Đôi lời: Để hiểu thêm thực chất mối quan hệ Việt-Trung
trong mấy chục năm nay, không còn chút mơ hồ nào nữa, đặc biệt trước rất nhiều
hành động gây hấn trắng trợn của Trung Quốc trong thời gian gần đây, xin giới
thiệu một tư liệu cá nhân nho nhỏ của cố TBT Lê Duẩn khi sinh thời, và một bản
dịch từ tư liệu nước ngoài Bài phát biểu của ông về “tập đoàn phản động Trung
Quốc”, cùng với đoạn trích Hiến pháp 1980 liên quan tới Trung Quốc.
1) Đây là bản chụp vài dòng bút ký cá nhân, như tự dặn
với riêng mình, của cố Tổng bí thư BCHTW ĐCSVN Lê Duẩn năm 1978, một năm trước
khi Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN, được lưu trữ
trong kho tư liệu riêng của gia đình ông. Đoạn này đề cập tới quan hệ với Trung
Quốc.
Ông
viết: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân
phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam . Không thể
khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi
cuộc sống người ăn thịt người”.
Không nghi ngờ gì nữa, đó là ám chỉ tới người láng
giềng Trung Quốc, đất nước với lịch sử từng có tập tục “người ăn thịt người” mà
chính Văn hào Lỗ Tấn đã đề cập tới nhiều lần trong tiểu thuyết Nhật ký
người điên. (Mời xem thêm: Ăn
thịt đồng loại – Wikipedia). Đương nhiên, qua nội dung này và bài phát biểu
của ông, cũng như Lời nói đầu trong bản Hiến pháp 1980, sự đánh giá đó không
phải với tuyệt đại bộ phận người dân Trung Quốc.
Cũng không có gì khác biệt trong tinh thần của nội
dung trên với quan điểm cứng rắn của vị lãnh đạo cao nhất trong Đảng CSVN trong
suốt một thời gian dài đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.
Như bao nhiêu bậc quân vương khác, không thể tránh
được những mặt yếu, mạnh, hay, dở trong lúc trị vì, nhưng riêng cách nhìn và
thái độ đối với người láng giềng phương Bắc, cố TBT Lê Duẩn là vị lãnh đạo kiên
quyết và rõ ràng nhất, như bao nhiêu thế hệ ông cha đã từng răn dạy.
Lời nói đầu (Trích):
“Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong
muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền
Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam- pu-chia. Phát huy
truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh
liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia
ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.”
3) Bài phát biểu
của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam :
(Trích): “Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh
Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông
ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ
là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân
tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ
yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh:
“Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám
tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ
không nghĩ đến đánh Việt Nam !
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí
có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao
hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ
đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam , họ không dám nói về việc đưa
người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có
đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói:
“Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân
Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói:
“Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó
không?“
Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói:
“Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các
nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.”
Bài phát biểu của Lê Duẩn năm 1979
Mô tả: Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn
phản động Trung Quốc chống Việt Nam .
Nguồn:
Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và
dịch cho CWIHP.
Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc
nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh
chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân
Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung
Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại,
thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).
Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc
Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất
nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả
nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì
tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là
người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến
đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …
Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục
đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và
khi áp lực lên Việt Nam , ông
ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói
rằng, nếu Việt Nam
tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và
gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.
Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva , rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất
nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép
lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam . Họ ngăn
cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng]
họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.
Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du
kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của
chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được
giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh
này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức,
Việt Nam
đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng
ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.
Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng
Chăn, những tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch
Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn
chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao
vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành
chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với
chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực
với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ
phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.
Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là
Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời
tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép
tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.
Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí,
nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì
phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam . Điều gì
làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?”
Ông
ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”
Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ
Trung Quốc ở Việt Nam
lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung
Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả
lời: “Việt Nam không thể
phát động chiến tranh du kích ở miền Nam . Việt Nam phải nằm
chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh
Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ,
đúng không?
Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí
mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp
miền Nam Việt Nam ,
chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã
được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung
Quốc].
Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi
đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với
tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên
đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều
đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.
Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng
chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói
rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng
ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước
ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực
Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.
Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự
xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa
quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với
súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận
20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ
tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam ).
Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với
tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép
nhưng tôi vẫn không chịu.
Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có
âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.
-
Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động
cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ,
một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến
lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số
200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm
leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù.
Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm
phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc ViệtNam
để đánh với họ“. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi
bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi
mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt
Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến
lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris . Chúng tôi phải làm
cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã
thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các
ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam , tùy các
ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.
Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc
chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận
ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện]
rút quân [ở miền Nam Việt Nam ].
Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.
-
Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết
vấn đề Việt Nam
bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như
cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp
tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận
về vấn đề Việt Nam ,
do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.
Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ
điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người
Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn
toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt
Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay,
các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề
nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi
phải nói:
- Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện
Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải
vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền
Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào
ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô
cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát
[người dân] một cách khủng khiếp.
Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho
Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh
thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn
nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm
1954), đồng chí có biết không“?
Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai.
Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon
rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi
về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay
lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu
nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.
Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã
thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ
quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các
đồng chí“.
Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu
bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế
nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa
cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế
– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với
nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi
hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối
lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và
đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc
đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung
cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa
kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không
thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ
rất nguy hiểm.
Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói
chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về
phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi
chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói
rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề
này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính
là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt
Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa
lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.
Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang
Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là
nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.
Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta
phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.
Năm
1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên
bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi
cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe
chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã
hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về
tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi
không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.
Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và
tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các
đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của
500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu
vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông
dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh:
“Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám
tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ
không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí
có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao
nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ bao
nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không
nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người
tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là
người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“.
Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi
nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả
các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?“
Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói:
“Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các
nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.
Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối
đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều,
không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình
gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.
Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân
đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với
Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các
đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không
hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này.
Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng
cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.
Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung
Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt
Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn
giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam
đã không đi.
Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa
quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn
toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên,
để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại
Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị
này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy
hiểu cho tôi“.
Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận
khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để
chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một
bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn
công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp
ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).
Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện
gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô,
nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai
nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó.
Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“. Bành
Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn
đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng
chí thấy nó phức tạp như thế nào.
Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông
ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất
nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở
Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi
đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ
cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp
người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không
thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.
Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác
của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều
thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là
người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách
[của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.
Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo
hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao,
[sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình
đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng
ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù
sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta
đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn,
và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn
đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước
chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác
định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng
chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý,
nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là
người theo chủ nghĩa xét lại.
Nhưng
bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy
rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn
công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu
quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với
ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các
đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là
vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như
thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn
công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta
đã không được duy trì một đội quân lớn.
(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không
rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế
là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm
các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.
Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu
tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào,
rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải
phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử
dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng
tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“.
Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm
đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ
bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ
Mỹ đến mức độ đó…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến
đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng.
Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có
được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho
đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc
lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …
Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên
Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba
nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn
có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung
Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù
tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và
chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao
vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người
Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400
triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc
vẫn không thể đánh bại họ.
Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung
Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ
nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó
chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].
Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị
bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi
cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân
Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy
một chiến binh du kích…
Khi
tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi
ra nước ngoài, phải không?
Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.
Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.
- Chú đã thấy gì?
Tôi
thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút
nào.
Tôi
hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng
can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một
chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.
Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân
vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân
đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi
bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã
xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì
chiến lược tấn công của chúng ta.
Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến
kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là
những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn
công chúng ta mạnh như thế này.
… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất
quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích
lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào
để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để
làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó,
Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay
lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.
Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói
với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một
không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai
dám làm những điều các đồng chí đã làm“.
Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám
nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà
các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.
Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có
300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người
đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí
biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng
ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng …
Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống
lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như
Việt Nam).
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không
chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết
với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà
họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam,
Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước
với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng]
Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột
với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt
Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch
Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công
các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn.
Tùy các ông“.
… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất
mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu
với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai
trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm
lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt
Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và
làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam
kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây
[với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …
Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả
trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài
liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để
đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương
thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng
họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô.
Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ
không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương
lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả.
Chúng ta không sợ.
Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu
họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống
vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn
nữa.
Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn
công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ
không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không
thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người.
Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó
(ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một
pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không
thể nào vào được cả.
Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền
tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây
kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa
thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu
phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương
trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người.
Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân
đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng
ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải
là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.
- Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không
nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin
cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng
chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần
phải có cả hai điều này.
- Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở
rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp
một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã
hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời
xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc).
Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi
vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và
tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.
Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với
thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của
Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện
nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt
Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong
Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám
đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để
chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã
đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý.
Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba
điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ
Chính trị hồi đó.
Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo
luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng
chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì
mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta
không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?
Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có
cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa
Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần
phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ
chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng
ta đánh…“
Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu
Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được
đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm
sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội
trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.
- Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì
chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta
cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng
ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ
ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước
chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ
nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.
- Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách
nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng
ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và
làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại
Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho
chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta
không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực
lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập
tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng
tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác.
Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …
- Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh
vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng
lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng
của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của
cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt
Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có
phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm
điều này.
… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta,
trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là
không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng
ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì
tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là
họ đánh chúng ta.
Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế
giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy?
Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống
lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam
chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng
ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không
cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung
Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói
tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta.
Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một
cách nghiêm túc như thế.
Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ,
trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối
quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong
100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn
đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải
chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng
cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc
có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến
thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn
và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta
[cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn
công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].
(Nguồn: Wilson Center)
-----------------
Thật tiếc khi mất công đọc....càng thêm thấm thía buồn....
Trả lờiXóachỉ thấy một lũ, một bọn hổ lốn, thối tha thối nát, mị dân, miệng một đàng, làm một nẻo..
thấy bộ mặt thật cái lũ gọi nhau là đồng chí, anh em hữu nghị.......
Mao và Lê Duẩn "Lạy Chúa"!
Trả lờiXóaDương Chí Dũng "Thề có Đức Phật"!
Người dân tỉnh táo "Bố sư khỉ! Ông Mác!"
Vì mới" TQ đang XLVN' nên nới cũ Nhừng tài liêu này-Bọn phản động BK. khá phổ biến trong thập kỉ780 Sau 1990 thì k được phép lưu hành Nay 2014 lai được đến tay người dân Bao giờ những người mặc áo có ghi HS_TS VN k bị đàn áp???
Trả lờiXóaNGLUY
Vì từ 9-1990 đến nay, ông Đõ Mười, ông Linh ôm về 16c 4T nên cấm tiệt, không được nói đụng đến TQ trừ khi khen "ông anh" hết lời. Ai nói xấu TQ liền bị coi là "thế lực thù đich". Và sau HN Thành Đô đất nước ta đi xuống, từ đó đảng CSVN cũng mất dần uy tín,, vai trò lãnh đạo ngày càng nhạt, sự nghiệp đổi mới bị dừng và giật lùi, dẫn tới "ra dường thấy đảng viên nhan nhản, cộng sản được mấy người", "Bộ phận không nhỏ suy thoái, biến chất, tham nhũng..", vì theo TQ, nghe TQ răm rắp. TQ thì khoác áo búa liềm nhưng thực chất là đế quốc xâm lấn bành trướng.
Xóa
Trả lờiXóaCam on nhung thong tin ve nhung su that lich su cho ta hieu ro bon ba quyen banh truong Bac Kinh!
Đúng là chống TQ xâm lược, theo kiểu bán nước của cộng sản VN. Phạm Bình Minh, phản đối quyết liệt việc đặt giàn khoan trái phép trên biển Đông thuộc chủ quyền của VN, bằng điện thoại để bàn không dây. Phạm Bình Minh, có 20 cuộc điện đàm phản đối việc đặt giàn khoan 981 của TQ, Tổng thống Philipin nói, đường dây nóng của VN-TQ, không hoạt động, không có cuộc điện đàm nào, ở bất kỳ cấp độ nào. Bọn cộng sản VN bán nước, chúng chẳng làm gì, ngoài bịp nhân dân VN
Trả lờiXóa
Trả lờiXóaNhờ ta đánh đuổi Mỹ mà Trung Quốc có điều kiện hung hăng như ngày nay. Mỹ mà còn ở Nam VN thì bố bảo Trung Quốc cũng không dám hung hăng. Vậy nếu trọng sự thật thì ai phải ơn ai đây?
Bác quên à,1974 khi Trung quốc đánh chiếm hoàng sa của VN Mỹ vẫn còn ở miền Nam mà!
XóaVới các nước nhỏ,chiến tranh là tự vệ.Với các nước lớn,họ kinh doanh chiến tranh đó,cứ có lợi là họ OK thôi chứ họ chả vì cái gì hết!
Chính văn lam mới quên, theo HĐ Pa-ri, Mỹ rút khỏi miền Nam từ đầu năm 1973.
XóaNăm 1973 hoa kỳ rút quân khỏi miền nam VN nhưng hàng nghìn cố vấn quân sự khoác áo dân sự , hàng chục căn cứ chiến lược của Hoa kỳ trong khu vực vẫn đầy ắp lính tráng vũ khí Hoa kỳ(mà thời chiến sự căng thẳng hoa kỳ vẫn dùng để hỗ trợ chính quyền Sài gòn)và hàng chục cam kết,hiệp định bảo trợ của Hoa kỳ với chính quyền Sài gòn trên giấy tờ vẫn còn nguyên hiệu lực...
XóaPhải thấy rõ sự thật này để xác quyết về mặt tư tưởng việc bảo vệ độc lập tự chủ,các nước nhỏ chỉ có thể không bị thôn tính bằng sự anh dũng tự cường của chính mình ;sự vận động để thế giới ,trong đó có những nước lớn liên đới quyền lợi ủng hộ là yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định.
Ngày nay,trong thiên niên kỷ của sự hội nhập,chiến tranh hay hòa bình không thể không xét đến yếu tố LỢI -HẠI (trong ngắn hoặc dài hạn),một nhân tố có tính động lực của kinh tế thị trường.
Để không còn bị xâm lược ,với Hoa kỳ và những nước lớn khác (ngoài Trung quốc là nước gây hấn),VN nên tạo cơ hội thuận lợi nhất để họ ngày càng có nhiều lợi ích(cả kinh tế lẫn chính trị) hơn ở VN;Như thế,để bảo vệ lợi ích của chính họ ở VN,họ cũng sẽ góp phần quan trọng bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của VN!
Chính sách quan hệ đa phương hai bên cùng có lợi của Nhà nước VN hiện nay là đúng đắn nhưng nó chỉ có hiệu quả cao khi trong thực tế triển khai Nhà nước VN cần dỡ bỏ rào cản và hội nhập quốc tế sâu rộng về ý thức hệ.
Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Hễ Việt Nam bị suy yếu là họ tấn công và xâm lược?!!!; Muốn làm như Bác Hồ dạy thì cán bộ, trí thức phải cố gắng sống cho sạch, làm cho tốt và không được tham lam; Phải kiên quyết chống tham nhũng ở đội ngũ đảng viên thì mới đoàn kết dân tộc được??? he he he
Trả lờiXóaChống tham nhũng là chống chính mình à? Đếch dược đâu. Tổng Trọng đưa ra nhiều nghị quyết, ngoác mồm ra nói rất nhiều lần nhưng thử hỏi mấy năm nay ổng phát hiện được vụ nào? Ngay cả khi báo Đại đoàn kết đưa ra Trần Văn Truyền và một vài nhân vật, các phóng viên vụ này bị khóa mồm ngay. Tào lao hết bạn ơi!
XóaKhông xem thì không biết, nhưng khi xem xong thì buồn quá. Cuộc chiến Nam - Bắc đúng là cốt nhục tương tna2 (20 năm nội chiến từng ngày) Sự thật qua lời kể của ông Lê Duẩn, sự sắp xếp và xúi dục của Tàu....... Ôi ! phải chi đừng khởi nghĩa Đồng Khởi, đừng giải phóng miền Nam thì thằng Tàu có dám đụng tới Hoàng Sa của ta hay là không ? Hậu quả đến ngày nay nước ta vẫn chưa thật sự bình yên để xây dựng đất nước, phải lo đối phó mãi.... Tiếc thay giờ lại còn ngiều người đang trong vai trò lãnh đạo cố ôm lấy 4 tốt và 16 chữ vàng nữa chứ ?
Trả lờiXóaÔng Lê Duẩn như vậy là con số "0" to tướng!
Trả lờiXóaÔng ta lúc thì bảo "Ta đánh Mỹ 'giùm' TQ", lúc thì bảo "TQ không đáng tin"? Nước Việt vì những "lãnh đạo" này mà trở nên khốn nạn cùng cực như ngày nay - thằng tham nhũng rao giảng về cái tốt?
Thông qua bài viết này tôi mới hiểu tại sao ở thời điểm chiến tranh biên giới Việt -Trung (1984-1988) tại Vj xuyên Hà giang TQ nó lại bắn pháo truyền đơn sang ta chửi "Tập đoàn Lê Duẩn" (tôi xin lỗi Cố Tổng BT Lê Duẩn).Nhưng phải tự hào về truyền thống đất nước VN đánh giặc giữ nước - Tàu nó rất sợ nước Nam có Sứ thần giỏi hoặc tướng lĩnh giỏi.Xét thời điểm hiện nay ta phải thấy Thủ tướng đã có lời tố cáo đanh thép,nhân dân thì sôi sục căm thù chỉ còn "tướng sỹ một lòng phụ tử/hòa nước sông chén rượu ngọt ngào" là xong.Tuy nhiên phải không còn những hành động và tiếng nói bất nhất nữa.
Trả lờiXóaCCB chống Tàu
Hồi tôi ở Campuchia suốt ngày đài Bắc Kinh chửi tập đoàn Lê Duẩn nhưng tôi tin có Bác Hồ, có độc lập tự do và tin bọn Tàu là kẻ thù truyền kiếp. Việt Nam ta cứ suy yếu là Tàu nó đánh đã trở thành truyền thống rõ như ban ngày. Nay kinh tế yếu kém, dân không tin đảng vì quá tham lam nhũng nhiễu, đất nước suy tàn dẫn đến vong là có minh chứng lịch sử rồi. Rất mong lãnh đạo hồi tỉnh nội trị cho dân an thì giặc ngoài mới chống được????
XóaMao "Lạy Chúa"? Nếu đúng như vậy, thật đểu giả! Tôi biết nhiều tay xã hội đen thờ... Phật, mong Ngài giúp chúng làm điều... ác!
Trả lờiXóaỞ cấp nhà nước cũng đang như vậy đấy...
Qua Lê Duẫn, ta biết được sự thật. Cuộc chiến tương tàn Quốc-Cộng vừa qua, trở nên vô nghĩa.
Trả lờiXóaToàn là NÓI SAU để biện hộ và đổ thừa !
Trả lờiXóaTại sao không căn cứ vào THỰC TẾ để tìm ra giải pháp
thích hợp nhất với đất nước ta hiện nay ?
Uốn nắn lịch sử là chủ trương CHẠY TỘI của đảng,sau
khi lãnh đạo đã từng mù quáng tôn thờ chủ nghĩa CS.,
nên bọn giặc Tàu mới có CƠ HỘI ngàn năm một thuở
để BÀNH TRƯỚNG như hiện nay !
Đúng là SAI một LY đi một DẶM !