* Carlyle A. Thayer
Việt Nam
không muốn tiến tới đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh tốn kém
tiền bạc và công nghệ. Tuy nhiên, quân đội Việt Nam được hiện đại hóa để sẵn
sàng bắt Trung Quốc trả giá và để ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của Trung
Quốc.
Giới thiệu
Bài viết này xem xét
tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc đã dẫn đến việc hiện đại hóa
chưa từng thấy các lực lượng hải quân và không quân của Việt Nam như thế nào.
Diễn biến này được đặt trong sự phát triển có tính lịch sử của quan hệ
Trung-Việt từ tình trạng thù địch trong suốt cuộc xung đột Campuchia thành bạn
bè hữu nghị. Mặc dù tranh chấp lãnh thổ Biển Đông là điều khó chịu chính trong
quan hệ song phương, nó đã không ngăn cản hai nước phát triển những gì họ gọi
là một “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Việt Nam cố gắng duy trì
quyền tự chủ của mình thông qua một chính sách hợp tác chính trị và kinh tế với
Trung Quốc trong các lĩnh vực mà lợi ích quốc gia của họ hội tụ và bằng việc
đấu tranh chống lại hành vi quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bối cảnh
chính trị-chiến lược
Hai năm sau khi Việt
Nam thống nhất, nước này bị lôi kéo vào một cuộc xung đột biên giới với nước
láng giềng Campuchia. Tháng 12/1978 Việt Nam đã ra quyết định định mệnh là can
thiệp vào nước láng giềng của mình và lật đổ Khmer Đỏ, một chế độ đã liên minh
với Trung Quốc. Trung Quốc đã trả đũa bằng cách xâm nhập miền Bắc Việt Nam vào
năm 1979 để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì thách thức Trung Quốc. Mỹ, Nhật
Bản và Liên minh châu Âu đã áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế và thương mại đối
với Việt Nam.
Trong thập kỷ sau đó,
trong khi các lực lượng quân sự Việt Nam ổn định tình hình ở Campuchia, Trung
Quốc duy trì căng thẳng biên giới phía Bắc bằng việc pháo kích lặp đi lặp lại
và các đe dọa phát động một cuộc tấn công trừng phạt khác. Việt Nam đã triển
khai tới 250.000 quân đến các tỉnh miền Bắc của mình để bảo vệ trước một cuộc xâm
lược thứ hai của Trung Quốc.
Đến năm 1987, như là
hệ quả của sự tan băng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô, các triển vọng
cho việc đảm bảo một dàn xếp chính trị tại Campuchia đã trở thành thực tế và
tình hình dọc theo biên giới Trung-Việt dần dần ổn định. Trong tháng 9/1989,
Việt Nam đã hoàn thành việc rút tất cả các lực lượng quân sự của mình từ
Campuchia về và căng thẳng với Trung Quốc giảm xuống.
Tháng 9/1990, các
quan chức cấp cao Trung Quốc và Việt Nam đã tổ chức một cuộc gặp cấp cao tại
thành phố Thành Đô ở miền Nam Trung Quốc và vạch ra con đường dẫn đến bình
thường hóa. Tháng 6/1991, dự tính về mối quan hệ được cải thiện với Trung Quốc,
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Đường lối
chỉ đạo chính sách kêu gọi Việt Nam “đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh
tế với tất cả các nước và các tổ chức kinh tế… không phân biệt chế độ chính
trị-xã hội khác nhau”.
Tháng 10/1991, một
dàn xếp chính trị toàn diện về cuộc xung đột Campuchia đã đạt được bằng một hội
nghị quốc tế họp tại Paris. Việt Nam đã đáp ứng hai yêu cầu chính của Trung
Quốc: rút toàn bộ lực lượng quân sự Việt Nam khỏi Campuchia và một dàn xếp
chính trị trong đó bao gồm cả đồng minh của Trung Quốc, Campuchia Dân chủ
(Khmer Đỏ).
Tháng tiếp sau đó,
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã bình
thường hóa các quan hệ ngoại giao sau thời kỳ 13 năm lạnh nhạt. Trong 4 năm
tiếp sau, Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể trong việc đáp ứng các mục
tiêu do Đại hội toàn quốc lần thứ VII đã đặt ra, đến năm 1995 Việt Nam đã bình
thường hóa quan hệ với Mỹ, và Nhật Bản cũng như Liên minh châu Âu đều đã dỡ bỏ
các biện pháp trừng phạt kinh tế của họ và nối lại viện trợ phát triển. Việt
Nam cũng đã trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN).
Quan hệ đối
tác chiến lược Việt Nam-Trung Quốc
Vào tháng 3/1999, một
cuộc gặp cấp cao giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã thông qua
một phương châm mười sáu chữ kêu gọi “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Một tuyên bố chung được đưa ra vào năm
sau đó đã thiết lập khuôn khổ cho các mối quan hệ dài hạn giữa hai nhà nước.
Trung Quốc và Việt Nam đã nhanh chóng đạt được thỏa thuận phân định biên giới
trên bộ và phân định ranh giới trên biển tại Vịnh Bắc Bộ, mà ở đó một vùng đánh
cá chung đã được thiết lập.
Tại Đại hội IX của
Đảng năm 2001, một Đường lối chỉ đạo chính sách mới đã tuyên bố rằng Việt Nam
sẽ ưu tiên phát triển quan hệ với “các nước hữu nghị truyền thống, các nước
láng giềng và các nước xã hội chủ nghĩa”, ám chỉ Trung Quốc, Lào, Campuchia và
Nga. Tháng 7 năm sau, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành
Nghị quyết số 3 “Về chiến lược an ninh quốc gia”. Nghị quyết này tuyên bố rằng
Trung Quốc là một trong số bạn bè của Việt Nam trong khi Mỹ được xếp vào hàng
kẻ thù chiến lược của Việt Nam. Đại hội IX cũng tuyên bố rằng “Việt Nam muốn là
bạn và là đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia”. Làm sao để tuyên bố này phù
hợp với quy định về ý thức hệ của Việt Nam trong việc ủng hộ các nước xã hội
chủ nghĩa và hệ thống thang bậc mới trong quan hệ đối ngoại? Trong tháng
7/2003, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
số 8, “Chiến lược Quốc phòng trong tình hình mới”, nhằm giải quyết bài toán hóc
búa này. Nghị quyết 8 đã đặt các lợi ích quốc gia thực dụng lên trên hệ tư
tưởng đã lỗi thời. Việt Nam sẽ hợp tác với các quốc gia khác ở chỗ lợi ích quốc
gia hội tụ; nhưng Việt Nam sẽ đấu tranh chống lại các quốc gia nào làm tổn hại lợi
ích quốc gia của Việt Nam. Nghị quyết 8 đã đưa ra các khái niệm biện chứng về
“đối tượng hợp tác” (Đối tác) và “đối tượng đấu tranh” (Đối tượng) để biện giải
cho định hướng mới này.
Quan hệ của Việt Nam
với Trung Quốc nên được đặt trong khuôn khổ chính sách mở cửa của Việt Nam là
đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ đối ngoại của mình. Từ năm 2001, Việt
Nam đã theo đuổi một chiến lược lớn phát triển các mối quan hệ chặt chẽ với các
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; các nước lớn chủ yếu
ở Đông Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á; và châu Âu thông qua các thỏa thuận hợp tác
chiến lược chính thức. Việt Nam đã đàm phán thỏa thuận đối tác chiến lược đầu
tiên của mình với Liên bang Nga vào năm 2001. Sau đó nước này đạt được các thỏa
thuận đối tác chiến lược với Nhật Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008),
Hàn Quốc và Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Pháp, Italy, Thái Lan,
Indonesia và Singapore (2013).
Năm 2006, Việt Nam và
Trung Quốc đã thành lập Ủy ban chỉ đạo chung về hợp tác song phương ở cấp Phó
thủ tướng để điều phối tất cả các khía cạnh trong quan hệ song phương hai nước.
Tháng 6/2008, Việt Nam và Trung Quốc đã nâng cấp quan hệ song phương lên quan
hệ đối tác chiến lược sau hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo đảng ở Bắc Kinh.
Quan hệ song phương đã tiếp tục được nâng cấp thành quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược trong năm sau đó. Trong khuôn khổ này, Trung Quốc và Việt Nam đã
phát triển một mạng lưới dày đặc các cơ cấu đảng, nhà nước, quốc phòng và đa
phương để quản lý các mối quan hệ song phương của họ. Việt Nam và Trung Quốc
hiện nay miêu tả quan hệ song phương của họ như là một quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện.
Tranh chấp
Biển Đông
Trước khi Trung Quốc
và Việt Nam bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, vấn đề Biển Đông nổi bật lên
trong hai dịp. Đầu tiên, vào tháng 1/1974, một đội tàu hải quân Trung Quốc đã
xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và đánh đuổi các lực lượng vũ trang của Việt Nam
Cộng hòa. Tại thời điểm này, Việt Nam vẫn còn bị chia cắt giữa miền Bắc và miền
Nam. Lần thứ hai, tháng 3/1988, trong khi Việt Nam vẫn đang tham chiến ở
Campuchia, một lực lượng hải quân Trung Quốc đã tấn công các kỹ sư quân sự Việt
Nam trên các cấu trúc ở Biển Đông và chiếm các bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross) và
đá Gạc Ma (Johnson South).
Năm 1992, ngay sau
khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, hai bên đã bị
lôi kéo vào một cuộc đối đầu về quyền thăm dò dầu tại vùng biển xung quanh bãi
Tư Chính của Việt Nam nằm ở ngoài khơi bờ biển phía Đông Nam. Sau đó vào những
năm 1990, một tranh cãi khác đã nổ ra khi Trung Quốc trao quyền thăm dò dầu cho
Crestone Oil, một công ty Mỹ, tại vùng biển mà Việt Nam tuyên bố là một phần
Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình.
Va chạm giữa Trung
Quốc và Việt Nam xung quanh tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đã nổ ra năm 2007
khi Trung Quốc áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương ở Biển Đông phía trên 12
vĩ độ Bắc. Trung Quốc áp dụng lệnh cấm này bằng cách lên các tàu Việt Nam và thu
giữ cá đã đánh bắt được của họ và máy thông tin liên lạc. Trong một số trường
hợp, các tàu Trung Quốc đã đâm tàu Việt Nam. Một số bị đánh chìm và đã có những
người chết. Sau đó Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam và giữ họ cho đến
khi họ trả những khoản tiền phạt lớn. Cũng trong năm 2007, Trung Quốc bắt đầu
gây áp lực buộc các công ty dầu mỏ nước ngoài hoặc phải dừng các hoạt động của
họ trong vùng biển của Việt Nam hoặc phải đối mặt với những khó khăn trong các
hoạt động của họ ở Trung Quốc.
Một bước ngoặt lớn
trong tranh chấp ở Biển Đông xảy đến khi Ủy ban Liên hợp quốc về Ranh giới Thềm
lục địa đặt thời hạn chót vào tháng 5/2009 cho việc đệ trình các tuyên bố chủ
quyền đối với thềm lục địa mở rộng vượt quá 200 hải lý. Trung Quốc, lần đầu
tiên, chính thức đệ trình bản đồ “đường 9 đoạn” trên Biển Đông và tuyên bố chủ
quyền đối với tất cả các cấu trúc ở bên trong đường này, bao gồm cả các vùng
biển lân cận.
“Đường 9 đoạn” của
Trung Quốc ăn sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển, trong
đó có Việt Nam. Khu vực chồng lấn này nhanh chóng trở thành một khu vực tranh
cãi khi các tàu chấp pháp biển Trung Quốc cố gắng thực thi chủ quyền. Chẳng
hạn, các tàu dân sự Trung Quốc bắt đầu can thiệp vào hoạt động thương mại của
các tàu thăm dò dầu đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam. Đã có một vài sự cố
công khai, trong đó tàu Trung Quốc hoặc là quấy rối hoặc cắt cáp của các tàu
thuyền nước ngoài đang tiến hành khảo sát địa chấn trong EEZ của Việt Nam. Năm
2012 khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam vạch ra ranh giới biển
của mình, Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc đã đáp lại bằng cách
đưa các lô thăm dò chồng lấn với EEZ của Việt Nam ra đấu thầu quốc tế.
Va chạm thường xuyên
về các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục cho
đến ngày nay. Không có sự cố nào lại nghiêm trọng hơn việc hạ đặt một giàn
khoan dầu khổng lồ của Trung Quốc, Hải Dương- 981, trong vùng EEZ của vn từ
tháng 5-7/2014. Hải Dương-981 được hộ tống bởi một đội tàu hỗn hợp của Trung
Quốc gồm hơn 80 tàu chiến của hải quân, các tàu cảnh sát biển, tàu kéo và tàu
đánh cá. Con số này đã lên đến hơn 100 vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng. Máy
bay quân sự của Trung Quốc bay trên bầu trời.
Việt Nam đã phản ứng
bằng cách cử các tàu của Cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư để phản đối hành
vi vi phạm quyền chủ quyền đó của Trung Quốc. Điều này dẫn đến những cuộc đối
đầu hàng ngày bao gồm cả việc va chạm có chủ ý của cả hai bên và các tàu Trung
Quốc sử dụng vòi rồng áp lực cao nhắm vào buồng lái và các cột ăng-ten thông
tin của tàu thuyền Việt Nam. Việt Nam tuyên bố rằng trong tháng 5 đã đưa ra hơn
ba mươi phản kháng ngoại giao với Trung Quốc, bao gồm cả các nỗ lực kích hoạt
đường dây nóng mà không có kết quả. Cuộc khủng hoảng này đã đánh dấu sự suy
giảm nghiêm trọng nhất trong quan hệ song phương kể từ Chiến tranh biên giới
Trung-Việt hồi năm 1979.
Cuộc đối đầu xung
quanh việc triển khai Hải Dương-981 đã chấm dứt cũng đột ngột như khi nó bắt
đầu. Trung Quốc thông báo rằng giàn khoan này đã hoàn thành các hoạt động của
mình và rút nó khỏi khu vực. Trung Quốc sau đó đã tiếp một đặc phái viên đại
diện cho Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và một phái đoàn gồm 13 tướng lĩnh
cấp cao Việt Nam bao gồm cả Bộ trưởng Quốc phòng. Hai bên đã đồng ý thiết lập
quan hệ song phương trở lại như đã đạt được trước khi có cuộc khủng hoảng Hải
Dương-981. Họ cũng nhất trí rằng các tranh chấp Biển Đông không nên gây tổn hại
quan hệ song phương nói chung. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tháng 5-7/2014 đã làm
xói mòn nghiêm trọng lòng tin chiến lược giữa hai đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện này.
Việc hiện đại
hóa lực lượng của Việt Nam
Các sự kiện có liên
quan đến Biển Đông ở trên hình thành bối cảnh cho quyết định của Việt Nam hiện
đại hóa các lực lượng hải quân và không quân của mình cho các hoạt động ở Biển
Đông để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Cho đến giữa những năm 1990, hải quân
Việt Nam vẫn chỉ là một lực lượng hải quân ven bờ. Từ giữa những năm 1990, Việt
Nam đã bắt đầu mua các tàu hộ tống lớp Tarantul từ Liên Xô có trang bị tên lửa
chống hạm. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga đã trở thành nhà cung cấp vũ
khí chính của Việt Nam. Kể từ năm 2008, hải quân Việt Nam đã được giao 1 tàu hộ
tống BPS-500, 2 tàu hộ vệ tàng hình trang bị tên lửa dẫn đường lớp Gepard 3.9
(các tên lửa chống hạm Uran 3M24), 3 tàu ngầm Varshavyanka tức tàu ngầm truyền
thống cải tiến lớp Kilo (được vũ trang bằng tên lửa chống hạm và tên lửa hành
trình đối đất), 4 tàu hộ tống trang bị tên lửa dẫn đường Tarantul V, 5 khinh hạm
hạng nhẹ lớp Petya, và 6 tàu tấn công nhanh lớp Svetlyak (trang bị tên lửa
chống hạm). Việt Nam dự kiến sẽ nhận được thêm 2 khinh hạm Gepard trong năm nay
và nhận thêm 3 tàu ngầm lớp Kilo trước cuối năm 2016.
Được biết Việt Nam đã
ký hợp đồng mua ít nhất hai tàu hộ tống lớp Sigma của Hà Lan (được trang bị các
tên lửa chống hạm Exocet có tầm bắn mở rộng).
Ngoài ra, Việt Nam
cũng đã mua 11 máy bay Su-27 và 23 máy bay phản lực đa năng Su-30. Năm 2013
Việt Nam đã thông báo rằng họ tiến hành các cuộc tuần tra bằng không quân trên
Biển Đông.
Robert Farley, một
chuyên gia an ninh tại Đại học Kentucky, đưa ra đánh giá đầy kích động rằng có 5 loại vũ khí Việt Nam mà Trung Quốc nên sợ: máy bay chiến
đấu Sukhoi, tàu ngầm lớp Kilo, tên lửa hành trình P-800 Onyx, tên lửa
đất-đối-không (SAM) S-300, và chính lãnh thổ của Việt Nam. Tên lửa hành trình
P-800 Onyx “có thể phóng được từ máy bay, từ các tàu nổi, từ các tàu ngầm và từ
các tổ hợp đặt trên bờ” và tấn công các tàu Trung Quốc từ nhiều hướng bất ngờ
và áp đảo các hệ thống phòng không của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Hoa (PLAN).
SAM S-300 là một trong những hệ thống phòng không tinh vi và tích hợp nhất trên thế giới. Theo Farley, “nó có thể truy lùng và tiếp cận hàng chục mục tiêu trong tầm hoạt động lên đến 75 dặm… Được sử dụng kết hợp với các máy bay chiến đấu của VPAF (Không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam), mạng lưới SAM sẽ khiến việc thực hiện một chiến dịch không quân phối hợp chống lại Việt Nam với chi phí chấp nhận được trở nên rất khó khăn. “Hệ thống S-300 có thể được sử dụng để bảo vệ Vịnh Cam Ranh và các căn cứ hải quân có tính sống còn khác của Việt Nam”. Và cuối cùng, Farley lưu ý Việt Nam “có lợi thế về không gian”, có nghĩa là “địa hình khắc nghiệt”, thứ sẽ ngăn không cho Trung Quốc phát động một cuộc xâm lược trên đất liền.
SAM S-300 là một trong những hệ thống phòng không tinh vi và tích hợp nhất trên thế giới. Theo Farley, “nó có thể truy lùng và tiếp cận hàng chục mục tiêu trong tầm hoạt động lên đến 75 dặm… Được sử dụng kết hợp với các máy bay chiến đấu của VPAF (Không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam), mạng lưới SAM sẽ khiến việc thực hiện một chiến dịch không quân phối hợp chống lại Việt Nam với chi phí chấp nhận được trở nên rất khó khăn. “Hệ thống S-300 có thể được sử dụng để bảo vệ Vịnh Cam Ranh và các căn cứ hải quân có tính sống còn khác của Việt Nam”. Và cuối cùng, Farley lưu ý Việt Nam “có lợi thế về không gian”, có nghĩa là “địa hình khắc nghiệt”, thứ sẽ ngăn không cho Trung Quốc phát động một cuộc xâm lược trên đất liền.
Gary Li, một chuyên
gia an ninh hàng hải làm việc cho IHS Maritime tại Bắc Kinh, cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của vị trí địa lý Việt Nam đối với Biển Đông. Việt Nam sở hữu nhiều
đảo nhất và các hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Trung Quốc “phải đi
từ rất xa để tới được cuối vùng yêu sách của mình”, trong khi “Việt Nam, mặt
khác, đang tranh một vùng biển ngay ngưỡng cửa của mình. Hạm đội tàu hộ tống
hạng nhẹ và tàu ngầm trang bị tên lửa của họ có thể tấn công và rút lui vào các
cảng nhà của họ theo ý muốn, trong khi một hạm đội Trung Quốc bị tiến đánh sẽ
ít nhiều bị tổn thất’.
Li kết luận rằng khi
các lực lượng hải quân và không quân của Việt Nam được tích hợp với các lực
lượng pháo binh và tên lửa ven biển được triển khai dọc bờ biển kéo dài của họ,
các cách tiếp cận hải quân của Việt Nam đã được chuyển đổi thành một dạng “bãi
tập bắn” nào đó. Cần lưu ý rằng Việt Nam đang vận động hành lang Nga và Ấn Độ
để có được các tên lửa hành trình tấn công mặt đất BrahMos.
Brian Benedictus, một
nhà phân tích chính trị-quân sự Đông Á tại Washington, lập luận rằng việc Việt
Nam mua các tàu hộ vệ lớp Gepard, các tàu hộ tống lớp Molniya (Tarantul) và tàu
ngầm lớp Kilo (Varshavyanka) được nâng cấp “có khả năng cho phép Việt Nam có
thêm nhiều lựa chọn hơn khi triển khai sức mạnh của mình đối với các tuyên bố
lãnh thổ ở Biển Đông”. Theo Benedictus, các khinh hạm và tàu hộ tống của Việt
Nam “tất cả đều có khả năng là tàu tấn công nhanh trong một kịch bản xung đột ở
gần Biển Đông và có khả năng ra đòn đánh tàn khốc đối với các tàu đối phương,
một điều gì đó mà Bắc Kinh nhất thiết phải tính đến trước khi ra quyết định
tiến tới giao tranh với hải quân Việt Nam”.
Hạm đội tàu
ngầm thông thường của Việt Nam
Các tàu ngầm thông
thường mới của Việt Nam bổ sung những khả năng mới nào cho các khả năng chiến
lược của mình?
Năm ngoái, các quan
sát viên ngoại giao tại Hà Nội đã báo cáo rằng tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam
đã tiến hành tuần tra dọc bờ biển nước này. Ngoài ra, thủy thủ đoàn Việt Nam
hiện đang được đào tạo học thuyết và chiến thuật tác chiến dưới biển tại trung
tâm tàu ngầm INS Satavahana của Ấn Độ. Những diễn biến này đã khiến các nhà
phân tích an ninh và quốc phòng nước ngoài phải cân nhắc xem Việt Nam có thể
tiếp nhận các loại vũ khí mới của mình và xây dựng một lực lượng hải quân đáng
tin cậy có thể hoạt động ở Biển Đông nhanh tới mức nào.
Collin Koh, từ Trường
S. Rajaratnam về Nghiên cứu Quốc tế ở Singapore, cho rằng Việt Nam sẽ sử dụng
các tàu ngầm của mình trong các hoạt động ngăn chặn xâm nhập khu vực ngoài khơi
bờ biển và trong quần đảo Trường Sa một khi chúng vận hành hoàn toàn. Theo Koh,
“ngăn chặn xâm nhập biển nghĩa là tạo ra một sự răn đe về tâm lý bằng cách đảm
bảo một đối thủ hải quân mạnh mẽ hơn không bao giờ thực sự biết nơi các tàu
ngầm của bạn có thể hiện diện. Đó là cách tác chiến bất đối xứng kinh điển được
kẻ yếu sử dụng chống lại kẻ mạnh và tôi nghĩ rằng Việt Nam hiểu rất rõ điều
này. Câu hỏi đặt ra là liệu họ có thể hoàn thiện nó ở dưới mặt nước hay không
mà thôi”.
Theo Benedictus,
“Việt Nam nằm gần tỉnh Hải Nam của Trung Quốc, hòn đảo là bến cảng đối với Hạm
đội Nam Thái Bình Dương của PLAN. Điều này đủ đáng lo ngại đối với Bắc Kinh khi
xét rằng các tàu cập ở cảng có thể là con mồi dễ dàng đối với các tàu ngầm bên
ngoài bờ biển của hòn đảo, nếu xung đột xảy ra; triển vọng Việt Nam một ngày
nào đó có khả năng tấn công mặt đất tích hợp với hạm đội tàu ngầm của mình sẽ
là một nguồn quan ngại nghiêm trọng”. Benedictus kết luận rằng các tàu ngầm lớp
Varshavyanka của Việt Nam “có khả năng tiêu diệt các tàu đối phương trong một
cuộc xung đột quân sự bằng nhiều cách khác nhau”, đặc biệt do PLAN yếu kém
trong tác chiến chống ngầm.
Theo Lyle Goldstein,
một giáo sư tại Trường Cao đẳng chiến tranh Hải quân Mỹ, người đã tham khảo các
ý kiến đánh giá của Trung Quốc về quân đội Việt Nam, nhận định rằng các nhà
hoạch định quốc phòng Trung Quốc quan sát “cực kỳ chặt chẽ” các chương trình
hiện đại hóa của Việt Nam và có “sự tôn trọng rất lớn... đối với Việt Nam nói
chung’, bao gồm cả không quân Việt Nam.
Theo Goldstein, các
tàu ngầm lớp Varshavyanka của Việt Nam “có thể ra đòn chết chóc hoặc bằng ngư
lôi hoặc bằng các tên lửa hành trình đối hạm”. Tuy nhiên, Goldstein báo cáo
rằng các nhà phân tích Trung Quốc đã xác định được hai điểm yếu chính trong
chiến lược quân sự của Việt Nam: thiếu kinh nghiệm chủ yếu trong việc vận hành
các hệ thống các vũ khí phức tạp và “giám sát, nhắm mục tiêu và quản lý trận
đánh”. Những điểm yếu này đã khiến các quan chức quốc phòng của Trung Quốc tin
rằng “Trung Quốc có thể chiếm ưu thế trong bất kỳ cuộc xung đột vũ trang nào”
với Việt Nam. Goldstein kết luận “chiến lược hứa hẹn nhất của Việt Nam đấu với
Trung Quốc là hy vọng rằng họ có thể có đủ lực lượng để răn đe, trong khi vẫn
đồng thời theo đuổi con đường ngoại giao để giải quyết các tranh chấp”.
Siemon Wezeman, một
nhà phân tích làm việc tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, lập luận
rằng theo quan điểm của Trung Quốc thì sự răn đe của Việt Nam đã là một thực
tế. Theo Wezeman, “người Việt Nam đã làm thay đổi toàn bộ kịch bản – họ đã có 2
tàu ngầm, họ có các thủy thủ đoàn và họ dường như đã có các loại vũ khí, khả
năng và kinh nghiệm của họ sẽ lớn dần từ thời điểm này. Theo quan điểm các giả
định của Trung Quốc, sự răn đe của Việt Nam đã đạt tới điểm mà nó hẳn phải có
thực”.
Kết luận
Khi tất cả các vụ mua
sắm vũ khí hiện tại và tương lai của Việt Nam được tính đến, rõ ràng là Việt
Nam đã có những bước tiến lớn để phát triển một năng lực mạnh mẽ nhằm chống lại
sự can thiệp hải quân của một cường quốc thù địch. Điều này đã hình thành dưới
dạng phát triển một chiến lược chống can thiệp tích hợp các hệ thống pháo và
tên lửa trên bờ; các máy bay chiến đấu đa năng Su-30; các tàu tấn công nhanh,
các tàu hộ tống và khinh hạm trang bị tên lửa chống hạm; và các tàu ngầm lớp
Varshavyanka. Các hệ thống vũ khí này sẽ cho phép Việt Nam khiến cho việc tiến
hành các hoạt động hải quân của Trung Quốc trở nên cực kỳ tốn kém trong một dải
biển 200-300 hải lý dọc theo bờ biển của Việt Nam từ biên giới Việt-Trung ở
phía Đông Bắc tới Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam, nếu như không tiếp tục tiến xa
hơn về phía Nam. Ngoài ra, Việt Nam cũng có khả năng tấn công căn cứ hải quân
lớn của Trung Quốc gần Tam Á trên đảo Hải Nam và các cơ sở quân sự trên đảo Phú
Lâm (Woody) từ hệ thống tên lửa hành trình Bastion trên bờ hoặc từ tên lửa hành
trình tấn công mặt đất trên các tàu ngầm lớp Kilo.
Như Farley kết luận
một cách đúng đắn, “Việt Nam không muốn một cuộc chiến tranh toàn diện với
Trung Quốc… Đặc biệt Việt Nam không muốn tiến tới đối đầu với Trung Quốc trong
một cuộc chiến tranh tốn kém tiền bạc và công nghệ có thể tiêu hao đi những
thiết bị đắt tiền mà Quân đội Việt Nam đã mua. Tuy nhiên, Trung Quốc nhất định
phải đánh giá rằng Việt Nam có thể đánh trả. Quân đội Việt Nam, trong cơ cấu
hiện tại của nó, được thiết kế để ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của Trung
Quốc”. Tóm lại, chiến lược quốc phòng của Việt Nam không được thiết kế để đối
đầu với Trung Quốc trong một cuộc xung đột kéo dài. Thay vào đó, nó nhằm ngăn
chặn Trung Quốc ở vị trí cuối trong phổ xung đột, bằng cách gây rủi ro cho các
tàu chiến của PLAN nếu như chúng tính chuyện can thiệp để hỗ trợ cho các tàu
thực thi pháp luật dân sự hoặc cố đánh chiếm một trong những hòn đảo do Việt
Nam chiếm giữ ở Biển Đông.
Việc hiện đại hóa lực
lượng của Việt Nam đem lại cho nước này các phương tiện để “đấu tranh chống
lại” Trung Quốc khi Trung Quốc đe dọa lợi ích quốc gia của Việt Nam. Mặt khác,
chiến lược chính của Việt Nam là “hợp tác” với Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực
bao gồm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của họ.
C.A.Th
Carlyle A. Thayer là Giáo sư Danh dự về Chính trị, Đại học New
South Wales, Học viện Quốc phòng Úc. Bài viết được đăng trên Trung tâm Nghiên
cứu Trung Quốc, Chennai, Ấn Độ.
Trần Quang (gt)/NCBĐ
----------------
=> Trễ quá rồi ! chúng chiếm hết đảo của chúng ta rồi còn đâu !
Trả lờiXóakể cả có tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, bom nguyên tử, bom khinh khí thì csVN cũng không bao giờ dám chống lại thằng bố của nó là cs Tàu.
XóaViệt nam tôi đâu còn nữa, tôi đang lưu vong ngay chính trên quê hương mình bởi đảng tay sai Tàu: csVN.
https://www.youtube.com/watch?v=CTlOVxrdZ6U
Không trễ cũng chẳng muộn
Xóachính các đỉnh cao mới là lũ sợ chiến tranh nhất
Trả lờiXóaViệt Nam tăng cường vũ trang để ngăn chặn Trung Quốc ????????????????????
CÁI VŨ TRANG vũ khí THẬT RẺ TIỀN vô cùng quan trọng là PHÁT TRIỂN Ý THỨC CĂM THÙ giặc kẻ thù truyền kiếp phương Bắc ĐẠI HÁN xâm lăng DÙ CHO DÂN TỘC VIỆT yêu chượng HÒA BÌNH
Mua hàng chục tỉ đô la ĐỂ ĐÓNG KỊCH 6 tầu ngầm KILO chỉ chui trốn vào HẢI VỰC vịnh Cam Ranh ...để nằm ụ ….để lấy HOA HỒNG từ vụ mua 6 tầu ngầm KILO
Mà vẫn đàn áp đánh Dân hay CỰU CHIẾN BINH trong Chiến tranh Vệ Quốc 1979
TÁC PHẨM “Gạc Ma, vòng tròn bất tử” nhằm tôn vinh các anh hùng liệt sĩ Gạc Ma do thiếu tướng Lê Mã Lương ANH HÙNG vũ trang , người trực tiếp biên tập cuốn sách GẤ 100 tầu ngầm KILO sẽ đào tạo hàng ngàn hàng vạn ANH HÙNG vũ trang cho Chiến tranh Vệ Quốc SẮP TỚI trên BIỂN ĐÔNG … còn vũ khí sẽ CHO KHÔNG bởi MỸ hay HOA KỲ có hàng chục SIÊU TẦU NGẦM NGUYÊN TỬ hàng chục SIÊU HÀNG KHÔNG MẪU HẠM NGUYÊN TỬ hay từ NHẬT BẢN một khi VIỆT NAM liên kết chiến lược đồng minh CHÍNH THỨC với MỸ NHẬT
Carlyle Thayer muốn nghĩ Việt Nam tăng cường vũ trang để ngăn chặn Trung Quốc thì Carlyle Thayer nghĩ . Nhưng Đảng có nghĩ như Carlyle Thayer nghĩ không là chuyện của Đảng .
Trả lờiXóaTớ khuyên các bác nên đọc báo tạp kỹ cộng sản . Đúng là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản, theo nghĩa nếu các bác thắc mắc, đọc tạp kỹ cộng sản sẽ rõ ngay
"Thứ hai, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, kết hợp gây bạo loạn hòng lật đổ chế độ chính trị nước ta của các thế lực thù địch. Chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để nhằm chuyển hóa chế độ chính trị, chuyển hóa Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị - xã hội trong nước"
Việt Nam tăng cường vũ trang là để ngăn chặn tư bẩn & âm miu của chúng là "diễn biến hòa bình", không phải để ngăn chặn Trung Quốc .
Ông bạn Vien Nguyen 12:23 sao nói hay thế ? chính xác 100% là vậy ! nội xâm và nội xâm cũng chỉ là một !
Trả lờiXóaĐúng là các ngài trí thức nước ngoài (tây phương) luôn suy luận
Trả lờiXóatheo những gì thấy được ở bên ngoài,còn mù tịt về "thâm cung bí
sử" của nhà nước CS.thì hỏi làm sao chính xác cơ chứ ?
Thấy mặt ngoài và nghe họ nói thì không đúng chút nào đâu,thưa
ngài gs.vì họ nói một đàng làm một nẻo mà công dân không có quyền trừng phạt bằng bầu cử tự do như ở nước ngài,cho nên họ tha hổ "tự
biên tự diễn" là chính yếu để lường gạt người dân nước tôi và những vị nào suy luận giáo khoa kiểu "tháp ngà" như ngài !
Ông GS danh tiếng , chuyên gia về ĐNÁ này có bài phân tích thấy thật là hay nhưng sao thấy có vẽ giống như là người nhà , cùng phe với chuyên láo , rất đáng được tặng bằng khen như các bà mẹ anh hùng .
Trả lờiXóaPhải nhớ cái nghề siêu đẳng của Chàng là chuyên láo , làm mờ mờ ảo ảo , thật thật hư hư làm dân không biết đường nào mà mò , rốt cùng chui vào rọ hết .
Nhớ mấy năm trước , ngay lúc đầu nghe ký hợp đồng mua tàu ngầm , mua vũ khí có vẽ như chuẩn bị phòng hờ là đã biết láo rồi , với thời gian thì chứng minh trở thành rõ ràng :Đồ nghề đắp chiếu , Thoã thuận ký đàm phán song phương Biển Đông , thề không liên minh với ai , ký kết liên tục trung thành , căn cứ mật núp dưới vỏ kinh doanh tràn ngập .
Những năm gần đây mở rộng quan hệ buôn bán với đám dãy chết làm cho dân tỉnh tỉnh , mê mê tưởng như nước mình thay đổi lắm rồi . Gần đây thì cố gắng xin bỏ hàng rào cấm vận mua vũ khí của Mỹ , rồi mời được ông Đen qua chơi , rồi 1 số tờ báo có những bài phê phán mạnh bành trướng TQ làm mát lòng những con cừu . Nhưng tất cã chỉ là những trò trình diễn che mắt cừu mà thôi .
Cái tâm , cái thực , cái bản chất bên trong vẫn là hy sinh cái bàn thờ tổ tiên đánh đổi chủ nghĩa vinh thân cho cã đám .
Cái siêu đẳng của Tôn Tử cũng chỉ là binh pháp đánh nhau mà thôi , còn bây giờ chiếm nước lệ thuộc bằng diễn tiến hoà bình mới thật là bậc thầy của binh pháp Tôn tử , êm đềm , làm sao mà dân của họ chẳng biết đường mà chống lại , mất thấy trước mắt mà cứ ngở cùng nhau phát triển thương mại .
Chỉ khi nào mà nói y hệt như những bậc tiền nhân : một tấc đất cũng không để lọt mất , đánh như năm 79 , đưa đơn như Philippine , thả tù yêu nước như Miến Điện , Cuba , quăng sọt rác đồ hư thúi hại dân mất nước … thì mới tin là đồ thiệt .
Hơn nữa thế kỹ trước đã tiên đoán rồi , hơn 25 năm trước đã bắt đầu thời kỳ Bắc Thuộc , mà tới bây giờ còn mơ hồ với những trò ảo thuật rẽ tiền . Hay là chờ tới một buổi sáng không còn xa , côn an TQ đập cửa , lôi cổ ra ngoài đập cho 1 trận vì chưa biết phải thay cờ 6 sao , lúc đó mới ngã ngữa ra …mới bắt đầu than trời trách đất .
Rất chính xác, cộng sản VN đã lừa, đang lừa, và sẽ tiếp tục lừa người dân để chúng tiếp tục ổn định việc vơ vét và ăn cướp, bán nước, làm tay sai cho CSTQ. Đừng có mơ hồ với vài ba trò đánh lạc hướng của chúng đối với dân chúng trong quan hệ quốc tế hiện nay.
XóaCựu binh diệt csTQ năm 79
Báo Navy Times (Mỹ) ngày 3-3 cho biết hải quân Mỹ mới đây vừa triển khai một đội tàu sân bay tấn công tới tuần tra biển Đông.
Trả lờiXóaĐội tàu gồm có tàu sân bay John C. Stennis, hai tàu khu trục Chung-Hoon và Stockdale, hai tàu dẫn đường Antietam và Mobile Bay, và tàu chỉ huy Blue Ridge thuộc Hạm đội hải quân 7 của Mỹ có căn cứ ở Nhật. Đội tàu này đến biển Đông khoảng vài ngày trước, Navy Times dẫn nguồn các quan chức quân đội Mỹ.
Tàu sân bay John C. Stennis xuất phát từ bang Washington (Mỹ) ngày 15-1. Tàu chỉ huy Blue Ridge tham gia vào đội tàu khi đang trên đường ghé Philippines.
Tàu dẫn đường Antietam cũng thuộc Hạm đội hải quân 7 căn cứ ở Nhật, tham gia vào đội tàu khi đang thực hiện một cuộc tuần tra thường kỳ riêng ở biển Đông.
Đội tàu sân bay tấn công này là lực lượng mới nhất Mỹ triển khai đến biển Đông, trong bối cảnh Mỹ chỉ trích Trung Quốc đang quân sự hóa biển Đông để củng cố tuyên bố chủ quyền.
Bài com của ông bạn Nặc danh 17:02 (04/03/2016) hay tuyệt vời,xin mời quí bác đọc đi !
Trả lờiXóaCarlyle A. Thayer chỉ là tay chém gió!
Trả lờiXóatăng cường vũ trang để lấy cớ chi tiền mua vũ khí mà muốn khai quyết toán với "Cuốc hụi" bao nhiêu thì bao, cuốc hội luôn biểu quyết cho phép vì phải theo lệnh của các quỷ viên bộ chính trị.
Trả lờiXóacác vũ khí mua về bảo vệ biển đảo biên giới không bảo vệ, chỉ thấy đem diễu võ giương oai và đe dọa dân chúng - việc đem 5200 quân cùng với các loại vũ khí, khí tài để "bảo vệ" cho cái dại hội đảng toàn quốc là một minh chứng rất rõ ràng là đảng csVn là bọn khốn nạn chống lại nhân dân và làm tay sai cho csTQ.
Ông Nặc danh 13:56 sao cũng hay thế ! dạo này nhiều com sĩ có trí tuệ trên cả tuyệt vời ! mừng vì nhân dân ta có trí tuệ cao lắm rồi !
Trả lờiXóa