* TỐNG VĂN CÔNG
Phóng sự “Đe
dọa từ phương Bắc và xã hội dân sự Việt Nam” của ký giả Trọng Thành (RFI
ngày 21-5-2014) có nhiều thông tin bổ ích và nhận định sắc sảo. Để hiểu xã hội
dân sự là gì, tại sao xã hội dân sự lại hệ trọng đến vậy, và những gì làm nên
xã hội dân sự Việt Nam, tác giả đã mời nhà nghiên cứu Lữ Phương giải đáp một
cách rất ngắn gọn, rành mạch và dễ hiểu. Đặc biệt tác giả quan tâm một số nhận
định rất hệ trọng trong bài “Những
ước vọng của một người dân” của Tiến sĩ Phạm Gia Minh:
“Ở Việt Nam xã hội dân sự đang bị chính trị hóa bởi cả
hai phía – Nhà nước thì quản lý chặt chẽ một hệ thống các cấp Hội và Hiệp Hội
nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị đề ra, trong khi đó phong trào tự phát
trong dân thành lập các tổ chức như Diễn đàn xã hội dân sự, Hội các bloger, Hội
dân oan… nhìn chung cũng mang nặng màu sắc chính trị và bầu không khí chung là
nghi kỵ và đối đầu nhau một cách không đáng có”.
Ký giả Trọng Thành dẫn thêm: “Một nhận định quan trọng
khác của Tiến sĩ Phạm Gia Minh là: “Về bản chất xã hội dân sự là “khoảng đệm”
hay không gian trung lập giữa Nhà nước và nhân dân nên chỉ khi nào phục vụ mục
đích dân sinh và phi chính trị thì xã hội dân sự mới thực sự phát huy chức năng
vốn có của nó”.
Trong “Những ước vọng của một người dân”, nói chung
Tiến sĩ Phạm Gia Minh đã đề cập và dẫn giải nhiều vấn đề xã hội rất sâu sắc.
Tuy nhiên với hai đoạn văn mà ký giả Trọng Thành đặt lại thì có lẽ ông phân
tích chưa rõ và như vậy có thể gây hiểu lầm không có lợi. Do đó xin có đôi lời
bàn thêm.
Khái niệm “xã hội dân sự” đã có từ thời cổ Hy Lạp.
Aristote là người đầu tiên dùng thuật ngữ này và có câu nói nổi tiếng “Con
người là một động vật chính trị”. Trong Khế ước xã hội, Rousseau dành
chương 4, quyển 4, kể về các hội dân được thành lập thời La Mã. Các hội dân này
kiểm soát hoạt động của Nguyên lão Thượng viện: “Riêng thành phố La Mã được
vinh dự đã cho thế giới một tấm gương tốt, trong đó không có sự lạm quyền.” Như
vậy là từ thời La Mã, xã hội dân sự đã có những hoạt động chính trị, nhằm hạn
chế lạm quyền.
Xã hội dân sự nổi lên và mạnh dần ở thời tiền tư bản,
khi con người ý thức ngày càng sâu sắc về cá nhân và các quyền tự do mà “tạo
hóa ban cho”. Vào thế kỷ 16, các học giả J. Rodin (Pháp), T. Hobbes (Anh), B.
Spinoza (Hà Lan)… phân tích sâu sắc về tự do cá nhân và đưa ra sự phân biệt
giữa nhà nước với xã hội. Đến thế kỷ 18, Rousseau, Montesquieu đặt vấn đề tự do
cá nhân của công dân độc lập với nhà nước. Triết gia Hegel (Đức) trongTriết học
pháp quyền, được coi là tác phẩm phân tích công phu về xã hội dân sự với nhà
nước hiện đại, cho rằng xã hội dân sự là nơi các công dân có hoàn cảnh giống
nhau cần liên kết với nhau vì lợi ích. Xã hội dân sự là nơi tập hợp của các tư
nhân, các giai cấp, các nhóm được điều tiết theo dân luật, không phụ thuộc trực
tiếp vào nhà nước. Nhưng ông cho rằng xã hội dân sự phải tuyệt đối phục tùng,
chịu sự quản lý của nhà nước để được bảo đảm tự do. Ông gọi vai trò Nhà nước
“là hành trình của Thượng đế”, tầng lớp quan chức là “linh hồn của xã hội”. Về
điều này ông đã thụt lùi so với các nhà tư tưởng ở thế kỷ 18. Trong Phê
phán triết học chính trị của Hegel, K. Marx vừa chấp nhận những luận điểm
đúng, vừa chống các luận điểm sai trái như tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước
đối với xã hội dân sự. K. Marx cho rằng Nhà nước phải phục vụ xã hội dân sự.
Các triết gia của Thế kỷ Ánh sáng đã đánh thức con
người nhận ra các quyền tự do mà Tạo hóa đã ban cho của mình, từ đó kiên quyết
đấu tranh để giành lấy.
J.
J. Rousseau viết Khế ước xã hội với câu mở đầu: “Con người sinh ra tự
do, nhưng ở đâu họ cũng bị xiềng xích”. Từ đó ông đề ra cách tổ chức thiết chế
xã hội để sao cho các quyền tự do của con người không bị nhà cầm quyền tùy tiện
tước mất. Ông cho rằng với Khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do thiên
nhiên, nhưng thu được quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những gì mình có. Tuy
Khế ước Xã hội quan trọng như vậy, nhưng ông nói: “Nếu tất cả dân chúng họp lại
và đồng lòng xé bỏ thì không nghi ngờ gì nữa, Khế ước đó bị hủy bỏ ngay một
cách hợp pháp.”
Khế ước Xã hội của J.J. Rousseau và Tinh
thần Pháp luật của Montesquieu với lý thuyết nhà nước pháp quyền, tam
quyền phân lập đã chỉ ra cách thể chế hóa các quyền tự do của con người bằng
một nhà nước dân chủ hiện đại. Các tư tưởng khai sáng này đã đưa tới Cách mạng
Pháp 1789 với Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền: – Điều 1. Mọi người sinh ra
và sống tự do, bình đẳng về các quyền; mọi phân biệt xã hội chỉ có thể đặt trên
ích lợi chung. – Điều 2. Mục đích của các tổ chức chính trị là gìn giữ các quyền
tự nhiên và không thể bị tước bỏ của con người; các quyền này là quyền tự do,
quyền sở hữu, quyền được bảo đảm an ninh và chống áp bức. – Điều 4. Tự do bao
gồm quyền có thể làm mọi điều không gây hại cho người khác. – Điều 11. Việc tự
do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một trong những quyền quý nhất của con
người”. – Điều 15. Xã hội có quyền bắt mọi công chức phải báo cáo về công việc
quản lý của họ…
Từ năm 1835, A. Tocqueville xuất bản quyển Nền
Dân trị Mỹ, trong đó ông ghi chép khá tỉ mỉ, sinh động các hoạt động xã hội dân
sự ở nền dân chủ trẻ trung của thời ấy. (Phạm Toàn dịch, NXB Tri thức 2008).
Xin nêu ra đây đôi đoạn:
Chương
IV- Việc lập các đoàn thể chính trị:
“…Có
vô số tổ chức khác hoàn toàn được sinh ra và lớn lên nhờ ý nguyện cá nhân của
con người…”
“…Nhà
trường là nơi trẻ em ngay cả trong những trò chơi cũng phải tuân thủ luật lệ do
chúng đặt ra…”
“…Có
sự lộn xộn xuất hiện ở một con lộ. Ngay lập tức những người sống gần đó thành
lập tổ chức bàn cách giải quyết, đẻ ra ngay một quyền lực hành pháp giải quyết
luôn sự cố…”
“Khi
quyền lập đoàn thể được thừa nhận, người công dân có thể dùng nó theo nhiều
cách. Chỉ thành một đoàn thể chính trị khi nó bao gồm sự tham gia công khai của
một số cá nhân theo một học thuyết này nọ và được họ cam kết bảo đảm bằng cách
nào đó thực hiện học thuyết đó…”
“…Phải
thừa nhận là tự do vô giới hạn trong việc lập đoàn thể vì lý do chính trị cho
tới nay chưa hề tạo ra ở Hoa Kỳ những tác động tai hại nào như người ta ở các
nơi khác đã lo nghĩ sẽ xảy ra.”
“…Ngày
nay quyền tự do lập đoàn thể chính trị trở thành một đảm bảo cần thiết chống
lại nạn cường quyền của phe đa số. Ở Hoa Kỳ khi một đảng nào trở thành đảng cầm
quyền thì toàn bộ sức mạnh chính trị rơi vào tay đảng đó… Quyền tự do công cộng
là để ngăn ngừa sự chuyên quyền của các đảng phái giống như tính võ đoán của vị
quân vương. Không có đất nước nào mà các đoàn thể chính trị lại cần thiết hơn
là các quốc gia có trạng thái xã hội dân chủ”.
Chương V, nói về các đoàn thể trong đời sống dân sự.
Tác giả cho rằng nếu công dân chỉ với tư cách cá nhân
thì không thể bảo vệ quyền tự do của mình, do đó họ phải có hình thức đoàn kết
với những người cùng hoàn cảnh để lập ra hiệp hội. Các đoàn thể chính trị của
Hoa Kỳ so với các nước là nhiều, nhưng ở Hoa Kỳ thì chỉ là số rất ít giữa mênh
mông các hiệp hội của đời sống dân sự: Hiệp hội thương mại, hội tổ chức lễ tết,
hội lập trường học, hiệp hội dựng nhà thờ, hội quảng bá sách, cả hiệp hội mở
nhà tù. Tác giả kể việc chứng kiến hơn 100 nghìn người dân lập Hội đòi không
dùng rượu mạnh. Ông mỉa mai rằng, nếu 100 nghìn người dân này mà sống ở Pháp
thì chắc chắn họ sẽ từng người một đến cầu xin chính phủ tổ chức kiểm soát các
quán nhậu trên toàn quốc!
Cuối chương này tác giả kết luận:
“Tại các nước dân chủ, khoa học về sự kết hội và lập
hội là khoa học mẹ; sự tiến bộ của các khoa học khác tùy thuộc vào những tiến
bộ của “bà mẹ” này.
“Trong
những quy luật chi phối xã hội con người, có một cái hình như chính xác hơn và
tường minh hơn mọi quy luật khác. Muốn cho con người mãi mãi tồn tại văn minh
hoặc trở thành những kẻ văn minh, cần thiết phải phát triển được trong bọn họ
nghệ thuật kết hội lại với nhau và nghệ thuật ấy phải được hoàn thiện tương tự
như sự gia tăng của quyền bình đẳng các điều kiện.”
Nhân dân Hoa Kỳ đã được sống trong một xã hội dân sự
như miêu tả trên đây đã hơn 200 năm, nhờ đó mà nước họ được coi như “miền đất
hứa”, khoa học (chiếm hầu hết các giải Nobel), nghệ thuật dẫn đầu thế giới. Từ
nửa đầu thế kỷ 20, nhà tư tưởng, nhà văn lớn Ayn Rand của Hoa Kỳ, trong bài Bản
chất của chính phủ, đã viết rằng: “Thời kỳ mà chính phủ được tự do làm bất kỳ
những gì nó muốn, trong khi người dân chỉ có thể hành động nếu được phép, là
giai đoạn đen tối nhất của lịch sử con người, giai đoạn cai trị bằng sự dã man.”
Gần chúng ta hơn là sự phát triển xã hội dân sự ở Hàn
Quốc thúc đẩy chuyển hóa chế độ độc tài thời Lý Thừa Vãn, Pắc Chung Hy sang chế
độ dân chủ. Tác giả Chung Shi Ahn trong bài Phát triển kinh tế và dân chủ
hóa ở Hàn Quốccho biết, các tổ chức xã hội dân sự của nước này đấu tranh với
các chế độ độc tài nhằm mục đích: 1/ Thay đổi các thể chế đàn áp của nhà nước
bằng những cơ quan đại diện trong tiến trình dân chủ hóa. Các tổ chức xã hội
dân sự dần dần độc lập với bộ máy nhà nước. 2/ Trong quá trình ấy những hình
thức của quyền xã hội dân sự xuất hiện ngày càng nhiều, buộc nhà nước phải chấp
nhận để có quan hệ vững chắc hơn với xã hội dân sự. Và sau khi đã chuyển hóa
sang chế độ dân chủ thì “uy quyền của Nhà nước được xã hội dân sự trao cho và
do đó các cơ quan Nhà nước có thể trở nên mạnh hơn trước kia, với một quan niệm
hoàn toàn khác.” (tức là không dùng quyền lực độc tài).
Ngày nay, nhân loại đã có Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền (1948), sau đó là nhiều Công ước cụ thể hóa các quyền
trongTuyên ngôn này. Ngày 24-9-1982 Nhà nước Việt Nam ký gia nhập Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị. Lời nói đầu Công ước này viết: “Tuyên ngôn nhân
quyền chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do được tận hưởng tự do về
dân sự và chính trị, không bị sợ hãi và thiếu thốn nếu tạo được những điều kiện
để mọi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa của mình”. So với Tuyên ngôn Nhân quyền, quyền tự do
ngôn luận được Công ước này ghi rõ ràng đầy đủ hơn ở Điều 19:
1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà
không bị ai can thiệp.
2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao
gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận, và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, không
phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc
bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy
theo sự lựa chọn của họ.
3- Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 của
điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn tới
một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy
định và cần thiết để:
a/
Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác.
b/
Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công
chúng.
Nước ta, trước Đổi mới (Đại hội 6, năm 1986) giống như
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, tức là một chế độ toàn trị
(totalitaire), không có xã hội dân sự, tất cả các đoàn thể đều do Đảng lập ra
và ăn lương như công chức nhà nước. Sau Đổi mới, các hoạt động kinh tế được trả
lại cho người dân, từ đó xã hội dân sự nảy nở ở các lĩnh vực kinh tế, dân sinh,
từ thiện… Lưu Hiểu Ba gọi nhà nước Trung Quốc sau cải cách của Đặng Tiểu Bình là
nhà nước hậu toàn trị. Có lẽ Việt Nam cũng đã sang thời kỳ hậu toàn
trị. Các Đại hội Đảng đều ghi nhận phải đổi mới toàn diện. Đại hội 11 quyết
định: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích
hợp…”. Dù cho việc thực hiện chậm chạp, đổi mới chính trị còn so le với đổi mới
kinh tế, nhưng vẫn là quá trình không thể cưỡng lại được. Cương lĩnh xây dựng
đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
được Đại hội 11 thông qua đã ghi nhận: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi
hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo, và chân thành lắng nghe ý kiến đóng
góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, nhà nước có cơ chế chính sách tạo điều
kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai
trò giám sát và phản biện xã hội” (Văn kiện Đại hội 11, trang 87). Hiến pháp
2013 ở Điều 2, chương 2 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định.” Trên các báo chí chính thống, từ chỗ coi “xã
hội dân sự” là một thủ đoạn diễn biến hòa bình, đã chuyển sang yêu cầu “Hiểu
đúng về xã hội dân sự”, cho rằng “xã hội dân sự đóng vai trò xây dựng cộng
đồng, trợ giúp nhà nước” (Đức Thành, báo Quân đội Nhân dân ngày 30-3-2014).
Tuy còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có thể rút ra
một số điều chung nhất về các đặc trưng của tổ chức xã hội dân sự:
1- Là những tổ chức do người dân tự nguyện lập ra, tự
trang trải về tài chính, không hưởng lương, hoặc trợ cấp của nhà nước, còn được
gọi là những hội đoàn phi chính phủ. Ở xã hội dân chủ, nhà nước trao hết việc
tổ chức hội đoàn cho xã hội dân sự. Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng có đoạn: “Để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải
làm tốt chức năng kiến tạo và phát triển. Nhà nước không làm thay dân mà phải
tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi
người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp
cho xã hội. Chỉ khi dân giàu thì nước mới mạnh. Xã hội hóa không chỉ để huy
động các nguồn lực mà còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng,
những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn”. Đó chính là sức mạnh và tiềm
năng của xã hội dân sự.
Nếu nhà nước giao hết các hội đoàn lớn nhất cho xã hội
dân sự thì ngân sách quốc gia sẽ có được một khoản rất lớn để có thể thực hiện
dự án cải cách tiền lương mà ba mươi năm qua vẫn chưa tìm được lối ra. Nhân đây
xin nói, ký giả Trọng Thành cho Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, Hội
người cao tuổi là “tổ chức mang tính dân sự nhiều hơn” – có lẽ nhận định này
không chính xác, bởi vì cả hai hội đoàn này đều do nhà nước lập ra và cán bộ
của họ ăn lương nhà nước như công chức. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật
ghi trên Điều lệ của mình là “tổ chức chính trị – xã hội thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam .”
Và có lẽ cách nói của Tiến sĩ Phạm Gia Minh cũng nên đảo ngược lại là “về mặt
nguyên tắc”, “về mặt nguyên lý” các hiệp hội do nhà nước lập ra chưa phải là
các tổ chức xã hội dân sự.
2 – Các tổ chức xã hội dân sự không phải chỉ phục vụ
mục đích dân sinh và phi chính trị. Như chúng ta đã thấy từ thời cổ La Mã cho
đến hiện đại, các tổ chức xã hội dân sự bao gồm rất nhiều mặt, nhằm thực hiện
các quyền tự do của con người, có các quyền dân sự và cả quyền chính trị. Có
điều khác với thời xưa, người dân trong chế độ dân chủ không đòi các quyền tự
do thiên nhiên (do tạo hóa ban cho) mà chỉ đòi quyền tự do dân sự, tức là các
quyền do Hiến pháp dân chủ quy định (theo tinh thần Khế ước xã hội). Theo J.S.
Mill (1806-1873) thì quyền tự do tư tưởng và tự do thảo luận là quan trọng
nhất. Để có công cụ đấu tranh tư tưởng, người dân lập đoàn thể chính trị, cơ
quan ngôn luận… Hai tác giả N.M.Voskresenskaia và N.B.Davletsshina (trong Chế
độ dân chủ, nhà nước và xã hội) định nghĩa: “Xã hội dân sự là xã hội trong đó
các tổ chức khác nhau của các công dân như: các đảng phái, các công đoàn, hợp
tác xã, nhóm…, thực hiện mối liên hệ giữa công dân với nhà nước, không để cho
nhà nước áp bức các công dân của mình.” Thực tế trong thế giới hiện đại, tất cả
các nước có chế độ dân chủ trưởng thành, xã hội dân sự bao gồm các hiệp hội dân
sự và chính trị. Một đảng chính trị khi bị thất cử không còn cầm quyền thì hòa
mình vào xã hội dân sự, sửa đổi cương lĩnh để thu phục dân chúng, tiếp tục
tranh cử khóa sau. Xã hội vì thế mà luôn luôn ổn định và không ngừng tiến bộ.
3- Thực tế cho thấy quyền lực luôn có xu hướng lạm
quyền. Cho dù ở chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền, phân lập ba quyền để kiểm
soát, hạn chế quyền lực lẫn nhau, đề cao quyền tư pháp độc lập, nhưng hiện
tượng lạm quyền vẫn xảy ra. Các tổ chức xã hội dân sự là nơi phát hiện tình
trạng lạm quyền, buộc nhà nước phải thực hiện đúng Hiến pháp.
Chúng ta đang trong quá trình đổi mới, đặc biệt đổi
mới chính trị là điều mới mẻ và đầy khó khăn, bởi sức ì của bảo thủ, giáo điều.
Các tổ chức xã hội dân sự đúng như ý nghĩa của nó còn rất ít, quyền lập hội
được đề ra từ Hiến pháp 1946, cho đến nay vẫn chưa được thi hành. Tuy nhiên
không thể vì vậy mà tước mất của nó chức năng quan trọng là “trợ giúp nhà nước”
(cách nói của Đức Thành, báo Quân đội Nhân dân) hoặc cách nói của nhà nghiên
cứu Lữ Phương là: “Tạo sức ép lên nhà nước, buộc nhà nước phải có chuyển đổi
trong chừng mực nào đó thích hợp với ý nguyện của xã hội dân”.
Như vậy không thể gọi xã hội dân sự là “khoảng đệm hay
không gian trung lập giữa nhà nước và nhân dân”. Xã hội dân sự phản biện, tác
động vào nhà nước, buộc nhà nước phải đúng là của dân, do dân, vì dân. Mặt
khác, xã hội dân sự giúp nhà nước đào luyện người dân, hội viên của mình có
nhận thức đúng, có ý thức trách nhiệm cao đối với đất nước. Tình trạng bạo loạn
ở Bình Dương, Đồng Nai vừa qua không sớm được ngăn chặn từ gốc, có nguyên nhân
sâu xa là thiếu những tổ chức xã hội dân sự đúng nghĩa, nhất là trong công nhân
lao động.
Vì những lý lẽ kể trên, xã hội dân sự là một trong ba
“chân kiềng” không thể thiếu một của chế độ dân chủ: xã hội dân sự, kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền.
Ngày 26-5-2014
T.
V. C.
(Tác giả gửi BVN)
-----------------
Đây là biểu hiện của không kiên định, tơ tưởng xét lại.....
Trả lờiXóadân sự cái quái gì? sức mạnh ở đầu họng súng....Lông đã dạy........
Khi "bên kia" xoay xở được súng là "Bùm! Bùm!"
XóaXin kính chào cụ Công.Cụ đã rút kinh nghiệm các vị trước đó nên khi cụ ra đảng,cụ dã viết lời chia tay với đảng,chi bộ và đảng ủy không có cơ hội để làm thủ tục "khai trừ" cụ.anh lính chống Pháp thuở nào nay đã rũ sạch niềm tin mù quáng để nói rõ tất cả.Chúng con chúc cụ mạnh khỏe và tiếp tục đóng góp cho cuộc đấu tranh vì dân chủ
Trả lờiXóaXã hội dân sự tôn trọng quyền và lợi ích của người dân theo nguyên tắc win - win, và ngược lại người dân cũng ý thức được vai trò và quyền lợi của họ, không phân biệt tầng lớp - giai cấp - số lượng. Nếu như nhà nước nắm vai trò lãnh đạo xã hội bằng việc ban hành chinh sách thì trong xã hội dân sự người dân nắm vai trò phản biện, buộc nhà nước phải lắng nghe để thỏa mãn yêu cầu. Một xã hội toàn trị luôn tạo ra sự căng thẳng và đối đầu, phương Tây dẫn đầu là Mỹ luôn đề cao xã hội dân sự và xem nó như một vũ khí hiệu quả để xuất khẩu chính trị ra nước khác nhằm mục đích tìm kiếm thị trường và chư hầu nhằm củng cố quyền lực mềm toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam chưa thể dân sự hoá hoàn toàn vì hai nguyên nhân cơ bản sau:
Trả lờiXóa1. nhà nước theo kiểu toàn trị chưa suy yếu, do sự phản kháng của người dân chưa gay gắt và lực lượng bảo vệ cho sự cai trị đang rất mạnh.
2. Trình độ nhận thức của người dân chưa cao, chưa ý thức được quyền lợi chính trị, đặc biệt là chưa có lực lượng tiên phong dẫn dắt.
Muốn có một xã hội dân sự sơ khai thì phẢi có sự xuất hiện của các nhóm bất đồng chính kiến có trọng lượng, đóng vai trò đối kháng với nhà nước. Hiện nay các nhóm trong nước tồn tại được thực chất là do họ thân nhà nước, còn lại chủ yếu bên ngoài. Vậy con đường đi ngắn nhất là gì ? Tôi cho rằng vai trò của giáo dục sẽ giải quyết tốt khó khăn này, nếu các nhóm bất đồng muốn tạo ra sự đối kháng mạnh hơn thì hãy làm cách nào đó nâng cao dân trí, chấn Hưng dân khí, thông qua con đường du học. Một khi đã hình thành một tầng lớp có tri tuệ và nhiệt huyết đông đảo thì việc lật đổ và xây dựng một xã hội mới dân chủ hơn không phải là điều khó, một bài toan chính trị muốn giải quyết phải cần thời gian lớn, quan trọng là bây giờ chưa có vị nào đủ tầm và tâm để khơi dậy nguồn cảm hứng cho lớp trẻ, họ vẫn ngây thơ và bất lực đến mức chỉ suốt ngày chửi cộng sản chứ chưa ý thức được phải làm gì cụ thể, nghĩa là ý thức chính trị vẫn còn khá mơ hồ. Sự phản kháng của người dan không khiến giới cầm quyền sợ, nếu 2 triệu người trẻ cùng ý thức và chung lòng chấn hương dân khí thì sẽ khác đi rất nhiều, đó sẽ là mối nguy thực sự khiến giới cầm quyền sợ hãi. Nhiệt huyết của các ban sẽ giúp lan tỏa đến những người khác, giúp thức tỉnh họ.....mong là các bạn ngoài nhiệm vụ học tập thì hãy ý thức được sức mạnh chính trị các bạn đang có, biến nó thành nguồn năng lượng mạnh mẽ cho một lực lượng nòng cốt chấn Hưng đât nước, giặc tàu đang tiến sau vào lãnh thổ việt nam rồi.
Lí luận có vẻ cao siêu chứ Xã hội dân sự ở Việt Nam có từ... tám hoánh. Ở Xứ Nghệ chúng tôi có Phường vải: Những người làm nghề dệt vải lập thành phường giúp nhau hành nghề. Rất hiệu quả. Đến mức đã có một "Văn hóa Phường Vải" cơ mà. Các bác đã nghe nói Hát phường vải ở Xứ Nghệ chưa?
Trả lờiXóaRồi phường nhà (Đến nay vẫn duy trì nhiều nơi): mỗi phường khoảng 25, 30 nhà. Khi có nhà nào cần lợp lại nhà thì báo cho Phường trưởng xem xét. Nếu đúng cần thì mỗi "phường viên" trong khoảng thời gian 1, 2 tháng gì đó góp 30 cái tranh (ví dụ thế), đến hẹn đem đến nhà cần lợp và ở đó giúp lợp luôn. Và cừ thế đến nhà khác. Nay các phường chủ yếu góp xi măng, gạch. Rất hiệu quả.
Và các phường khác nữa: Phường xe cút kít, phường đan lát...
Các phường này đều tự quản, chả cần ai "Lãnh đạo" cả. Mà rất nghiêm.
Đơn giản và cụ thể. Khi nói đến xã hội dân sự tức là thiết lập một xã hội công bằng văn minh, một xã hội phát triển hài hoà có đạo đức hợp với qui luật của tự nhiên. Nhắc đến yếu tố chính trị trong xã hội dân sự thật ra là nói đến chỉ dấu chế độ mà qua đó bằng những lí luận và thực tế hành động của nhóm ,đảng phái được quyền quản lí đất nước trong một thời gian nhất định. Một xã hội dân sự thật sự là một xã hội có bộ phận lãnh đạo và người dân cùng hướng về lợi ích cộng đồng, đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên cả quyền lợi phe nhóm đảng phái. Như thế trong xã hội đó mọi thành viên thật sự biết lắng nghe, biết cầu thị , do vậy sự chuyển đổi yếu tố chính trị nói cách khác sự luân chuyển vai trò lãnh đạo đất nước diễn ra một cách tự nhiên không cưỡng ép, gò bó, và tuyệt nhiên không gây phương hại cho lợi ích của cộng đồng, đất nứơc và dân tộc. Ngược lại, thực tế xã hội duy ý chí, dùng bạo lực, dùng những thủ đoạn tàn ác, để bảo vệ chế độ hay nói cách khác là để duy trì vai trò chính trị của một nhóm người, một đảng phái nhằm mục đích nắm quyền cai trị xã hội thì nói thẳng xã hội đó không phải là xã hội dân sự. Cần phải nói thêm rằng xã hội dân sự chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận sự khác biệt, xã hội dân sự không phân biệt đảng phái giai cấp, không phân biệt sang hèn, không phân biệt chủng tộc, quyết sách của xã hội dân sự dựa trên sự đồng thuận và được thực thi bởi những nhà quản lí xã hội, nói rõ là chính phủ được bầu ra bởi người dân, và được người dân chấp hành như đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của họ với đất nước. Nếu như nói rằng đến một lúc nào đó yếu tố nhà nước sẽ biến mất, thì phái nói rằng xã hội dân sự vẫn sẽ luôn tồn tại. Vì thế xây dựng xã hội dân sự là một nhiệm vụ của mọi thành viên trong một đất nước, nền tảng của một xã hội dân sự là một nền giáo dục nhân bản, đạo đức, khoa học, khai phóng và mang đậm những nét tinh tuý của văn hoá nhân loại cũng như của cha ông để lại.
Xóa