Chỉ có
sát-na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay
tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm
được như thế thì trong tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với
chúng ta...
Dẫn nhập
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa
hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước.
Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có
còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến
mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương
đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi
ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng
sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta
sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây
39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
Những thông điệp mà tôi học được từ bài học này nhắc
nhở rằng, tôi phải thực tập lời Phật dạy một cách nghiêm túc. Tôi không nên để
thời gian trôi qua một cách vô ích mà không làm điều gì có ý nghĩa. Suốt 39 năm
qua, tôi đã nhọc công đi tìm ý nghĩa của cuộc sống của chính tôi. Tôi luôn luôn
tự hỏi: “Phải chăng tôi có sự sống?”, “Mạng sống của tôi sẽ kéo dài được bao
lâu?”, “Phải chăng mạng sống của tôi chỉ kéo dài trong một sát-na ngắn ngủi,
hay là kéo dài hàng trăm năm với sự tiếp nối của một dòng chảy từ sát-na này
đến sát-na khác?”.
Cuộc đời là đau khổ. Chắc chắn vậy, không còn nghi ngờ
gì về điều này. Sự sống là đau khổ vì mọi thứ đều vô thường. Đây là sự thật đầu
tiên trong Tứ diệu đế. Phải chăng tất cả chúng sanh đều khổ đau kể từ ngày đầu
tiên của cuộc đời cho đến những hơi thở cuối cùng? Chúng ta có thể thoát khỏi
sự khổ đau này ngay bây giờ được không, hay phải đợi đến kiếp khác, hoặc đợi
đến ngày chúng ta trở thành bậc Giác ngộ như Đức Phật? Trong quá trình tu tập
theo đạo Phật, chúng ta có thể có được một đời sống ý nghĩa hay không, hay chỉ
là sự vật lộn để tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống? Phải chăng cuộc sống chỉ có ý
nghĩa trong trạng thái tâm thức hoặc ở cơ thể vật lý mà thôi? Chúng ta có thể
tách biệt trạng thái tâm thức và cơ thể vật lý của mình để có được một đời sống
hạnh phúc hay không?
Trong đạo Phật, tôi tin là những câu hỏi như thế không
có gì mới. Trong quá khứ, đặc biệt là trong buổi bình minh của đạo Phật, Đức
Phật đã giải thích khái niệm thời gian như thế nào, và các vị đệ tử của Ngài đã
hiểu thời gian ra sao? Sau khi Ngài giác ngộ, ý nghĩa cuộc sống của Đức Phật là
gì? Chúng ta có thể noi gương Đức Phật trong đời này hay không? Để tìm ra ý
nghĩa của cuộc sống, tôi cần phải quay lại tìm hiểu những học thuyết về thời
gian đã được giải thích trong kinh điển thời kỳ đầu của Phật giáo Nguyên thủy
cho đến giai đoạn phát triển mạnh nhất của Phật giáo Đại thừa. Trong bài viết
này, tôi khảo sát về khái niệm thời gian trong đạo Phật, để từ đó tìm ra ý nghĩa
của cuộc sống.
“Thời gian”
trong Phật giáo Nguyên thủy(1)
Ngay sau khi giác ngộ, giáo lý đầu tiên mà Đức Phật
Thích Ca thuyết giảng là giáo lý Tứ diệu đế. Khỏi cần phải nói, tất cả chúng ta
đều biết chân lý đầu tiên trong bốn chân lý này là “Cuộc sống là khổ đau”. Sở
dĩ như thế là vì tất cả mọi thứ đều vô thường (anitya). Mọi pháp (dharma) đều
do duyên mà sinh khởi, chúng được kết hợp bởi các yếu tố khác nhau. Tất cả các
pháp đều có bốn đặc tính, đó là: thành (jāti), trụ (sthiti), hoại (jarā), vô
thường(anitya). Theo ngài Thế Thân thì bốn đặc tính này là những đặc tính
cơ bản của vạn pháp. Bốn đặc tính này đã đưa đến sự phát sinh tất cả các luận
thuyết của Phật giáo Nguyên thủy.
Khái niệm thời gian được diễn tả trong trường phái
Phật giáo Nguyên thủy bằng thuật ngữ ‘samaya’, bao hàm cả ý nghĩa về ‘điều
kiện’ và ‘thời gian’. Trong số nhiều luận giải, luận giải đề cập thường xuyên
nhất đến vấn đề thời gian là quyển chú giải về bộ Pháp tụ (Dhammasaṅgani) của ngài Buddhaghosa (Phật Đà Da Xá). Ở đấy,
khái niệm ‘samaya’ được chia làm 5 loại(2) như sau:
1. Kāla (thời gian): Miêu tả sự tiếp nối của
một hoàn cảnh, như thể là thời gian của sự lạnh lẽo hay sự đau ốm… Từ này lại
được phân ra làm 9 loại: a. Sát-na tâm (citta-kara); b. Pháp (dhamma) của
các sinh vật, ký ức của pháp, còn có thể hiểu là pháp ở trong quá khứ, hiện tại
và vị lai; c. Quá trình thứ lớp (dhammapatti) của mọi sự vật hiện
tượng, ví dụ như thời gian khi những hạt giống nảy mầm; d. Sự xuất hiện của mọi
thứ (dhamma-lakkhaṇa), ví
dụ như thời gian được sinh ra hay là thời gian của tuổi già; e. Thời gian của
sự nhận lãnh(dhammakicca); f. Hành động của con người (sattakicca), ví
dụ như thời gian tắm rửa hoặc ăn cơm; g. Những hình thái của sự vận động (iriyāpatha), ví
dụ như đi, đứng, nằm, ngồi; h. Những diễn tiến của các hiện tượng tự nhiên (candimāsuriyādi,
parivattana), ví dụ như diễn tiến của buổi sáng, buổi chiều hay là buổi
tối và sự tiến triển của một ngày; i. Những sự phân chia thời gian (kālasaṅdaya), ví dụ như nửa tháng, một tháng, một năm.
2. Samūla (nhóm): Một nhóm trong ý nghĩa của sự
tích tụ của pháp (dhamma-puñja), chẳng hạn như cảm giác, được dùng để
từ chối ý niệm của một thực thể cá nhân. Học thuyết nhân quả trong Phật giáo
cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại nhờ vào nhân, duyên, quả. Loại này
được hướng đến việc chống lại quan điểm sai lầm rằng, một thứ có thể sinh khởi
độc lập với những thứ khác, vì thế nó chứng minh cho sự phụ thuộc lẫn nhau của
tất cả các pháp.
3. Hetu (nguyên nhân): Nói lên sự phụ thuộc
lẫn nhau của mọi hiện hữu, ví dụ như để nhìn được thì nhãn thức phải hội đủ
điều kiện.
4. Khaṇa (tính nhất thời): Đề cập đến sự kết nối tâm thức từ quá khứ đến hiện
tại và chỉ nói đến tâm thiện chứ không nói đến tâm bất thiện. Khi tính nhất
thời đang trôi chảy liên tục từ sát-na này đến sát-na khác trong quá khứ, rất
khó để nắm bắt sát-na ấy. Chính tâm của con người được xem là tồn tại mang tính
nhất thời. Tính nhất thời rất khó nắm bắt, cho nên để cho cái tâm nhất thời ấy
khởi lên và giữ được sự tĩnh tại thì không phải dễ. Loại ‘khaṇa’ này nói đến đạo đức của Phật giáo, bởi vì tính nhất
thời được xem là chỉ liên hệ với tâm thiện. Nguyên tắc đạo đức là dùng sát-na
trong việc thực hành những hạt giống thiện.
5. Samavāya (sự kết hợp): Đề cập đến sự hòa
hợp trong các duyên (paccaya-sāmaggī) và có chủ đích là để chứng minh
rằng tâm thức có sự kết hợp lẫn nhau trong hiện tại. Nói cách khác, nó chỉ ra
rằng thời gian là phụ thuộc và liên hệ lẫn nhau (aññamaṇṇ‘upekkhā). Thời gian được chỉ cho thấy không có
thực thể và không có sự hiện hữu của Đấng Tạo hóa.
Chúng ta nên biết rằng, mọi thứ đều vô thường vì chúng
đều tồn tại trong thời gian hạn cuộc. Sự tồn tại giới hạn này được đề cập đến
trong Phật giáo Nguyên thủy như là một sát-na (kṣaṇa). Hơn nữa, hầu hết các trường phái của đạo Phật đã sớm giải
thích sự thay đổi của mọi thứ như là sự tiếp nối của những trạng thái nhất thời
(kṣaṇika). Nguồn gốc của khái niệm này dĩ nhiên được
tìm thấy chân lý mà nó đã được chấp nhận bởi một số trường phái Phật giáo và
cũng được tìm thấy bên ngoài đạo Phật, chân lý này cho rằng hai điều kiện tâm
lý không thể cùng tồn tại trong một ý niệm, bởi vì phạm vi của ý thức là duy
nhất(3). Vì thế mà hầu hết những trường phái Phật giáo ở thời kỳ đầu, chẳng hạn
như phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), Hóa địa bộ (Mahīśāsaka),
Kinh lượng bộ (Kāśyapiva), Độc tử bộ (Vāsīputria), Tây sơn trụ bộ (Pūrvaśaila)
và Đông sơn trụ bộ (Apasaśaila) luôn cho rằng tất cả mọi thứ đều giả tạm. Khi
tất cả mọi thứ hợp lại đều là vô thường, Đông sơn trụ bộ cho rằng, tất cả mọi
thứ đều chỉ kéo dài trong một sát-na của ý niệm (ekacitakkahaṇika), bởi vì chúng đều vô thường. Có gì khác nhau
giữa một thứ nhanh chóng bị phá hủy và một thứ khác tồn tại trong thời gian
dài?(4)Trước khi đưa ra bất kỳ ý niệm nào về câu hỏi này, tôi đưa ra một định
nghĩa về từ ‘sát-na’ của một vài trường phái Phật giáo thời kỳ đầu.
“Thời gian”
trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa)
Khoảng thời gian của sát-na là gì? Điều này đã đề cập
đến trong đoạn trước rằng, sát-na là một chốc lát đơn lẻ của ý niệm
(ekacitakkahaṇika).
Nhưng ý niệm đơn lẻ này có thể được đo lường là bao lâu? Chúng ta có thể dùng
một khoảng thời gian rất nhỏ là ‘giây’ để đo lường sát-na. Ông Louis de la
Vallée Poussin, khi nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này, đã diễn tả rằng: “Trong
Phật giáo, cũng giống như trong tất cả thế giới, từ sát-na được hiểu như là một
khoảng thời gian rất ngắn, nếu chúng ta so sánh với thời gian của ngày, đêm,
hoặc giờ. Vì thế, để có được khoảng thời gian chính xác của một sát-na, chúng
ta cần so sánh khoảng thời gian của nó với khoảng thời gian của một giây. Theo
Thuyết nhất thiết hữu bộ thì 120 kṣaṇa (sát-na) = 1 tatkṣaṇa, 60 tatkṣaṇa = 1 lava, 30 lava = 1 muhūrta. Vì thế, 1 kṣaṇa = 0,013333 giây.(5)
Hơn nữa, sát-na (kṣaṇa) được trình bày trong Śārdūlakarṇa có hơi khác: 16 mimeṣas = 1 kāṣthā, 16 kāṣthās = 1 kalā, 64 kalās = 1 muhūrta. Trong Manu, 18
mimeṣa = 1 kāṣthā, 30 kāṣthās = 1 kala, 30 kalas = 1 muhūrta. Những sự đo lường
này có một vài khác biệt trong một số trường phái như Puranas, Kautiliya và
Bhasakara. Họ đưa ra: 100 truṭis = 1 tatpara, 30 tatparas = 1 nimeṣa, 18 nimeṣas = 1 kāṣthā. Theo Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá, có 65
sát-na (kṣaṇa) trong khoảng thời gian một người lực sĩ khỏe mạnh
khảy ngón tay.(6)
Sự đo lường
của sát-na theo kinh Lượng bộ
Ngài Thế Thân đã đề cập đến trong Luận
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá rằng: Nếu các duyên hội đủ (pratyaya) thời
gian cần thiết để một pháp (dharma) sinh khởi, hay nói đúng hơn, thời
gian để cho một pháp (dharma) diễn tiến từ một nguyên tử này (paramāṇu) đến một nguyên tử khác (paramāṇu) (7), ngài Thế Thân đã đưa ra một định nghĩa
khác về sát-na, đó là: “Sát-na, hay là chốc lát, là khoảng thời gian mà những
đặc tính đạt được sự hoạt dụng của nó”(8).
Tuy nhiên, Thuyết nhất thiết hữu bộ xây dựng học
thuyết của họ dựa trên một sự khảo xét khác, và sự khảo xét ấy được xem là gần
với giáo lý của đạo Phật hơn. Họ cho rằng, cùng một người không thể nào trong
cùng một lúc mà vừa hoàn thành một hành động (karma-nghiệp) vừa nhận kết quả mà
hành động ấy đưa đến(vipākaphala), khi một hành động là một thứ thuộc về
tương lai, và khi đương sự nhận lấy kết quả từ một hành động gây ra trong quá
khứ. Vì thế, nếu những thứ thuộc quá khứ và tương lai không tồn tại, những hành
động trong quá khứ cũng không hiện hữu, không thể tạo ra quả. Có lẽ phải thú
nhận sự táo bạo của tư tưởng này, trong trường hợp này họ đã rất khéo léo. Bởi
vì đạo Phật không chấp nhận tất cả những thực thể cá nhân, giống như “ātman”
(ngã) ở trong Áo nghĩa thư (Upaniṣads) và “jīva” (linh hồn bất tử) của đạo Ni Kiền Tử,
có thể hoạt động như là sự hỗ trợ cho cấu trúc của sự đáp trả về những hành vi
đã tạo.(9)
Những trường phái khác không chấp nhận học thuyết về
tính giả tạm của mọi sự vật, hiện tượng. Trong số đó, phái Thượng tọa bộ (Theravādin)
chú ý đến sự thật rằng đại địa, đại dương, vua của tất cả những ngọn núi, nước,
lửa, gió, cỏ, rừng núi, cây cối kéo dài lâu hơn một sát-na đơn lẻ của ý niệm.(10) Thật
ra đây là một sự khảo xét khách quan của Thượng tọa bộ về khoảng cách của thời
gian. Họ chỉ xem xét đến khía cạnh bên ngoài của sự vật mà không chú ý đến
những thuộc tính bên trong sự vận hành của các sự vật.
Đối với kinh Lượng bộ (Sautrāntika) và Thí
dụ bộ (Dārṣṭānika), học
thuyết của họ mềm dẻo hơn, họ đã tiếp cận những điều khó khăn này một cách khéo
léo. Về phía Thí dụ bộ thì khẳng định chắc chắn rằng, những nét đặc trưng của
những phức hợp không phải là những thực thể (dravya) vì chúng được
bao gồm ở trong những phức hợp bị tách rời ra của ý thức (cittaviprayuktasaṃskāra), ví dụ như những khái niệm trừu tượng
không có thực chất bên trong.(11) Hơn nữa, theo họ thì sát-na là sự trống
rỗng của ba thuộc tính: sinh khởi, hủy hoại và chấm dứt, bởi vì nó sở hữu
chúng, nó phải được sinh ra, bị hủy hoại và chấm dứt tất cả cùng một lúc, điều
này rõ ràng là không thể được.(12)
Kinh lượng bộ (Sautrāntika) thì nhận ra đặc
tính về khoảng thời gian (sthiti), nhưng cũng như Thượng tọa bộ, chỉ
là sự cải biến về điều đó mà thôi (sthityanythātva).(13) Trong những
học thuyết của họ có một lượng nhất định về thuyết tiến hóa, đối nghịch với
tính cấp thời thuần túy của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin). Xu
hướng này lại được tìm thấy trong Thành duy thức luận
(Vijñaptimātratāsiddhi), theo đó thì những đặc tính ấy có thể không chỉ là một
sát-na mà còn là một duyên kéo dài nhất định.(14) Vì thế, dường như họ đã
điều chỉnh quan điểm này từ sự kết hợp giữa ý tưởng của Thuyết nhất thiết hữu
bộ (Sarvāstivādin), những người cho rằng những đặc tính là tương ứng với
sát-na, và ý tưởng đối nghịch của Chánh lượng bộ (Sammatīya), cho
rằng những đặc tính ấy tương ứng với một duyên kéo dài(15). Thật ra thì dường
như Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), trường
phái đã đem lại giá trị thật cho sát-na, ví dụ như sự thật của khoảng thời
gian, cũng là những người thuộc thuyết tiến hóa. Họ giữ quan điểm đối lập với
Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), rằng những sự vật sinh khởi dần
dần chứ không phải cùng một lúc(16).
Tuy nhiên, những học thuyết của các trường phái ấy đều
có chung một đặc điểm, đó là khó hiểu, nhưng lại có vẻ mâu thuẫn với học thuyết
trước đây, khi nó cho rằng không có một sát-na chính xác của sự sinh khởi, cũng
không có sát-na chính xác của sự chấm dứt; vì thế, trong trường hợp của những
phức hợp, chỉ có hai lần mà ở đấy chúng chưa được sinh ra, và ở đấy chúng đã
được sinh ra, hoặc là ở đấy chúng chưa chấm dứt, và ở đấy chúng đã được chấm
dứt(17).
Chỉ có hai trường phái mà sự phán đoán của họ về bản
chất của sát-na làm cho chúng tôi yên tâm, đấy là Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) và
Thí dụ bộ (Dārṣṭānika),
vì họ giữ những quan điểm hoàn toàn đối lập nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) thì
thiếu thận trọng khi lấy chủ nghĩa sát-na triệt để làm một trong những nền tảng
cho học thuyết của họ, điều này đã đưa đến việc giới thiệu quá nhiều yếu tố
trong sát-na, sự nâng lên, sự dày lên, sự nặng lên của một nguyên tử của thời
gian với tất cả những tiềm năng của nó, tính hiệu quả của khoảng thời gian. Như
là một sự phản ứng đối với điều này, Thí dụ bộ (Dārṣṭānika) đưa ra vế trước của một phương trình (sát-na =
0), rồi bị kẹt cứng vào nó, không chịu nhìn thấy thứ gì khác ở trong sát-na,
ngoại trừ sự vô dụng của nó, và điều này đã kéo họ trở lại với quan điểm tiến
hóa, một quan điểm có tính chính thống hơn và phổ thông hơn.(18)
“Thời gian”
được diễn tả như là: Quá khứ, hiện tại và tương lai
Một trong những triết gia Ấn Độ đã diễn tả khái niệm
thời gian qua quá khứ, hiện tại và tương lai là Buddhadeva. Mặc dù vậy, chúng
ta không thể tiếp cận với những công trình nghiên cứu của ông qua ngôn ngữ
Sanskrit hoặc tiếng Hoa, hay những bản dịch tiếng Tây Tạng, mà chỉ có thể tham
khảo trong Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā)(19). Đoạn văn sau được trích từ Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā) sẽ cho chúng ta thấy quan điểm thời gian của
Buddhadeva: “Một pháp (dharma) lưu chuyển trong ba thời gian, đó là quá khứ,
hiện tại và tương lai, và nó phụ thuộc lẫn nhau từ những sát-na trước đến
sát-na sau. Giống như cùng một người phụ nữ mà khi thì được gọi là “mẹ”, khi
thì gọi là “con gái”. Do vậy, với sự liên hệ đến trước và sau, khi có thứ gì đó
là trước so với một pháp (dharma) nhưng không có gì phía sau nó thì
đấy là pháp (dharma) thuộc về tương lai, khi có cả trước và sau, thì
đấy là pháp thuộc hiện tại, và khi có một thứ gì đó đằng sau nhưng không có ở
trước thì pháp đó thuộc về quá khứ”.
Những quan điểm về thời gian của Buddhadeva ở đây được
trình bày hơi khác so với trong A-tỳ-đạt-ma Đăng luận (Abhidharmadīpa)
và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa). A-tỳ-đạt-ma
Đăng luận cho rằng, một pháp lưu chuyển trong ba thời gian, gọi là một
pháp hoặc một pháp khác phụ thuộc vào trước hoặc sau. Pháp này không tùy thuộc
vào sự thay đổi của duyên hoặc của bản chất cốt yếu. Cũng giống như một người
phụ nữ được gọi là mẹ hay con gái là tùy thuộc vào trước và sau.(20) Trong
lời luận bàn của Yośamitra về Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa)
thì ghi rằng, thời gian được gọi tên bởi sự phụ thuộc lẫn nhau vào trước và
sau. Điều này có nghĩa là thời gian được gọi là hiện tại, tương lai và quá khứ
như là kết quả của sự phụ thuộc vào trước và sau. Nó được gọi là tương lai
trong sự phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại và quá khứ ở trước nó. Nó được gọi
là hiện tại vì phụ thuộc vào sự thật rằng quá khứ ở phía trước và tương lai ở
phía sau. Và nó được gọi là quá khứ vì phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại hay
tương lai đều đến sau(21).
Cuối cùng, theo Buddhadeva, quá khứ, tương lai và hiện
tại là dựa vào các mối liên hệ (anyonya) với cả hai phía, cùng một
thứ là quá khứ trong mối liên hệ với những gì đi theo sau nó, và tương lai
trong mối liên hệ với những gì đã diễn ra trước nó. Như chúng ta có thể thấy,
bản thân quá khứ, hiện tại và tương lai không được Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)
xem như là những vật, mà là những phương thức của sự tồn tại, là những trạng
thái, những thuộc tính, vị thế, những mối liên hệ tương hỗ(22).
Xuyên suốt lịch sử triết học Ấn Độ, Buddhadeva được
những người theo Thuyết nhất thiết hữu bộ trích dẫn chỉ để bác bỏ học thuyết
thô thiển của Vasumitra(23).
“Thời gian”
được diễn tả trong Trung luận của ngài Long Thọ
Trong Trung luận (Mādhy-amika), ngài Long
Thọ (Nāgārjuna) không dùng các thuật ngữ quá khứ, hiện tại, tương lai để khảo
xét về ba thời. Thay vì vậy, Ngài dùng 3 mối liên hệ thời gian, đó là ‘sớm
hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’. Quả thực Ngài cố gắng diễn tả rằng, sản
phẩm của những thứ cụ thể là không thể có, bởi vì nó không thể xuất hiện trong
bất cứ phút chốc nào cả và tại vì mối liên hệ thời gian giữa những sự kiện
không thể nào thiết lập được. Trong chương 11 của Trung luận (Mādhyamika), ngài
Long Thọ (Nāgārjuna) phát biểu: “Tất cả các pháp đều là không. Tại sao? Tại vì
chúng không sớm hơn, không muộn hơn, cũng không phải cùng lúc như một hiệu ứng.
Khi nó được gọi là ‘sớm hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’, những sự kiện như
thế là không thể có. Làm sao các sự kiện có thể được tạo ra bởi các nguyên
nhân? Cho rằng một nguyên nhân có trước một kết quả là không đúng. Tại sao? Nếu
một nguyên nhân tồn tại sớm hơn và từ đó mà một kết quả được tạo ra muộn hơn, ở
đó ngay từ đầu đã không có kết quả thì cái gì là nguyên nhân của nó? Nếu một kết
quả có trước một nguyên nhân, thế thì kết quả vốn đã được thiết lập ngay khi
không có nguyên nhân, vậy thì tại sao nó cần đến một nguyên nhân? Nếu một
nguyên nhân và một kết quả tồn tại cùng lúc, ở đó sẽ không có sản phẩm thuộc về
nhân quả. Ví dụ, những cái sừng của con bò được mọc ra cùng lúc; sừng bên trái
và sừng bên phải không phải là nguyên nhân của nhau. Cho nên cái gọi là nguyên
nhân không thể là kết quả của nguyên nhân, bởi vì chúng được tạo ra cùng một
lúc. Vì thế, ba mối quan hệ thời gian giữa nguyên nhân và kết quả là không có
thể đạt được”(24).
Rõ
ràng là sản phẩm thuộc về nhân quả phải được thể hiện trong những mối liên hệ
thời gian nhất định: một nguyên nhân sẽ là sớm hơn, muộn hơn, hoặc là cùng lúc
với một kết quả. Nhưng ngài Long Thọ muốn chỉ ra rằng, thuộc tính trước, sau và
cùng lúc của những khoảnh khắc thời gian đều là không, cho nên chức năng của
sản phẩm nhân quả không thể được thiết lập. Bởi vì nhân quả là không, tất cả
mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả mọi thứ đều là những nguyên nhân và kết quả.
Ngài Long Thọ nhắm đến việc chứng minh rằng tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì
tất cả đều bị thiếu những bản chất của chính nó, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Đây
chính là học thuyết Duyên Khởi (pratītyasamutpāda) được trình bày
trong Trung luận (Mādhyamika) của ngài Long Thọ.
“Thời gian”
được diễn tả trong “Vua Milinda vấn đạo”
Vua Milinda vấn đạo (Milinda-pañha) cho chúng ta
thấy có sự tiến bộ rõ rệt về mối quan tâm đến vấn đề thời gian. Vua Milinda hỏi
Tỳ kheo Na Tiên khá chi tiết về vấn đề này, và được trả lời rằng, có thời gian
thuộc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về khái niệm thời gian
trong Vua Milinda vấn đạo, ông A.B. Keith phát biểu: “Điều này được giải
thích trong ý nghĩa có những sự sắp đặt (saṃkhāra), là quá khứ trong ý nghĩa đang bị chấm dứt sự
tồn tại hoặc là đang bị tan rã, hoặc là hoàn toàn đã thay đổi; đối với chúng
thời gian là không. Nhưng cũng có những duyên mà bây giờ đang tạo ra kết quả;
hoặc ngược lại, những duyên ấy sẽ dẫn đến sự tái lập cá thể, đối với những
duyên ấy thì thời gian là có. Đối với những người chết đi rồi sau đó tái sanh
thì có thời gian, còn đối với những người chết đi mà không còn tái sanh nữa thì
không có thời gian; và với những người hoàn toàn được giải thoát nhờ đạt đến
Niết-bàn (Nirvaṇa)
và chỉ có thân thể của họ bị chết đi thì ở đó thời gian tuyệt nhiên không có”(25).
Hơn nữa, rõ ràng là không có khả năng tìm ra điểm khởi
đầu của thời gian, hoặc là điểm tột cùng trong quá khứ; điều này được làm rõ
thông qua phép loại suy về hạt giống, trái cây, hạt giống; quả trứng, con gà
mái, quả trứng; và cái vòng của mắt, màu sắc, sự nhìn, sự tiếp xúc, cảm giác,
sự mong muốn, hành động và những kết quả của hành động, và một con mắt trong sự
sinh ra ở tương lai. Cuối cùng, Tỳ kheo Na Tiên nhấn mạnh khi phản đối ý kiến
của vua cho rằng, có thể có sự gián đoạn giữa hiện tại và quá khứ, và tương lai
thì tiếp diễn không ngừng. Điều đó không thể có được, quá khứ đã chuyển tiếp
đến hiện tại và hiện tại chuyển tiếp đến tương lai(26).
A.B.
Keith tin rằng, những ý tưởng trong Vua Milinda vấn đạo xuất hiện
dưới một hình thức khác ở trong luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa).
Những người theo Nhất thiết hữu bộ vẫn vững tin với việc duy trì sự tồn tại của
mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong khi những người theo Phân
biệt thuyết bộ (Vibhajyavādins) thì phân biệt phương thức bình thường của chúng
giữa: 1. Những yếu tố hiện tại và những gì trong quá khứ chưa tạo ra quả, những
thứ đó là hiện hữu; và 2. Những yếu tố tương lai và những thứ trong quá khứ đã
tạo ra quả, những thứ đó là không hiện hữu.(27)
“Thời gian”
được diễn tả trong kinh điển Đại thừa
Thời gian được diễn tả trong kinh điển Đại thừa (Mahāyana) có
thể xem xét từ quan điểm về ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai đối với
những kiếp của thời gian trong một hệ thế giới. Quan điểm này được xem là đặc
biệt trong Tam tạng kinh điển bằng chữ Hán. Lewis R. Lancaster cho rằng, trong
những kinh điển Đại thừa ở thời kỳ đầu, khi bàn về thời gian (adhvan) người
ta không đề cập đến khái niệm này ở dạng số ít mà chỉ ở dạng số nhiều (ba thời:
quá khứ, hiện tại và tương lai): “Vấn đề ba thời đã khiến nhiều học giả Phật
giáo bế tắc một thời gian dài trước khi có sự thăng tiến trong kinh điển Đại
thừa và những trường phái Đại thừa, như những người theo thuyết Thí dụ bộ (Dārṣṭānika) đã phát biểu: “Ba thời hiện hữu và thường
còn trong khi những thực thể do duyên sinh và biến chuyển qua ba thời thì vô
thường”. Họ đã diễn tả quan điểm của họ bằng cách đưa ra phép loại suy về ba
căn nhà liền kề nhau. Từ căn nhà thứ nhất một người xuất hiện và đi qua căn nhà
thứ hai, có nghĩa là người đó đã từ bỏ tương lai và đi vào hiện tại, rồi người
đó đi từ căn nhà thứ hai sang căn nhà thứ ba, có nghĩa là anh ta đã đi từ hiện
tại đến quá khứ. Người ấy là vô thường và là nhân tố chuyển đổi, trong khi ba
căn nhà thời gian thì cố định và luôn sẵn sàng đón nhận dòng chảy liên tục của
những thứ vô thường(28).
Rõ ràng thời gian được trình bày trong kinh điển Đại
thừa khó hiểu hơn trong Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Đại thừa chỉ đơn thuần
phát biểu về những gì đã được hiểu và được Đức Phật thừa nhận(29), mà không
trình bày như một vấn đề để được xác chứng hay là bác bỏ những khái niệm về
thời gian trong Phật giáo Nguyên thủy, chỉ là lời phát biểu về thời gian là gì.
Đức Phật, một đấng Giác ngộ, Ngài biết tất cả mọi vấn đề, với năng lực siêu
nhiên đã được phát triển thông qua thiền định (samādhi), đối với vấn
đề này Ngài có thể nhìn xuyên suốt và hiểu rõ bản chất cũng như cốt tủy của ba
thời(30).
Khi khái niệm ba thời được nhìn theo cách đặc biệt
này, chúng được xem như là bình đẳng, không phân biệt, không chia cắt. Những
thời gian ấy không đối chọi với nhau, bởi vì ở đó không có thứ gì trong hiện
tại là khác hay tách biệt với tương lai. Đây là trường hợp mà trong các kinh
thường diễn tả, đối với những người thiếu sự hiểu biết, ba sự phân chia về thời
gian, ba dấu hiệu đặc trưng của thời gian đều bị giới hạn trong trần thế này;
nhưng ở một mức độ cao hơn, mức độ siêu việt, những dấu hiệu ấy tỏ ra là một sự
ảo tưởng. Vì thế, Đức Phật dạy rằng, ba thời chỉ sở hữu một dấu hiệu, dấu hiệu
của sự thiếu các đặc tính để phân biệt.(31)
Trong Đại trí độ luận, luận về Bát-nhã
Ba-la-mật-đa (prajñā-pāramitā) do Ngài Cưu Ma La Thập biên soạn, phát biểu
rằng, những ai không có Chánh biến tri sẽ gặp chướng ngại khi họ cố gắng có
được sự nhận thức về ba thời.(32) Nó vượt ra ngoài khả năng của người bình
thường. Hơn nữa, trong kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) chỉ ra rằng, vũ trụ của chúng ta là một
trong số hàng ngàn vũ trụ của các hệ thế giới. Tất cả những thế giới này không
có chung một cấp độ, cho nên thế giới mà chúng ta đang sống được bao trùm bên
trong một cảnh giới khác, nếu nó mở rộng ra thì vượt ra ngoài những gì chúng ta
có thể hiểu được. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả: “Nếu chúng ta thêm vào tất
cả những ngày và đêm của những hệ thế giới cho đến tổng số là một kiếp (kalpa),
vô số năm này bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Và nếu
người nào sống ở cảnh giới của Phật A Di Đà (Amitābha) một kiếp thì bằng một
ngày một đêm ở cõi Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasaṃhata), và một kiếp (kalpa) ở cõi Kim Cang Tát Đỏa thì
bằng một ngày một đêm ở cõi Pháp Tướng (Dharmaketu), và cứ như vậy cho đến hàng
trăm, hàng triệu cảnh giới chư Phật”(33).
Và
thế là các kinh lại một lần nữa đưa chúng ta trở về với sự trống rỗng của thời
gian, cũng như là sự khó hiểu của nó, sự vắng mặt những dấu hiệu nhận dạng.
Kinh Hoa Nghiêm còn chỉ ra rằng, khi Đức Phật nhập vào chánh định
(samādhi) thì Ngài thấy tất cả ba thời đều bằng nhau và như nhau(34).
Ở đây, thời gian được hiểu như là toàn bộ sự kéo dài
của thực tại. Nó không phải là một khoảng thời gian ngắn như là sát-na (kṣaṇa) đã được diễn tả trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) và trong
Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá. Vì thế, khái niệm thời gian ở trong kinh điển Đại thừa
có thể được định hình chỉ khi sự thay đổi trong thực tế hay là sự tiếp nối của
những sự kiện được diễn ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu vắng mặt
sự thay đổi trong ý nghĩa về tính tạm thời thì ở đó sẽ không có khái niệm thời
gian. Thời gian trong ý nghĩa này là một khái niệm phát sinh. Ở cấp độ thực tại
tuyệt đối (tathatā), không có sự thay đổi nào được thừa nhận, dù là trong Đại
trí độ luận, luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa của ngài Cưu Ma La Thập (Kumārajīva)
hay là trong Cứu cánh nhất thừa luận (Uttaratantra) của ngài Di Lặc
(Maitreya). Do vậy, nếu thời gian thiếu những dấu hiệu nhận dạng, làm sao chúng
ta có thể nói có thời gian? Khi Lancaster
nói rằng: “Nó là thực tại toàn thể, là vũ trụ đích thực”, ông ấy xem thời gian
như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại(35).
Sát-na liên
quan đến ý nghĩa của cuộc sống
Thông qua những nghiên cứu về một vài nguồn tư liệu
chính yếu bàn về khái niệm thời gian trong Phật giáo, chúng ta có thể có được
sự hiểu biết căn bản về khái niệm sát-na (kṣaṇa). Trong Phật giáo Nguyên thủy, sát-na được diễn tả như là ‘duyên’ và
‘thời gian’ hay là ‘tính nhất thời (khaṇa)’. Như thế, khái niệm về thời gian trong Phật giáo
Nguyên thủy chỉ ra rằng, mạng sống rất là ngắn ngủi. Vì vậy, hành giả phải luôn
ý thức về mỗi sát-na để thực hành những hạnh lành. Hành giả cần phải dành
nhiều thời gian cho việc thực tập giáo pháp để có được lợi ích cho tự thân và
tha nhân. Hơn nữa, mặc dù sát-na (kṣaṇa) chỉ kéo dài trong phút chốc (ekacitakkhaṇitka),nhưng những thiện nghiệp mà chúng ta đã tạo sẽ
đem đến những quả lành trong tương lai gần, nếu chúng ta thực hành giáo pháp (dhamma) liên
tục từ sát-na này đến sát-na khác.
Theo như trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa)
thì một sát-na là bằng 0,01333 giây,
còn trong Luận A-tỳ-đàm (Abhidhārmika) thì khoảng thời gian mà một lực sĩ khảy
ngón tay là bằng 65 sát-na (kṣaṇa). Đây là khoảng
thời gian tối thiểu cần thiết đối với những đặc điểm của sát-na để có thể đạt
đến những hoạt dụng của nó. Nếu không có khoảng thời gian tối thiểu cần thiết
này thì các pháp (dharmas) không bao giờ được hình thành. Từ những quan điểm
của Buddhadeva, thời gian được diễn tả thông qua quá khứ, hiện tại và tương lai
đối với một pháp, tạo thành một vòng tròn. Đến ngài Long Thọ (Nāgājuna) thì
thời gian được xem như là một pháp (dharma). Bởi vì tất cả các pháp, chúng phụ
thuộc lẫn nhau, đều không có tự tánh, chúng là không, cho nên thời gian cũng là
không. Chính vì lẽ này, chúng ta không thể tìm thấy điểm khởi đầu hay là điểm
kết thúc của nó. Hơn nữa, trong kinh điển Đại thừa, chúng ta không thể nào nhận
ra được thời gian vì nó vượt lên trên khả năng nhận biết thuộc ý thức của chúng
ta. Do nó thiếu những đặc tính để phân biệt nên chúng ta không thể nào thông
suốt và thấu hiểu về ba thời, chỉ có Đức Phật, đấng Chánh biến tri, người có được
năng lực siêu phàm thông qua thiền định (samādhi) mới thấu hiểu được.
Cuối cùng, từ chính những kinh nghiệm cá nhân của
chúng tôi và sự hiểu biết thông qua việc tìm hiểu về khái niệm thời gian trong
kinh điển Phật giáo, chúng tôi hiểu ra rằng, sát-na (kṣaṇa) là một khoảng thời gian rất ngắn, thậm chí ngắn hơn cả khoảng thời
gian mà một ý niệm sinh khởi. Tuy nhiên, nó là khoảng thời gian cần thiết để
cho các pháp vận hành. Rõ ràng là dù cho mạng sống của chúng ta thọ hay yểu thì
đều được cấu thành bởi những sát-na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát-na hiện tại là có
thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống
trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong
tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta.
Thích Hạnh
Tuấn/Giác ngộ
-------------
Quảng Trí dịch (Nguyên
tác Anh ngữ: “From studying the concept of time in Buddhism toward
understanding the meaning of life” ).
(1) Bằng cách
sử dụng thuật ngữ “Phật giáo Nguyên thủy”, tôi cố gắng tránh dùng thuật ngữ
“Phật giáo Tiểu thừa - Hināyāna”. Bởi vì danh từ “Phật giáo Tiểu thừa -
Hināyāna” hiện nay là từ dùng khá nhạy cảm, có thể làm khó chịu cho những người
đang thực tập theo truyền thống này. (2) Sasaki, Genjun H., ‘The time concept
in Abhidarma’ Proceedings of the 26th International Congress of Orientalists,
pp.471-472. (3) Bareau André, “The notion of time in early Buddhism’, East and
West 7, p.353. (4) Ibid, tr.353. (5) Louis de la Vallee Poussin, ‘Documents
d’Abhidharma : la controverse du temps’, Melanges chonois bouddhiques 5, p.140.
(6) Leo M. Pruden trans., Abhidharmakośabhāṣyam, p.474. (7) Ibid, tr.474. (8) Ibid, tr. 245
(Kāryaparisamāptilakṣaṇa eṣa naḥ kṣanaḥ). (9) Andre Bareau, “The notion of time in early
Buddhism’, East and West 7, p.353. (10) Kathavatthu, XXII. 8. (11 Mahavibhasa,
T.1545, tr.198a-977b. (12) Ibid, tr.200a. (13) La Vallee-Poussin,
Abhidharmakosa, II, tr.223-224. (14) La Vallee-Poussin, Vijnaptimatratasidhi,
tr.67. (15) Ibid, tr.67. (16) Mahavibhasa, T.1545, tr.270a-463a. (17) Ibid,
tr.141b và 919b. (18) Andre Bareau, “The notion of time in early Buddhism”,
East and West 7, p.354. (19) Paul Williams, ‘Buddhadeva Temporality’, Journal
of Indian Philosophy 4, 1977, p.279. (20) P.S. Jaini, ed., Abhidharmadipa with
Vibhashaprabharitti, p.260. (21) U. Wogihara, ed., Sphutariha
Abhidharmakosavyakhya by Yosamitra, Part 2, p.470. (22) Andre Bareau, “The
notion of time in early Buddhism”, East and West 7, p.356. (23) Paul Williams,
‘Buddhadeva Temporality’, Journal of Indian Philosophy 4, 1977, p.291. (24)
Hsueh-li Cheng, trans, Nagajiurna’s Twelve Gate Treatise, p.101. (25) A.B.
Keith, ‘The doctrine of reality (The nature of time)’, Buddhist Philosophy in India and Ceylon , pp.163-164. (26) Ibid;
p.164. (27) Ibid; p.165. (28) Lewis R. Lancaster, ‘Discussion of time in
Mahayana Texts’, Philosophy East and West 24, p.209. (29) T.228, p.630c; T.234,
p.747c; T.1509, p.255a; and T.310, p.291b. (30) T.234, p.747c; T.225, p.507c;
T279, p.648b; and T657, p.166b. (31) Lewis R. Lancaster, idib., p.209. (32)
T.1509, p.255a. (33) T.279, p.242a. (34) T.1509, p.306c; T.225, p.507a; and
T.279, p.648b. (35) H.D. Prasad, Essays on Time in Buddhism, pp.xviii-xix.
Phật giáo không thể phát triển bởi các Phật tử thường nhầm lẫn giữa "dạy đời" và "giáo lý". Họ cao ngạo răn giảng mà không biết mình còn vô minh lắm. Họ thường miệt thị người khác "Bạn không hiểu Phật..." một cách sáo rỗng!? Họ không biết đã gây ra sự chán ghét do nói qúa huyên thuyên.
Trả lờiXóaBổ sung: Họ thường miệt thị người khác "Bạn không hiểu Phật pháp!"
XóaChính xác! giới Phật tử quá tự cao, tự mãn và hoang tưởng... vì vậy, họ ko thể hoàn thiện được.
XóaNhiều nước trên thế giới 95% công dân theo Đạo Thiên Chúa. Giáo lý của họ đơn giản - chỉ là những cái ôm nhau đằm thắm... "Chúng ta đều là con của Chúa".
Xóa[Chúng ta có thể noi gương Đức Phật trong đời này hay không?] Nên noi gương ông ta để nhân loại thoát khỏi chiến tranh tàn khốc. Bởi vì nếu theo ngay thì sau chừng trăm năm là khỏi chiến tranh vì nhân loại tuyệt chùng (không vợ không chồng).
Trả lờiXóaNên nhớ rằng con người là chủ thể. Kiếp người là Linh hồn của sự tồn tại. Đừng phức tạp hoá vấn đề. Đừng ru ngủ nhân loại. 39 năm qua thế là vô bổ!
"Tương lai" là thứ các thầy bói mù (đỏ) thích nói lắm!
Trả lờiXóa39 năm tu tập ông cũng thấy chúng sinh sống như thế nào dưới sự cai trị tù mù của người Cs .sao ko cảm hóa hay gì gì đó để họ gác ngộ mà hướng thiện thì công đức của ông vô lượng nghiên cứu như Vậy phải thực tế hay hơn ko .thay vì tìm Giản nhửng điều cao siêu it ai hiểu thì lợi ích chi khi hàng triệu triệu người cùng khổ phai ko thưa ngài?
Trả lờiXóaGần hết tôi đồng ý với tác giả bài viết,nhưng ý niệm trong bài quá cao siêu với phần đông người trong xã hội ngày nay ! không phải những giáo sư tiến sĩ,những viện sĩ mà đã hiểu hết được đâu ! nhìn vào thực tế ngay trước mắt thì chúng ta hiểu ngay ấy mà !
Trả lờiXóaGiới Phật tử bây giờ vẽ vời quá!
XóaTư tưởng của Phật rất đơn giản:
1. Muốn gặp lành thì phải ở hiền
2. Muốn không đău khổ thì đừng tham lam.
[nhưng ý niệm trong bài quá cao siêu ...] không phải quá cao siêu mà là quá vớ vẩn.Thích gì nói nấy, đúng là thích đủ thứ.Trích lời người này người kia mà nào lấy gì kiểm chứng là đúng. Như một nhà văn nước ngoài viết: "Cách viết của người nay là: trích của người trước,người trước trích của người trước nữa ...nữa nữa nữa. Mà biết đâu đó chỉ là giả thuyết mới đưa ra. Rồi đến lúc bỏ chữ "trích" đi lừa nhân loại đó là thật. Toàn rối rắm và vô lý !!!
XóaLuôn hâm mộ đức phật, nghiên cứu thì chỉ qua qua nhưng cũng cảm nhận được một vài điều về người mà tôi luôn ngưỡng mỗ.
Trả lờiXóaThời gian có tồn tại
Hay vốn chỉ là ta
Đi tìm thứ vô nghĩa
Mới tìm ra mat na
Phật mới chỉ giảng qua
3 thứ vốn là một
Không có sự phân biệt
Không có cái trong ta
Quá khứ hay hiện tại
Có phải tâm sinh ra.
Tôi lụm được hai câu thơ này trên mạng:
Trả lờiXóa"Kể chi giữa cõi ta bà
Khôn ngoan đến mấy vẫn là vô minh"
Phân vân tìm kiếm mãi mà chẳng hiểu gì. Tại sao lại như vậy? Rất vô lý.
Thì ta cứ cười đi. Vậy là xong. Hơi đâu bận tâm những câu vô minh như thế.
Xóa"Bức biếm hoạ Người dẫn đường thoát khỏi vô minh: Vẽ một ông không râu không tóc đang quẫy trong sình lầy, huơ huơ hai cái tay lên và ới gọi với đám người đang đi trên đường: Này các người, đến đây theo ta kẻo sa lầy cả bi giờ!
XóaGiống ông tổ trưởng dân phố vào lúc chiều tà thấy treo trên đỉnh cột 1 tấm bảng. Ông ta nghĩ "chắc bọn thế lực thù địch treo khẩu hiệu chống đối đây". Và hì hục ôm cột leo lên, đọc "MỚI SƠN. CÒN ƯỚT!"
XóaThời-Gian chẳng cần ai định nghĩa cho nó...
Trả lờiXóaBạn đã lầm.
XóaKhi phim nhựa ra đời, người ta tính phải có 24 hình/ giây để có một hình ảnh sống động. Bằng cách chia nhỏ thời gian người ta có thể chụp được một viên đạn đang bay hoặc khi làm chậm thời gian người ta có thể làm một bộ phim về bông hoa đang nở, và v.v. Vấn đề thời gian của bài viết là rất hay, chỉ có điều ta chưa hiểu được hết mà thôi.
Cách đây mấy ngàn năm, không hiểu bằng cách nào mà Đức Phật lại đưa ra được khái niệm sát-na, một đơn vị thời gian vô cùng nhỏ trong khi Ngài chẳng có một loại máy móc nào. Đó là một phát kiến Vĩ đại.
Nếu "Thời-Gian chẳng cần ai định nghĩa cho nó.." thì làm gì có máy tính với hàng tỉ phép tính trong một giây? Nếu không có những máy tính ấy làm sao con người có thể đặt chân lên Mặt Trăng, Sao Hỏa?. và nhiều vấn đề liên quan đến thời gian mà các nhà khoa học vẫn đang ngày đêm nghiên cứu?
Kiến thức nhân loại là mênh mông, ta nên bình tâm xem xét thì hơn!
.
Ta lại gặp Phật tử Nặc danh17:08 Ngày 12 tháng 09 năm 2015?
Xóa"Bạn chã hiểu gì về Phật pháp!"
Lại nói nhiều, dạy đời rồi!
Không hiểu sao người ta hay nói "như thật" - "Phật đã nói, đã dạy rằng...". Kiểu gán ghép, tuyên truyền, suy diễn.
Thế những ai không theo Phật giáo chắc bị mất thời gian chắc?
"Cách đây mấy ngàn năm, không hiểu bằng cách nào..."?
XóaTôi chán những lý luận vô minh kiểu này. Ta chết vì những mơ hồ đấy.
Cứ theo phật rồi đến lúc nhân loại tưởng những người theo này từ lỗ nẻ đất chui lên hay đùn sủi như đám côn trùng. Thích ca năm 28 tuổi bỏ nhà đi tu thì cũng là lúc tuyệt tình với cha mẹ là ông bà Tịnh Phạn luôn. Rồi ngày nay các đệ tử của ổng cũng vậy, trên đường "đi tu" nhỡ lỡ bước vào nhà mình thì cháo cái gia chủ sinh ra mình là "ông bà" xưng tôi. Còn ông bà chủ đó chào đứa con rứt ruột đẻ ra là "thầy" và xưng con. Luân lộn ngược đó!
XóaĐi tu cũng tiện thể trốn trành nghĩa vụ quân sự. Nhỡ nay mai có chiến tranh rồi cả đơn vị quân đội cạo trọc đầu, thay quần áo, vứt vũ khí thì lấy ai đánh giặc cứu nước. Không thể vì tự do tín ngưỡng mà bỏ nghĩa vụ quân sự. Bỏ không lao động chờ người đem cho ăn thì thôi cũng đành, còn nghĩa vụ quân sự thì phải gánh.
Gửi Nặc danh09:48 Ngày 13 tháng 09 năm 2015
XóaThời Lý- Trần lấy Phật giáo làm Quốc Đạo, đó lại là thời kỳ oanh liệt của dân tộc ta. Bạn lý giải làm sao đây? Hội nghị Diên Hồng với những câu Đánh- Đánh là minh chứng.
Tôi cũng không phủ nhận chuyên Phật tử tu mù, mới sinh ra những chuyện như bạn nói. Đạo Phật chân chính lấy chữ Hiếu làm đầu đấy. Cũng có rất nhiều phàm tăng dựa vào đạo Phật để lợi dưỡng cho riêng mình. Họ là những kẻ "Càng tu càng ác", cần phải phê phán kịch liệt. Lý do dễ thấy là họ đã không vượt qua đượcTham,Sân,Si. Không phải Phật tử nào cũng hiểu câu"Duy tuệ thị nghiệp", đa phần họ chỉ biết niệm Phật mà thôi. Cũng không nên chỉ nhìn vào mặt tiêu cực đó mà phủ nhận cả đạọ Phật.
Như bạn nói cũng có phần đúng, Đức Phật đã biết trước và gọi thời kỳ này là Thời Mạt Pháp. Cũng là cái vòng lẩn quẩn, không dễ gì thoát ra được. Nhưng dù sao, có tu vẫn tốt và ta nên khuyến khích họ, mười phần mà tu được một phần là tốt lắm rồi!
Nặc danh17:10 Ngày 13 tháng 09 năm 2015 nên tìm đọc quyển "Kinh Di Lặc cứu thế" mà soi. Trong đó có câu "thương thay cho trần thế bị 2500 năm ..." kể từ khi thích ca sinh ra mà nay đã hơn 2500 năm rồi. Vả lại thích ca cũng nói "có sinh thì có diệt", Cũng nên thôi cái thời theo ma đi để còn tồn sinh nòi giống!
Xóa[Nhưng dù sao, có tu vẫn tốt và ta nên khuyến khích họ, mười phần mà tu được một phần là tốt lắm rồi!] câu này đúng nhưng nên dành cho loại nghiện hút, buôn bán hàng câm và bọn điếm, côn đồ và tham nhũng, tàn độc. Mười phần mà bớt được một phần loại người này là không những tốt mà rất tốt cho xã hội.
Xóa