. Các công chức đài khí tượng tháo dỡ trần nhà lấy gỗ làm bè thả trôi
về tận bờ biển Quy Nhơn. Quân Pháp, rồi quân Nhật đều có xây dựng cơ sở phòng
thủ ở đây nên trong chiến tranh thế giới thứ 2 đảo bị không quân của đồng minh
oanh tạc.
Các
sử liệu và những dấu tích để lại trên quần đảo Hoàng Sa cho thấy tầm nhìn chiến
lược cũng như ý chí kiên cường, tinh thần dũng cảm và khát vọng của cha ông
chúng ta trong công cuộc khám phá, khai thác kinh tế biển và thực thi chủ quyền
lãnh hải.
(Nguồn: Báo Đất Việt)
------------
Phong kiến "thối nat" không tàu bay,tàu bò, thông tin liên lac lạc hậu,súng ống thô sơ. Vậy mà còn quản lý được Hoàng sa, Trường sa.
Trả lờiXóaBây giờ cái gì cũng hiện đại, đầy đủ vậy mà không thềm ngó ngàng gì đến HS. Nhắc đến HS thấy run run rồi.Hèn.
Tự sướng thời thế kỷ 17 làm cái gì?
Trả lờiXóaHãy tự sướng thế kỷ 21 đi.
Với ngư dân miền Trung kia kìa.....
Việt Nam giờ nên sản xuất thật nhiều thủy lôi. Nếu chiến tranh xảy ra, ta dùng tàu ngầm Kilô, máy bay rải thủy lôi khắp biển Đông, hoành triệt con đường vận tải huyết mạch này. To đầu đến mấy cũng phải lê lết quỳ lạy. Bờ biển Việt nam dài hơn 3000 kilô mét, đó chính là tàu sân bay to nhất Thế giới. Bọn bành trướng chớ có ấm đầu.
Trả lờiXóaCho thêm tiền cũng éo dám.......
XóaKẹt cái CH 1958 rùi...
Trả lờiXóaLãnh đạo Tây Sơn là người Việt chí Việt không có tư duy " đỉnh cao tri tuệ" của người Việt gốc Tàu
Trả lờiXóaNăm nay sẽ có chiến tranh ở quy mô nhỏ.
Trả lờiXóaTuy có đánh nam (chúa Nguyễn, quân Xiêm), dẹp Bắc (xóa bỏ tập đoàn PK Lê - Trịnh, đại thắng quân Thanh), nhưng thời Tây Sơn chưa hề thống nhất được đất nước (theo bản đồ như ngày nay). Nhưng trong bất kỳ tình huống nào, các chúa Nguyễn, các vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Toản), các vua Nguyễn vẫn khẳng định được chủ quyền đối với Hoàng Sa trước triều Thanh và các nước phương Tây.
Trả lờiXóaÔi, thật tự hào!
Cùng giáo sư Ngô Bảo Châu ký thứ 126 kí tên cho Hoàng Sa ra UN.
Trả lờiXóahttps://docs.google.com/forms/d/12LCwqTdqX_vOdpM5BR80hmXN1Xjnm2D6ivRTAYZFsrs/viewform