Ảnh: W.D. Cooper. “ |
Ngày 16/3/1776, trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
của Mỹ, quân đội Anh đã buộc phải rút khỏi Boston sau khi Tổng tư lệnh Lục quân
Lục địa George Washington triển khai thành công công sự và pháo binh lên điểm
cao Dorchester Heights, khu vực bao quát toàn thành phố Boston nhìn từ phía Nam.
Tối ngày mùng 4 tháng 3, theo lệnh của Washington,
Thiếu tướng John Thomas bí mật dẫn một lực lượng gồm 800 binh sĩ và 1.200 công
nhân tới Dorchester Heights để bắt đầu xây dựng công sự trên khu vực này. Để át
đi tiếng động trong khi xây dựng, lực lượng pháo binh được bố trí bao vây Boston ở những vị trí khác
bắt đầu oanh tạc dữ dội vùng ngoại ô thành phố.
Đến sáng, hơn một chục khẩu đại bác từ Pháo đài
Ticonderoga ở New York được kéo đến Dorchester Heights . Tướng William Howe, Tổng tư
lệnh Quân đội Anh ở Bắc Mỹ, hy vọng có thể dùng tàu chiến của hải quân Anh ở
Cảng Boston để áp chế quân đội Mỹ, nhưng một trận bão bất ngờ kéo tới đã cho
quân đội Mỹ nhiều thời gian hơn để hoàn thành công sự và triển khai pháo binh.
Đến ngày 17 tháng 3, 11.000 binh lính Anh và khoảng 1.000 người Mỹ trung thành
với Hoàng gia Anh (Royalists) đã lên tàu rời khỏi Boston và rút lui an toàn về
Halifax, Nova Scotia (thành phố ở miền Đông Canada).
Cuộc giải phóng thành phố Boston mà không tốn giọt máu
nào đã kết thúc thời kỳ chiếm đóng kéo dài 8 năm của Đế quốc Anh ở đây, vốn
khét tiếng với những sự kiện như “Thảm sát Boston” (diễn ra ngày 5 tháng 3 năm
1770, khi quân đội Anh bắn chết 5 người và làm 6 người khác bị thương trong một
cuộc đụng độ phi quân sự). Với chiến thắng này, Tổng Tư lệnh Lục quân Lục địa
George Washington được trao tặng huân chương đầu tiên của Quốc hội Lục địa.
*
* *
Ngày 16/12/1773, tại cảng Boston, một nhóm các cư dân
thuộc địa Massachusetts cải trang thành người da đỏ Mohawk đã đột nhập lên ba
chiếc tàu Anh và đổ 342 kiện chè xuống biển.
Cuộc đột kích lúc nửa đêm, thường được gọi là “Tiệc
trà Boston,” được tổ chức để phản đối Đạo luật Trà năm 1773 của Quốc hội Anh,
một dự luật được đưa ra nhằm cứu Công ty Đông Ấn đang suy sụp bằng cách giảm
đáng kể thuế trà và cấp giấy phép độc quyền buôn bán trà ở Mỹ. Mức thuế thấp
cho phép Công ty Đông Ấn bán phá giá trà, thậm chí còn rẻ hơn trà nhập lậu của
các thương nhân Hà Lan, và nhiều cư dân thuộc địa đã coi đạo luật này là một ví
dụ khác của sự chuyên quyền về thuế khóa.
Khi ba tàu chở chè, Dartmouth, Eleanor, và Beaver,
cập cảng Boston, các cư dân thuộc địa ở đây đã yêu cầu đưa chè trở lại nước
Anh. Sau khi Thống đốc tiểu bang Massachusetts Thomas Hutchinson từ chối, lãnh
đạo nhóm Người yêu nước Samuel Adams đã tổ chức “tiệc trà” với khoảng
60 thành viên của nhóm Những người con của tự do, nhóm kháng chiến ngầm của
ông. Lượng chè bị đánh chìm ở cảng Boston đêm 16 tháng 12 được ước tính là có
giá trị khoảng 18.000 bảng Anh (tương đương 2,2 triệu USD ngày nay[1]).
Tức giận trước Tiệc trà Boston và các hành vi hủy hoại
tài sản trắng trợn khác, Quốc hội Anh đã ban hành các Đạo luật Cưỡng chế
(Coercive Acts), còn được biết đến dưới tên gọi các Đạo luật Không thể dung thứ
(Intolerable Acts), vào năm 1774. Các Đạo luật Cưỡng chế này phong tỏa Boston
khỏi các chuyến tàu thương mại, chính thức thành lập chế độ cai trị quân sự ở
Massachusetts, cho phép quan chức Anh không bị truy tố hình sự ở Mỹ, và yêu cầu
cư dân thuộc địa cho phép quân đội Anh ở nhờ. Sau đó, các cư dân thuộc địa đã
kêu gọi Quốc hội Lục địa cân nhắc một cuộc kháng chiến thống nhất chống lại Đế
quốc Anh.
(Nguồn: “The
Boston Tea Party,” History.com (truy cập ngày 15/12/2015).
Biên
dịch & Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng)
---------
---------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét