CT - Đức
Phật là người chinh phục vĩ đại nhất. Ngài chinh phục thế giới bằng vũ khí của tình
thương và chân lý. Giáo lý của Ngài soi sáng Con đường cho nhân loại để vượt
qua thế giới tối tăm, hận thù và đau khổ, để đến thế giới của ánh sáng, tình
thương và hạnh phúc.
Đó là cuộc
chinh phục vĩ đại nhất mà loài người được biết cho đến nay. Theo Phật Giáo,
phép màu nhiệm nhất chính là giúp một kẻ độc ác trở thành một người thánh
thiện. Ngài là thái tử nhưng đã từ bỏ ngai vàng để xuất gia cầu tìm chân lý
giúp nhân loại thoát khỏi khổ não. Tuy không còn dính đến quyền thế, nhưng giáo
lý của Ngài lại rất gần gũi với con người, kể cả các chính trị gia. Nhân Nội
các mới của đất nước được thành lập, Quốc hội mới đang nhóm họp kỳ đầu tiên,
tiện ngày nghỉ cuối tuần, TL mời bạn bè đọc trích đăng phần nói về Đạo Phật và
Chính trị của hòa thượng K.Sri Dhammnanda
do Thích
Tâm Quang dịch.
Rất mong các quan chức bớt chút thời gian ghé mắt đến
khi có thể, hoặc Thùy Linh nhờ ai đó in ra cho các vị ấy đọc để soi lại mình để
tu tâm, tu tính…Tất nhiên từ không đọc đến đọc đã là một chặng đường dài. Từ
đọc đến thực hành còn dài tít tắp nữa…Nhưng với thiện tâm là một Phật tử, Thùy
Linh cứ post lên đây và hy vọng, hy vọng…
Thùy Linh
PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
Đức Phật thuộc dòng
dõi vua chúa nên đương nhiên có liên hệ với các bậc quan quân và đại thần. Mặc
dù mối liên hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy
chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài. Ngài cũng không cho phép giáo lý của
Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền chính trị…Có một vấn đề cố hữu là người ta
hay đem trộn lẫn tôn giáo vào chính trị. Căn bản của tôn giáo là đạo đức, thanh
tịnh và đức tin, trong khi căn bản của chính trị là quyền thế. Khi tôn giáo
được sử dụng để thỏa mãn ý đồ chính trị, tôn giáo phải đi trước những lý tưởng
đạo đức cao cả và trở nên mất giá trị bởi những yêu cầu chính trị trần tục. Sức
đẩy của Phật Pháp không phải nhằm vào việc tạo lập các thể chế chính trị mới và
các cuộc cải tổ chính trị. Phật Pháp căn bản tìm cách giải quyết các khó khăn
của xã hội bằng cách cải tạo chính những con người thành lập xã hội ấy, bằng
cách đề nghị một số nguyên tắc tổng quát để xã hội được hướng dẫn tới tinh thần
nhân cao cả hơn, để cải tiến phúc lợi cho các thành viên và chia sẻ tài nguyên
công bằng hơn. Thể chế chính trị chỉ có một giới hạn nào đó trong việc bảo toàn
hạnh phúc và sự thịnh vượng của người dân. Không có một hệ thống chính trị nào,
dù lý tưởng đến đâu đi nữa, có có thể mang lại thực sự hòa bình và hạnh phúc
chừng nào con người còn bị chi phối bởi tham, sân và si. Dù một hệ thống chính
trị tốt và công bằng, bảo đảm nhân quyền căn bản, bao hàm sự hạn chế và quân
bình trong việc sử dụng quyền lực là một điều kiện quan trọng cho đời sống hạnh
phúc trong xã hội, người ta cũng không nên lãng phí thì giờ vào sự tìm kiếm bất
tận một hệ thống chính trị chủ yếu mà con người có thể hoàn toàn được tự do. Vì
tự do hoàn toàn không thể tìm trong bất cứ một hệ thống nào mà chỉ tìm thấy
trong những tâm đã được tự do mà thôi. Muốn được tự do, con người phải nhìn trở
vào nội tâm mình và hành hoạt làm sao để giải thoát chính mình khỏi xiềng xích
của vô minh và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đúng nhất của nó chỉ có thể đạt
được khi một người biết sử dụng Pháp để phát triển cá tính qua lời nói và hành
động chính đáng và rèn luyện tâm ý để phát triển tiềm năng tinh thần và hoàn
tất mục tiêu giác ngộ tối hậu.
Trong khi công nhận sự
ích lợi của việc tách rời tôn giáo với chính trị và những giới hạn của hệ thống
chính trị trong việc mang hòa bình và hạnh phúc, có nhiều khía cạnh của lời
Phật dạy tương đồng gần gũi với sự cải biến chính trị hiện tại.
- Trước tiên, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng của tất cả mọi người,
trước cả Abraham Lincoln. Ngài còn nói những giai tầng và đẳng cấp xã hội là
những chướng ngại nhân tạo dựng nên bởi xã hội. Theo Ngài chỉ có sự phân chia
thứ hạng con người được căn cứ trên phẩm cách, đạo đức.
- Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác xã hội và sự tham
gia tích cực vào xã hội. Tinh thần này được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình
chính trị của xã hội tiên tiến.
- Thứ ba, vì Đức Phật không chỉ định ai là người thừa kế Ngài nên
thành viên của Tăng Đoàn được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Luật, hay nói tóm lại
bởi Giới Luật. Cho đến ngày nay, thành viên của Đoàn Thể Tăng Già đều phải tuân
theo Giới Luật. Giới Luật chi phối và hướng dẫn tư cách đạo đức họ.
- Thứ tư, Đức Phật khuyến khích tinh thần trao đổi ý kiến và tiến trình
dân chủ. Điều này được thể hiện trong phạm vi Đoàn Thể Tăng Già mà tất cả thành
viên đều có quyền quyết định những công việc chung. Khi nêu lên một vấn đề
nghiêm trọng đòi hỏi sự chú ý, những cách giải quyết được đưa ra giữa các tỳ
kheo để bàn luận giống như trong hệ thống nghị trường dân chủ hiện tại. Thủ tục
theo chế độ tự quản này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng trong
các hội trường Phật Giáo tại Ấn Độ cách đây hơn 2500 năm đã thấy có những
nguyên tắc sơ đẳng của thể thức áp dụng tại nghị trường ngày nay. Một giới chức
đặc biệt giống như vị Chủ Tịch Viện được chỉ định để bảo quản phẩm cách của hội
nghị. Một giới chức thứ hai được chỉ định giống như vai trò của Nghị Viên phụ
trách tổ chức (Chief Whip) để kiểm soát túc số (tức số đại biểu qui định).
Những vấn đề được đưa
ra thảo luận dưới hình thức đề nghị. Trong một số trường hợp, vấn đề chỉ cần
biểu quyết một lần, có trường hợp phải đến ba lần. Thủ tục này đã đi trước Nghị
Viện ngày nay đòi hỏi một dự án phải được đọc lần thứ ba truớc khi thành luật.
Nếu cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải được quyết định bằng đa
số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.
Đường lối Phật Giáo
đến với quyền uy chính trị là đạo đức hóa và sự sử dụng có trách nhiệm về quyền
lực của đại chúng. Đức Phật thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một
thông điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo động hay sự phá hoại
đời sống. Ngài tuyên bố, không có một cuộc chiến tranh nào được gọi là
"chính đáng".
Ngài dạy: "Kẻ
chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả
thắng lẫn bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc". Không những Đức Phật dạy bất
bạo động và hòa bình, Ngài là vị Ðạo Sư Tôn Giáo duy nhất thân hành đến chiến
trường để ngăn cản chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự căng thẳng giữa hai dòng họ
Thích Ca và Koliyas sắp sửa khởi chiến trên dòng sông Rohini. Ngài đã thuyết
phục được Hoàng Đế A-Xà-Thế dừng binh đi đánh Vương Quốc Vajjis. Đức Phật thảo
luận sự quan trọng về điều kiện tiên quyết của một chính quyền tốt. Ngài trình
bầy cho thấy một đất nước đi đến thối nát, suy đồi, bất hạnh như thế nào khi
người cầm đầu chính phủ nhũng lạm và bất công. Ngài chống lại sự tham nhũng và
cho biết chính quyền cần hành động ra sao căn cứ trên nguyên tắc nhân đạo. Đức
Phật có lần nói: "Khi người cầm quyền quốc gia công bằng và đức hạnh, các
bộ trưởng (đại thần) cũng trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các bộ trưởng công
bằng và đạo hạnh, những giới chức cao cấp trở nên công bằng và đạo hạnh; khi
các giới chức cao cấp công bằng và đạo hạnh, đội ngữ và đoàn sinh trở nên công
bằng và đạo hạnh; khi đội ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh, người
dân trở nên công bằng và đạo hạnh". (Tăng Chi Bộ Kinh). Trong kinh Cakkavatti
Sihananda, Đức Phật dạy vô luân và tội ác, như trộm cắp, lừa dối, bạo động, sân
hận, độc ác, có thể phát xuất vì nghèo khổ. Các vua chúa và chính quyền có thể
cố gắng ngăn chận tội ác bằng hình phạt, nhưng chỉ dùng võ lực để triệt tiêu
tội ác thì vô ích. Trong kinh Kutadanta, Đức Phật khuyến dụ nên phát triển kinh
tế thay vì võ lực để giảm thiểu tội ác. Chính quyền nên sử dụng tài nguyên quốc
gia để cải tiến điều kiện kinh tế trong nước. Có thể bắt tay vào việc phát
triển nông nghiệp và mở mang nông thôn, hỗ trợ tài chánh cho các nhà thầu và
người kinh doanh, trả lương xứng đáng cho công nhân để duy trì cuộc sống tươm
tất có nhân cách. Trong kinh Jataka, Đức Phật dạy mười điều cần thiết cho một
chính quyền tốt được gọi là "Dasa Raja Dharma". Mười điều này có thể
áp dụng cả đến ngay nay cho bất cứ một chính quyền muốn trị nước hòa bình.
Những nguyên tắc đó là:
1. Không thành kiến và tránh ích kỷ.
2. Duy trì đặc tính luân lý cao.
3. Sẵn sàng hy sinh lạc thú riêng tư cho hạnh phúc của
người dân
4. Chân thật và hết sức liêm chính.
5. Sống cuộc đời thanh bạch cho người dân tích cực noi
gương.
6. Không bị bất cứ hình thức sân hận nào.
7. Bất bạo động.
8. Thực hành hạnh kiên nhẫn.
9. Tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa bình
và hòa hợp.
Về tư cách của người lãnh đạo, Ngài khuyên thêm:
1. Người cầm quyền tốt
hành động vô tư, không thành kiến và không kỳ thị giữa nhóm này với nhóm khác.
2. Người cầm quyền tốt
không ấp ủ bất cứ loại sân hận nào với bất cứ ai.
3. Người cầm quyền tốt
phải tỏ ra không sợ hãi bất cứ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy
đúng.
4. Người cầm quyền tốt
phải có sự hiểu biết rõ ràng luật lệ thi hành. Không phải là luật lệ phải thi
hành chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành luật ấy. Luật pháp phải
được thi hành một cách hợp lý và hợp với lẽ phải thông thường.-(Kinh Cakkavatti
Sihananda)
Kinh Milanda Panha có
nêu như sau: "Nếu một người thiếu tư cách, thiếu khả năng, không thích
hợp, bất lực và không đáng làm vua, tự mình tôn phong làm vua hay người trị vì
với uy quyền to lớn, kẻ đó sẽ bị hành hạ khổ sở...phải chịu nhiều hình phạt bởi
người dân, vì thiếu tư cách và không xứng đáng, đã tự mình lên ngôi vua bất
chính". Người cầm quyền, cũng như những người khác vi phạm và đi quá giới
đức và nguyên tắc căn bản của tất cả luật lệ xã hội trong nhân loại, thì cũng
phải chịu hình phạt. Hơn thế nữa, người cầm quyền bị khiển trách đã sử sự như
một tên ăn cắp của công. Câu chuyện trong Kinh Jataka có nêu rằng, người cầm
quyền mà trừng phạt người vô tội, không trừng phạt kẻ có tội thì không xứng
đáng trị vì đất nước. "Nhà Vua lúc nào cũng phải tự mình thăng tiến, và
cẩn thận quán chiếu hạnh kiểm của mình trong hành vi, lời nói và tư tưởng, luôn
luôn cố gắng tìm tòi và lắng nghe ý kiến đại chúng xem mình có phạm lỗi lầm hay
sai sót trong việc trị vì vương quốc. Nếu có sự trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca
khi bị thiệt hại bởi sự bất lực của người cầm quyền do chính sách hình phạt,
thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự tham nhũng dưới bất cứ hình thức
nào, và người dân sẽ chống lại nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Trái
lại, nếu nhà vua trị vì minh chánh, thần dân sẽ chúc phúc ngài: Hoàng Thượng
Muôn Năm". (Majjhima Nikaya - Trung Bộ). Đức Phật nhấn mạnh về trọng trách
của người cầm quyền biết dùng sức mạnh quần chúng để cải tiến phúc lợi cho dân
như Hoàng đế Asoka đã làm vào thế kỷ III (TCN). Asoka, một tấm gương sáng chói
về nguyên tắc này vì vua đã quyết định sống đúng theo Giáo Pháp và truyền bá
Chánh Pháp để phục vụ dân chúng và nhân loại. Vị Hoàng Đế này tuyên bố không
dùng võ lực với quốc gia lân bang, cam kết thiện chí này bằng cách gửi các sứ
giả cùng với thông điệp hòa bình và không gây hấn đến những vị vua ở xa. Ngài
đã động viên sự phát huy các đức hạnh xã hội như chân thật, trung thành, từ bi,
nhân ái, bất bạo động, cư xử đứng đắn với mọi người, không phung phí, không hám
lợi, và không làm tổn thương thú vật. Ngài khuyến khích tự do tôn giáo và sự
tôn kính lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài tổ chức các cuộc thuyết Pháp định kỳ
cho các đồng bào tại nông thôn. Ngài phụ trách các công việc lợi ích công cộng,
như thiết lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc men, trồng cây cối
trên các đường lộ và rừng, đào giếng, xây cất các trạm tiếp tế nước và các nhà
tạm trú. Ngài triệt để cấm ác độc với thú vật.
Có đôi khi Đức Phật
được xem như một nhà cách mạng xã hội. Chẳng hạn như Ngài lên án hệ thống giai
cấp, xác nhận sự bình đẳng giữa mọi người, lên tiếng về sự cần thiết cải tiến
các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc chia sẻ hợp lý
của cải giữa người giàu và người nghèo, nâng cao địa vị phụ nữ, khuyến cáo tinh
thần hợp tác nhân đạo trong chính quyền và nền hành chánh, dạy rằng không nên
điều hành xã hội bằng lòng tham mà phải bằng lòng tôn trọng và từ ái đối với
dân chúng. Ngoài những việc như trên, sự đóng góp của Đức Phật cho nhân loại
còn vĩ đại hơn nhiều vì Ngài đã phát động một điểm mà từ trước tới nay chưa có
một nhà cải cách nào đã làm bằng cách đi ngược vào gốc rễ thâm sâu nhất của
tính bất thiện nằm trong tâm con người. Cải cách chân chính chỉ có thể có hiệu
quả khi được thực hiện ngay trong tâm con người.
Những cải cách bằng
sức mạnh trên thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có gốc rễ. Nhưng những
cải cách nẩy sanh từ kết quả của sự thay đổi tâm thức bên trong con người mới
có gốc rễ lâu dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ rút dinh
dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những thôi thúc do bản năng của dòng
sống đang trôi chảy. Cho nên những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã
chuẩn bị sẵn sàng phương cách, và chúng chỉ được duy trì được bao lâu mà con
người còn biết bồi dưỡng sinh khí cho chúng bằng tình yêu thương chân lý, công
bằng, và đồng loại. Học thuyết của Đức Phật giảng dạy không căn cứ trên "Triết
Lý Chính Trị". Học thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích con người
thụ hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho thấy con đường đạt Niết Bàn. Nói
một cách khác, mục đích rốt ráo là chấm dứt ái dục trói buộc con người trong
thế giới này. Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm tắt sự xác định ấy như sau:
"Con đường dẫn đến lợi lạc trần gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách
sống một cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác". Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là người Phật Tử không thể, hay không nên tham gia vào hoạt động
chính trị vốn là một thực thể trong xã hội.
Cuộc sống của những
thành viên trong xã hội được hình thành bởi luật lệ và quy tắc, bởi những cải
cách kinh tế hợp pháp trong nước, những sự canh tân về tổ chức ảnh hưởng bởi
các nguyên tắc chính trị của xã hội ấy. Tuy vậy, nếu một Phật tử muốn hoạt động
chính trị, người đó không nên dùng tôn giáo để đạt uy quyền chính trị, và cũng
không nên khuyến bảo những ai đã từ bỏ cuộc đời trần tục sống một cuộc đời
thanh tịnh, đạo hạnh tham gia hoạt động chính trị. //
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu
tại Sài Gòn năm 1963 để phản đối
chính sách đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm.
Lời cuối của Hòa thượng Thích Quảng Đức trước khi tự thiêu:
"Vì đạo pháp tôi xin hiến thân giả huyễn nầy để cho Pháp Nạn được giải thoát. Ngày mai nầy tôi sẽ từ giã cõi đời, hẹn gặp hai Thầy ở cảnh giới Cực Lạc của Ðức Phật A-Di-Ðà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói điều này với các Ngài lãnh đạo:
Một là, sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ còn lưu lại một vật gì đó cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời Phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Ðạo Pháp và đó cũng là thành quả đời tu hành của tôi.
Hai là, khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật-Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh-đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì quý Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái, v.v... để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật-Giáo sẽ không thành.
Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các Thầy có cảm thấy triệu-chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan qua ngày khác.".
/ Theo Chúng ta /
-----------------
Cứ nghe "Người cầm quyền..." là thấy thua rồi! Chẳng có ý nghĩa gì khi bạn mong có được việc người khác cầm quyền mình. Chán!
Trả lờiXóaĐức Phật không muốn cai trị ai hết. Ngài chỉ kêu gọi tình yêu thương. Ngài từ bỏ "quyền lực".
He...he...mới đây cả thế giới giật mình, Nguyễn Tổng Trọng còn kể chuyện Đường Tăng đi thỉnh kinh để 'vuốt ve' cái cục nghẹn "Bộ phận không nhỏ'.
Trả lờiXóaVớ vẩn dài dòng ai đọc....
Trả lờiXóaĐạo giáo mác lê đã cảm hóa được đạo Phật rồi nghen...
Đây..đây.... thích thanh quyết, đàn em thích thịt chó, đệ tử thích đủ thứ.......
Giáo lý nhà Phật hay vậy mà nhiều bác cầm quyền có chịu nghe theo đâu, còn chụp cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người ! Họ bài bác vì nó khác với giáo lý của họ, bài bác nhưng họ rất muốn nâng giáo lý của ho lên thành một thứ tôn giáo, cũng học tập, giáo huấn, tôn thờ, mở lớp, mở viện, tốt nghiệp, bằng cấp.....Đủ trò, chỉ thiếu điện thờ, khói nhang.
Trả lờiXóaChưa biết giáo lý nhà Phật sẽ lan tỏa ra sao nhưng thắp hương khấn phật cũng thấy lòng mình thanh thản, hướng thiện,có đức tin chứ không chỉ là niềm tin.
Chưa biết giáo lý cộng sản sẽ dẫn con người đến đâu mà 100 năm nữa chưa chắc đã có CNXH hoàn thiện, tức mất hết niềm tin đành cứ phải tham, sân, si mà sống vậy.
Giáo lý cộng sản không phải là tôn giáo vì vậy sẽ không bao giờ thay thế được cho tôn giáo.
Đến giờ này mà vẫn chưa biết Mỹ dàn dựng kịch bản tự thiêu này hay sao ?
Trả lờiXóaNhưng trước hết,cần phải định nghĩa lại cho đúng 2 từ trên.Tự thiêu là chính
người đó trực tiếp phải làm từ A đến Z,tuy thế trường hợp này thì không mà
có đến 2 người tiếp tay: đại đức Thích Chân Ngữ đổ xăng và đại đức Thích Trí
Không (sau hoàn tục) là Trần Quang Thuận làm người chở HT.TQĐ.đến và quẹt
lửa (Xem hình của Malcolm Bronwne thì mới thấy rõ 2 người nói trên).
Giai đoạn đầu,Mỹ mượn tay một nhóm PG.để lật đổ TT.NĐD.
và giai đoạn sau bị cán bộ nằm vùng và miền Bắc xâm nhập để lũng đoạn nhóm
PG.tranh đấu gọi lả PG.Ấn Quang này.
Đã ngu còn thích tỏ vẻ nguy hiểm, cho ông 10 triệu USD để xem ông có dám châm lửa tự quẹt mình như thế k mà còn bảo dàn dựng, ông chả la làng la xóm lên ấy chứ. Tôi chả tin mấy cái tài liệu vớ vẩn ông đọc, tôi chỉ tin nếu HT.TQĐ không có niềm tin tuyệt đối vào PG, vào sự siêu thoát diệu kỳ của đấng giác ngộ thì không có động cơ nào hơn có thể làm đc điều kỳ diệu đó.
XóaBàn luận về chính trị mà chỉ dựa vào những gì thấy được
Xóaởmặt ngoài là phiến diện,một chiều vì đã không thèm đếm
xỉa gì đến những hoạt động bí mật ở đàng sau,ở trong hậu
trường hay nói hụych toẹt ra là hoạt động tình báo.
Chính trị không phải đơn giản như bác tưởng bỡ đâu nhé
và bác nên học hỏi thêm cho kỹ trước khi bình loạn !
Trân trọng.
Đơn giản Đức Phật chỉ là chán đời. Người không thích nói gì. Chỉ có đám hậu sinh gán ghép cho Người nói đủ thứ. Bàn luận dài dòng, rồi giận dữ khi người khác không chịu nghe. Đó đâu phải là Vô Thường.
Trả lờiXóaMột bài viết rất sâu sắc
Trả lờiXóaTôn giáo là tôn giáo và chính trị là chính trị.
XóaKhông nên nhập nhằng,làm rối rắm một cách nguy
hiểm như thế vì dễ bị chính trị lợi dụng làm công cụ
của bọn cầm quyền không chính danh !
Đại đa số người đời chưa phải là thánh nhân hay
đều có tính "bổn thiện" như nhau cả.
Đức trị đã chứng tỏ sự không hữu hiệu,do đó mà
các tư tưởng gia về chính trị đã bác bỏ nó và thay
bằng pháp trị từ lâu rồi !