Têt Ất Mùi 2015, Lão thành cách mạng
Nguyễn Trọng Vĩnh tròn 100 tuổi. Lễ mừng thọ cụ Vĩnh được gia đình, đồng đội, bạn hữu gần xa và nhất là
các Trí thức, Văn nghệ sĩ tham dự, chúc thọ Cụ đã ‘vươn đạt’ Bách Niên Giai
Lão.
20 năm trước, cũng như
đến bây giờ, ai cũng ghi nhận: Cụ Vĩnh ‘gừng càng già, càng nồng cay’, càng
sáng thêm tài năng và đức độ. Bài của Đại tá
Tô Khuyến, nguyên cán bộ Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị, Quân đội Nhân dân
Việt Nam, viết ngày 22/12/1996, như một ‘Di cảo’ từ 20 năm trước, để
gửi các đồng đội sau khi dự Lễ mừng thọ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh 80 tuổi.
Nhân dịp Lễ mừng thọ Cụ Vĩnh Bách niên xuân Ất Mùi 2015, trang BVB xin giới thiệu bài viết này:
Lời mở đầu
Tôi may mắn được công tác dưới quyền Anh Nguyễn Trọng Vĩnh thời kháng
chiến chống Pháp. Khi đó Anh Vĩnh là Thủ trưởng Cục Tổ chức thuộc Tổng cục
Chính trị.
Thật mừng tháng 10/1996, tôi lại được gặp Anh trong dịp các bạn chiến đấu cũ họp mặt mừng thọ anh vào tuổi 80. Cuộc họp mặt xuất phát tự nhiên từ tình cảm quý mến và trân trọng của anh em, đồng đội với anh nên đã diễn ra thật thân mật và vui vẻ.
Tôi được phân công nhiệm vụ dẫn trò cho rôm rả. Anh chị em đều coi anh
như một người anh trong gia đình nên bộc lộ tình cảm rất sôi nổi. Có người tự
đứng ra ngâm thơ, đọc văn rồi hò hát chúc mừng anh; có người kín đáo hơn thì
đưa các “sáng tác” của mình cho tôi đọc hộ. Không ai bảo ai mọi người đều thống
nhất nói lên tình cảm yêu mến, khâm phục của mình với tài năng, đức độ của anh.
Từng công tác khá lâu với Anh, tôi rất đồng tình với các anh chị đó. Tôi thấy trong công
tác tổ chức và cán bộ, anh luôn thể hiện thẳng thắn chính kiến của mình. Anh
nhìn nhận con người, sự việc khách quan, toàn diện và xử lý luôn công tâm sòng
phẳng. Cách sống và tình cảm của Anh với đồng chí, đồng đội rất chân thành, cởi
mở, đằm thắm. Con người của Anh thực thà, liêm chính, khảng khái, vô tư. Chỉ từ
năm 1960 trở đi, khi Anh rời quân đội để đảm nhiệm một số công tác mới, từ đó
trở đi chúng tôi ít có dịp được gặp và làm việc với Anh. Nay mọi người đều đã
về hưu nên mới có điều kiện tìm nhau xum họp.
Trong cuộc vui mừng thọ hôm đó, con gái lớn của Anh, Chị về giúp bố mẹ
tiếp khách, cháu cũng có quà mừng thọ bố (gọi là “cháu” nhưng thực ra đã vào
tuổi 50 rồi). Quà mừng thọ của cháu đưa cho tôi là một tờ giấy trong đó viết
nắn nót hai câu đối. Nghe đọc hai đôi câu đối này, có người chưa thấy giống
cách thể hiện tình cảm gia đình, cha con đã quen, nhưng những anh em biết Thủ
trưởng Vĩnh từ lâu lại rất thú vị.
Tôi đoán Anh Vĩnh hài
lòng vì con gái Anh vừa yêu quý và hiểu Cha sâu sắc (phải chăng con hơn cha,
con hiểu cha thì Nhà có phúc, mà thế thì Nước cũng có phúc?), vừa sát cánh trên
Con đường của cha như các Đồng chí, các Cán bộ cũ của Anh vậy.
Lão tướng, Đại sứ, Thầy thuốc
Nguyễn Trọng Vĩnh nói: “Nên trân trọng người khác”.
… Những
người được gặp Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh đều quý mến, trân trọng và bị cuốn hút với
câu chuyện và nụ cười của Cụ, cũng như khó tưởng tượng Cụ già vừa Hồn hậu vừa
Minh triết, vừa Gần gũi vừa Trí tuệ ngồi trước mặt lại là một vị tướng dạn dày
trận mạc, một nhà ngoại giao lão luyện trên trường quốc tế, và là một thầy
thuốc tinh thông Y lý Đông Tây.
Nhiều người gần Cụ kể, vốn tiếng Pháp của Cụ chỉ từ Sơ Trung thời Pháp
thuộc, vậy mà Cụ đọc tiểu thuyết, trao
đổi tự nhiên với các nhà ngoại giao bằng
thứ tiếng này. Tiếng Trung Cụ chỉ học
truyền khẩu từ chị Hồ Mậu La, cháu gái cụ Hồ Tùng Mậu, nhưng khi biết được sẽ làm Đại sứ tại
Trung Quốc là Cụ chong đèn tự học, kết quả là Cụ có thể dễ dàng làm việc
trực tiếp với bạn mà không cần phiên dịch, cũng như còn đọc sách tiếng Trung về
Trung Y. Vì thế cứ có dịp lễ trọng thể,
bao giờ Đoàn Ngoại giao cũng chọn Đại sứ Việt Nam Nguyễn Trọng Vĩnh thay mặt.
Cụ nói, đã Hội nhập là phải hết lòng “Hòa nhập”, đừng nửa vời vì
sợ “Hòa tan”. Nói “Hòa tan” là vẫn chưa
hiểu hết sức mạnh và
bản lĩnh dân tộc. Ngày xưa ta mất
nước, phải làm quận, huyện hàng ngàn năm dưới sự cai trị của giặc Tàu mà chúng muốn ‘đồng hóa’ chẳng được, nữa là bây giờ. Cụ khuyên, Hội
nhập Quốc tế mà không hiểu Văn hóa, Con người của đất nước người ta thì hội nhập thế nào. Vì vậy khi làm việc ở Lào thì Cụ học tiếng Lào, khi được phân công làm Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh phụ trách đối ngoại là Cụ bắt đầu học tiếng Anh,
dù đã 77 tuổi.
Có gặp Cụ mới hiểu, trong Cụ là sự Thống nhất, sự “là Một” cao độ giữa
người Thầy thuốc thức thâu đêm đọc sách cứu người, vị Bí thư Tỉnh ủy được dân
tin yêu, và Người hạ bút đầu tiên trong 61 đảng viên ký Thư ngỏ gửi Ban Chấp
hành TW và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam với khởi đầu: “Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
Áp đặt cho Dân tộc Đường lối sai lầm về xây dựng Chủ nghĩa Xã hội theo mô hình
Xô Viết, được coi là dựa vào Chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Thật mừng thấy Tổ quốc có hồng
phúc nhờ có nhiều các bậc trưởng thượng như “Tứ hiền” (nay đều đã hơn kém trăm tuổi) như: Cụ Vũ
Khiêu, Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, Cụ Lưu Văn Đạt, Cụ Lưu Văn Lợi.
I. CÂU ĐỐI THỨ NHẤT, NÓI VỀ VIỆC
CỤ VĨNH ĐÃ HƠN 25 NĂM LÀM CỐ VẤN CHO LÃNH ĐẠO LÀO VÀ ĐẠI SỨ VIỆT NAM TẠI TRUNG
QUỐC
Câu đối thứ nhất có nội dung:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, quyết không làm “Lão Toàn quyền”,
luôn nhớ chữ “Chủ quyền của Bạn (Lào)”.
Đi Đại sứ nước Tàu,
trung với Nước, chẳng nghe người “Đại Hán”, giữ trọn điều “Quốc thể Việt Nam”.
Câu đối này đã thể hiện một cách ngắn gọn, sắc nét về Công việc và Con
người của Anh Nguyễn Trọng Vĩnh trong thời gian anh được phân công phụ trách
công tác miền Tây, làm Trưởng đoàn Chuyen gia, Cố
vấn cho Tổng bí
thư thư Đảng NDCM Lào, rồi sau đó lại
được cử đi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tại Trung Quốc. Thời gian của hai việc lớn đó là khoảng hai mươi lăm năm có lẻ.
Năm 1965, trước khi đi nhận công tác ở Lào, anh vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dặn dò,
trong đó Người nhấn mạnh: “Chú sang giúp Bạn, nhớ không được làm “Lão Toàn
quyền” đấy nhé, phải tôn trọng chủ quyền của Bạn”. (Ý Bác là phải khiêm tốn,
không được “kiêu ngạo cộng sản”, rồi dẫn đến lộng quyền…).
Anh Nguyễn Trọng Vĩnh khi đó đã là Thiếu tướng, Ủy viên Trung ương
Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa (1960-1964) đã luôn luôn ghi nhớ lời dặn đó của Bác. Sau đó, khi sang làm nhiệm
vụ bên Lào (1965-1973), đã giúp
Bạn nhiều việc và luôn được các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Bạn quý mến, tin
tưởng vì đã thể hiện đúng sự tôn trọng đối với các vấn đề thuộc chủ quyền của
Bạn trong khi Bạn quyết định các công việc lớn thuộc nội trị.
Vế thứ hai của câu đối thứ nhất là nói về những năm làm Đại sứ ở Trung
Quốc 13 năm (từ năm 1974 đến năm 1987), lúc đó bối cảnh thật là phức tạp, quan
hệ giữa hai nước rơi vào khủng hoảng, đầy rẫy khó khăn cho công việc ngoại
giao. Trong suốt 13 năm đó, biết bao nhiêu đột biến xảy ra trong quan hệ giữa
hai nước khiến anh luôn phải suy nghĩ và hành động thế nào để theo đúng được
chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng, giữ được Quốc thể Việt Nam mà lại
không làm căng thẳng cho mối bang giao hai nước.
Khó khăn vậy nhưng anh đã trụ vững được thời gian dài hơn tất cả các
Đại sứ cùng thời kỳ với mình…
Phải nói những việc anh đã làm trong hai vai trò “ông Cố vấn” và “Ngài
Đại sứ” quả là những công tích không dễ có người đạt được. Tuy nhiên, những
công tích đó đều lập tại nước ngoài và trong những sự việc, những thời điểm
không thích hợp để tuyên truyền rộng rãi nên trong nước không nhiều người
biết đến những việc làm, những chiến
công thầm lặng của anh Bộ đội Cụ Hồ Nguyễn Trọng Vĩnh trên các mặt trận mới.
Những kinh nghiệm quý báu trong những năm tháng công tác được Anh kết
hợp với thực tiễn cuộc sống thành các bài viết góp ý cho lãnh đạo trước những
hiện tình khó khăn của đất nước. Có người phàn nàn với Anh về việc những đề
xuất tâm huyết và trí tuệ của Anh bị bỏ qua và không có trả lời. Anh cười thoải
mái và giải thích, chắc các anh ấy cũng có những khó khăn riêng, chưa để ý ngay
được, song thế nào các anh ấy cũng phải quan tâm đến Thực tiễn và xu thế tất
yếu, không thế cũng không được.
Cuốn “Hồi ức” của Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh và thơ Bút Tre có điểm chung, đó
là bằng Tình thương và Trí tuệ, đã giúp người đọc hiểu hơn về Chế độ, Xã hội và
Chính mình?
Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng (Ảnh bên). Ông sinh ngày 23/8/1911,
mất năm 1987. Trước 1945 ông dạy học và có truyện dài đăng ở Tiểu thuyết thứ 7 tờ Đông Pháp, bút danh Lục Y Lang. Năm 1956,
ông là Thư ký Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Ung Văn Khiêm, năm 1962 là Trưởng ty Văn hóa, rồi Phó ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Phú Thọ. Thơ ông tưởng như vô tâm, song
lại đầy Triết lý và Tình yêu Cuộc sống. Phải chăng đấy là cách giữ mình trong
một xã hội bất an mà vẫn giúp mọi người hồi
hướng của các bậc trí giả.
Nói thế vì Nhà thơ Bút Tre đã làm được một việc rất lớn là mang Thơ
(không phải Thơ Hàn lâm) cho Quần chúng và khuyến khích họ hướng Thiện khi làm
Thơ. Chẳng thế mà nhiều người Việt Nam ở trong và ngoài nước, đều thuộc một vài câu
thơ Bút Tre và sẵn lòng làm dăm ba câu tương tự, trước hết vì vui, song cũng
qua đó thấy Chế độ, Xã hội và Chính mình thật sinh động qua các sinh hoạt không
mấy hợp lẽ tự nhiên:
Đó là Một Chế độ ít cần Suy nghĩ và không có Mục đích Thiết thực: “Thi
đua ta quyết thi đua - Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu - Hàng đầu rồi biết
đi đâu - Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi”; Một Chế độ Thiếu coi trọng sản
xuất và sẵn sàng nói Sai sự thực để có “Thành tích”: Hoan hô! Cục trưởng Hà
Đăng - Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa”, hay kết quả chiến dịch trồng cây nhớ
Bác: “Hoan hô các cụ trồng cây - Mười cây chết chín - Một cây gật gù - Chúng
mày có mắt như mù - Mười cây chết cả gật gù ở đâu?;...
Đó là Một Chế độ Áp đặt Tư tưởng và Độc quyền Chân lý: “Hội trường yên
ắng ngủ say - Thuyết trình vừa dứt… - Vỗ tay ra về” hay “Hôm qua học tập chính
tri [chính trị] – Ai nấy ngồi ỳ, chẳng chịu phát biêu [phát biểu] - Cơm ăn
chẳng được bao nhiêu - Đảng ủy lại bắt phát biêu cả b... [cả buổi]”; Đó là Một
Chế độ không coi trọng trí thức và những người có tài, có đức: “Ta đi bầu cử tự
do - Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm”.
Cụ Vĩnh pha trà vào Lễ mừng thọ Bách niên |
Đó là Một chế độ Bất công, Bất hợp lý,
vì thế phải Đổi mới Thể chế, Đổi
mới Văn hóa, bởi “Hôm nay đài nói vui thay - Người ở dưới đất, Chó bay lên
trời”. Những dòng này được viết nhân mừng thành tựu của Liên Xô đưa chó Lai-ca
vào vũ trụ.
Những người hiền, các
bậc trí giả được tôn vinh vì đã hy sinh cho Con Người bớt Khổ, giúp cho họ thêm
hiểu biết để chiến thắng sự “vô minh” của mình, tức chiến thắng giặc Dốt, cái
mà Đức Phật cho là đã gây ra “bể khổ”. Có người hồi hướng chúng ta qua các công
tích vĩ đại, như Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,...
Song có người hồi hướng chúng ta qua những việc hàng ngày, đó là Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng, Quang Văn Thỉnh
ở Thanh Văn, là Bút Tre Đặng Văn Đăng,
GS. Vũ Khiêu, Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh,... và vô vàn người khác nữa. Dĩ
nhiên, để thấy và có được các bậc Thầy – quả Phúc lớn, đầu tiên cần tu tập thực
hành để “Nghĩ” và “Làm” theo lối Đoàn kết, tức Trân trọng, Liên kết và Thống
nhất các sự Khác biệt, kể cả Đối lập.
II. CÂU ĐỐI THỨ HAI NÓI VỀ CỤ VĨNH TRONG THỜI
GIAN SAU NGHỈ HƯU VÀ LÀM PHÓ CHỦ TỊCH HỘI CỰU CHIẾN BINH
Câu đối thứ hai có nội dung:
Bảy mươi hai tuổi, bảo nghỉ, thì nghỉ. Ham chi
nữa, “nợ tang bồng trang trắng
vỗ tay reo”; câu thơ chén rượu, “mi cót” (xe đạp máy)
rong chơi, nghiên cứu Đông y, nghe điệu ca trù, thưởng làn tuồng cổ... Việc
sống vui sắp sẵn hàng hàng, thọ đến trăm năm chẳng chán!
Bảy
mươi bảy xuân, bảo ra,
lại ra. Há chối từ, “chí hồ thỉ còn nồng ra sức gánh”; việc nước việc dân, cựu
binh bàn luận, góp phần dựng Hội, vạch mưu Đại Hán, chống lũ tham ô,... Bài ích
nước đề ra lớp lớp, lo kỳ bạc tóc chưa thôi!
Câu đối thứ hai là nói đến suy nghĩ và việc làm của Anh giai đoạn sau
khi rời cương vị Đại sứ. Lúc đó Anh vừa về nước sau chuyến đi dài ở nước ngoài
thì được thông báo nghỉ hưu. Anh đón nhận việc đó rất thanh thản, không có một
chút bất ngờ, không cần một thời gian quá độ nào cả; nghỉ là nghỉ, đơn giản thế
thôi.
Anh có quá nhiều năng lực để làm chủ mọi hoàn cảnh sống. Nghỉ hưu mà
còn làm được bao việc có ích và... luôn thoải mái. Là người “Làm ra làm, Chơi
ra chơi”, anh rất tâm đắc tinh thần danh nhân Nguyễn Công Trứ xưa: Khi người
quân tử đã trả hết “nợ tang bồng” cho nhân thế thì có thể “vỗ tay reo” mà sống
an nhàn thư thái theo ý của mình.
Ngày trước “làm quan” đi đâu có ô tô nhà nước, ngày nay “làm dân”, anh
thường cưỡi chiếc xe điện nhỏ nhẹ giản đơn (xe mi ni cót) đi chơi với họ hàng
bè bạn, lại thấy thuận tiện hơn, đỡ phiền người khác giúp; Vốn am hiểu và yêu
thích nhiều loại hình văn hóa văn nghệ cổ truyền dân tộc như ca trù, tuồng,
chèo... nay Anh lại vui vì có thêm thời gian thưởng ngoạn.
Đặc biệt, anh còn
tham gia một câu lạc bộ nghiên cứu y học để nghiên cứu cách chữa bệnh bằng Đông
Tây y kết hợp. Anh đã chữa thành công nhiều ca bệnh thâm căn cố đế mà nhiều
thày thuốc chính hiệu đã bỏ không chữa nữa; Anh chữa bệnh không lấy tiền, nhưng
rất nhiệt tâm, rất kiên trì, cẩn trọng; luôn theo dõi chặt chẽ diễn biến, điều
chỉnh thuốc thích hợp để chữa bằng khỏi mới thôi.
Vì vậy, Anh chẳng có thì giờ để buồn bã, nghĩ ngợi để tiếc nuối những
ngày “đương chức đương quyền”. Đó không phải vì khi đang làm việc anh đã “dại”
không ngồi mát để hưởng quyền cao bổng hậu, mà là Anh bao giờ cũng sống hết
lòng với Thực tại.
Vế thứ hai của câu
đối dưới là chỉ về việc năm anh đã “bảy mươi bảy xuân”, “bỗng dưng” được anh em
cựu chiến binh bầu ra làm Ủy viên Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh
Việt Nam. Phải nói là “bỗng dưng” vì chính anh không nghĩ và ở trên cũng không
đâu có ý “cơ cấu” để anh vào lãnh đạo Hội cả. Mọi việc chỉ là vì ở Đại hội Cựu
binh mọi người đều thấy anh tuy đã 77 tuổi mà còn rất phong độ, nhanh nhẹn,
hoạt bát, suy nghĩ nói năng đâu ra đấy nên đã nhất trí bầu anh.
Anh em đã cần, đã tín nhiệm bầu ra thì Anh cũng hăng hái nhận, ở
Anh cái thảnh thơi nhẹ nhõm khi rời chức
và cái hăng hái nhiệt tình khi nhận chức ra làm việc thực ra chẳng có gì mâu
thuẫn với nhau. Nó chính là sự thống nhất biện chứng của một con người vốn có
tính tự giác cao, tinh thần trách nhiệm lớn đối với đất nước, với sự nghiệp
cách mạng cũng như với Con Người mà thôi.
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh nói, “Ba yêu cầu” của Bộ Chính trị là đúng đắn, vì
thế cần ủng hộ Chính phủ Đổi mới Chính trị, Đổi mới Thể chế, Đổi mới Văn hóa để
thực hiện.
Sáng 29/12/2014, tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa
phương, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh
tế trong bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức, đặc biệt là tác động của việc
đầu tháng 5/2014 Trung Quốc đã ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào đặt
ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Sự kiện này đe dọa nền hòa bình, mất ổn
định của đất nước, đồng thời tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội
của nước ta.
Thủ tướng cho biết, trước tình hình đó, tháng 5/2014, Bộ Chính trị đã
đề ra ba yêu cầu:
1. Bảo vệ chủ quyền quốc gia;
2. Giữ vững hòa bình và ổn định môi trường trong khu vực;
3. Thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra từ đầu năm. “Đó là mục
tiêu kép và thực sự Là thách thức lớn
đối với chúng ta”, Thủ tướng nói tiếp, nhìn lại năm 2014, thành công lớn nhất
chính là việc đã giữ được chủ quyền quốc gia, giữ được hòa bình ổn định.
Không chỉ vậy, Việt Nam còn tạo được sự đoàn kết nhất trí, đồng thuận
của dân tộc cả trong nước và ngoài nước. Từ đó, đã hoàn thành, đạt và vượt
13/14 chỉ tiêu kinh tế xã hội mà Trung ương Đảng, Quốc hội đề ra cho năm 2014.
Theo Thủ tướng bảo vệ chủ quyền, hòa bình ổn định là vấn đề
còn rất nhiều thách thức, phải ngày đêm chăm lo, không được lơ là, chủ quan.
Điều này có nghĩa cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực sự Đổi mới Chính trị, Đổi mới
Thể chế, Đổi mới Văn hóa theo Chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Từ tinh thần này, Bộ trưởng Bộ Kê ́hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh
khẳng định, nếu không Đổi mới Thể chế và Con người, Việt Nam rất khó phát
triển khi hầu hết động lực đã tới hạn.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, cần bỏ Tư tưởng và Thể chế Xin, Cho, tức
là “Cái gì Cho thì ghi trong luật”, và thay bằng “Cái gì Không cho thì ghi
trong luật”, bởi xin mà luật không có, sẽ thích thì cho, không thích thì không
cho... gây tốn kém, khó khăn và không minh bạch”. Nhắc lại nguyên tắc “việc dân
sự cốt ở hai bên”, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cũng nêu rõ việc gì
luật không cấm thì phải để người dân làm
và tự điều chỉnh.
Ông cũng bày tỏ quyết tâm Đổi mới, không thể giữ mãi tình trạng “sai
lầm nhiều thế kỉ nữa”.
1. Ngày 16/1/2014, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói, “vai trò văn hóa ngày càng quan trọng, vì vậy, cần phát huy, bồi đắp
hơn nữa giá trị văn hóa kế thừa từ truyền thống”. Rõ ràng, “văn hóa kế thừa
từ truyền thống” như Phó Thủ tướng nói là cơ sở đầu tiên để Xã hội và Đảng, Nhà
nước xây dựng một Văn hóa Thời đại – Văn hóa Đoàn kết & Sáng tạo;
2. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh. Cả hai
Phó Thủ tướng đều là những lãnh đạo nhạy cảm, kiên quyết và đủ bản lĩnh ủng hộ
các yếu tố mới. Đây là những điều kiện không thể thiếu của lãnh đạo thế kỷ 21.
Có thể nói, các thành tựu lớn của đất nước trong giai đoạn hiện nay đều có sự
đóng góp của những người lãnh đạo như vậy.
Đọc hai câu đối lại vui cho Anh vì không những đồng đội, đồng chí, bằng
hữu, hàng xóm hiểu anh, quý anh mà trong gia đình, con gái của Anh đã vượt qua
tình cảm thường tình để nói đúng cái tâm, cái trí của cha mình.
Một đời người trải qua cuộc sống như Anh, làm được những việc lớn và
khó như Anh đã làm và luôn giữ được khí tiết của mình từ trẻ tuổi cho đến tuổi “bát tuần” như anh, đó thật là đáng tự hào lắm
chứ? Tôi hoan nghênh một người con gái đã hiểu, đã nói được cốt cách và tâm
lòng của cha mình. Phần trên tôi đã nói rồi, song vẫn muốn nhắc lại, tôi thấy
đúng “Con hơn cha là nhà có phúc”, song ở đây qua đôi câu đối này và những gì
tôi cảm nhận ở Cụ Vĩnh và Gia đình tôi cũng thấy đúng “Con hiểu cha là nhà có
phúc” vậy!
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh dặn, phải luôn nỗ lực Học tập để biết cách Thay
đổi
Trên trang bìa cuốn
Hồi ức “Kể lại cuộc đời” do Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh tặng Ban Biên tập là những
dòng chữ đầy tính Nhân văn và Trí tuệ:
“Kể lại những sự việc xẩy ra trong cả cuộc đời của Cụ Vĩnh lức này, khi Cụ
đang gần ngưỡng 100, tôi muốn nhắn nhủ con cháu rằng: Một con người sống trên đời, dù cực khổ đến mấy (hay sung sướng và
quyền lực đến mấy) cũng phải cố gắng phấn đấu mà vươn lên, chăm chỉ học hành, sông sao cho đúng ‘Đạo làm
người’. Bất kể lĩnh vực nào, hễ
có điều kiện thì tranh thủ mà học, học thêm được cái gì hay cái ấy. Tôi mong
con cháu cũng biết Tự lập phấn đấu, Thực hành tiết kiệm và phải có tinh thần
luôn Sẵn sàng giúp đỡ mọi người, Đấu tranh cho Lẽ phải, cho Chính nghĩa”. Tôi nhớ, Cụ Vĩnh thường nói: “Cái
Đức trên đời trước hết phải biết tự trọng chính mình”. Đúng thế, Trọng Vĩnh, là mãi
mãi biết tự trọng. Trong cái danh có chữ Trọng mà không biết ‘Tự Trọng’ là tự
phủi chính mình. Cụ còn nói: “ Làm chính trị, trước hết phải biết trọng chính
thể, chính thể Chính trị và chính thể Quốc gia. Trong bang giao, đối ngoại,
trước hết đừng làm nhục Quốc thể!". Trách những ai mệnh danh 'đất nước, dân tộc' đi bang giao, chỉ vì quyền lợi cá nhân, phe nhóm, vì chức sắc hoặc sự vụ lợi nào đó mà hạ mình, thậm chí quỳ gối trước giặc, há không phải nhục Quốc thể hay sao”.
Đọc những dòng trên, càng hiểu vì sao Cụ Hồ không dùng tên “Tạp chí
Cộng sản” mà là “Tạp chí Học tập”; vì sao không dùng tên Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, mà dùng “Nhà xuất bản Sự thật”, cũng như ngộ thêm phải Học để Thay
đổi và “Thiện” hơn, còn kiên định “Không Thay đổi” thực chất là bảo thủ, giáo điều, Lười, không chịu Học, và sẽ dễ “Ác” hơn.
Cụ Vĩnh kể, do tham gia cách mạng, nên Cụ bị người Pháp bắt đi đày, mỗi
ngày được 1 lạng gạo, 1/3 lạng thịt, 3 lạng rau, mắm muối 15g, song lại đủ điều
kiện tự do chăn nuôi gà lợn, nên mỗi tuần một mâm 6 người có một con gà quay,
một tháng được một con lợn sữa quay. Ông kể khi đó được ăn đủ loại thịt rừng,
hươu, nai, lợn lòi,... do Tây đồn tham nhũng muốn bỏ túi tiền thực phẩm của tù,
nhưng lại không muốn tù đói nên sai lính đi săn bù vào. Vậy là những người có
Học khi tham nhũng có thể vẫn “Thiện”, còn thiếu Học thì tham nhũng chắc chắn
sẽ đi kèm với cái “Ác”?
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1996
Đại tá Tô
Khuyến
(From: E.Mail of Nguyễn Nguyên Bình)
-------------
Trọng Trí Trọng Nhân Trọng Tài Đức
Trả lờiXóaVĩnh Hằng Vĩnh Cửu Vĩnh Thiên Thu
Cụ Vĩnh kể, do tham gia cách mạng, nên Cụ bị người Pháp bắt đi đày, mỗi ngày được 1 lạng gạo, 1/3 lạng thịt, 3 lạng rau, mắm muối 15g, song lại đủ điều kiện tự do chăn nuôi gà lợn, nên mỗi tuần một mâm 6 người có một con gà quay, một tháng được một con lợn sữa quay.
Trả lờiXóađủ thấy tính nhân văn cúa tụi "thực dân xâm lược" ...nhà nước "do dân vì dân" có chăm lo được cho người dân sống tự do ở ngoài như vậy chưa ? (chứ đừng nói đến nguời bị tù)
thử hỏi dân VN muốn được Pháp bắt đi đày như cụ Vinh hay muốn được "độc lặp dưới sự lãnh đạo của Đảng"
Ông nội tôi kể lương 1 công chức hồi Pháp thuộc nuôi cả nhà thoải mái. Ai "táy máy" làm bậy là nó "phăng teo" liền! Chả có khái niệm "tham nhũng ổn định (vững mạnh)" vào thời ấy.
XóaKhông thể để bọn Vịt gian a tòng với Kẻ thù truyền kiếp dìm Ký ức Việt Sử vào trong Quên lãng Lãng quên !
Xóahttps://www.youtube.com/watch?v=px97viRy32g
Nơi Miền Biên cương Biên viễn anh ngã xuống
Chúng cố dìm vào lãng quên chìm xuồng !
Bao trang Sử Việt cha ông viết bằng máu
Bia Chiến thắng Khánh Khê đục xóa bên đường !
Chắc lại thằng Phành Quang Thung hèn đại tướng ?
Nhắc chung chung loạn biên giới năm ấy biên cương
Biên giới có động ...vào Mùa Xuân Năm ấy !
Thành vùng cấm Ký ức phía Bắc chiến trường !
Pháo đài Đồng Đăng kiên cường cùng Vị Xuyên chiến lũy
Lạng Sơn sánh vai bên Hà Giang quyết tử tang thương
Dân quân dân tộc vùng biên viễn dũng cảm đánh giặc
Kẻ thù truyền kiếp biển người tràn biên cương
Cựu binh tự hào thoải mái Thời chống Pháp chống Mỹ
Tán phét phọt phẹt thật tình rộng lượng Người Tây phương
Cựu chiến binh bảo vệ biên giới Bắc đầy mặc cảm
https://www.youtube.com/watch?v=6cTLfBJ-wP8
Khu phố trường nào dám mời Anh hùng chống Bắc phương !
Gần như không có cựu binh thời kỳ chống Tàu Khựa xâm lược
Âm thầm sống tủi sống nhục lãng quên giữa Quê hương !
Bác và Đảng muốn quên đi nhưng Người trải qua có quyền nhớ
Giữa Thời Đồ đểu gặp vịt gian vừa ra ngõ ra đường !
Nhắc lại Cuộc chiến Việt-Trung cũng là trả lại Sự Thật cho Việt Sử !
Tri ân gần triệu Người đã khuất góp xương máu tuổi trẻ nơi chiến trường
Nhắc lại chúng ta không quên mối nguy ẩn tàng bên kia biên giới
Lãng quên như tự chối từ Ngàn trang Sử viết bằng máu Cha ông kính thương .. ..
TRIỆU LƯƠNG DÂN
Con hơn (hiểu) cha là nhà có phúc.
Trả lờiXóaTrò hơn (hiểu) thầy thì nước mới vinh!
Con (đảng) xưng làm bố của ba (Dân tộc)-ấy là nhà Vô phúc
Xóaxem bài viết này của GS-TS toán học Hoàng Xuân Phú
Bài viết dài nhưng hay.Đọc không chán.Tôi kính trọng cụ Vĩnh và những người tâm huyết.Có lẽ đây là niềm hy-vọng cuối cùng của Dân Tộc.
Trả lờiXóacòn thiếu Học thì tham nhũng chắc chắn sẽ đi kèm với cái “Ác”?
Trả lờiXóachí lý.... ứng vào quá đúng ..... lãnh đạo bổ túc văn hoá .... bằng cấp đi mua ....
"Họ" mất khả năng, không cảm giác, về sự nhục nhã rồi!
Trả lờiXóaLoạn luân chính trị
Trả lờiXóaNhững người cộng sản tinh hoa,
Giã từ đảng trị vượt qua chính mình.
Hội nhập thế giới văn minh,
Đảng là đầy tớ trung thành của dân.
Dân chủ, Cộng hòa hay Cộng sản...
Bất luận mang tên, nhãn mác gì,
Nếu xếp loại vào dòng độc đảng,
Ắt là loài toàn trị man di!
Toàn trị là loạn luân chính trị,
Đảng đè đầu, cưỡi cổ muôn dân.
Đè đầu Đảng – một vài “đồng chí”,
Đè lên “đồng chí” – lũ gian thần.
(Đảng trị tôn vinh các “đồng chí”,
Các “đồng chí” sinh hạ gian thần.
Gian thần bủa vây xin “ý chỉ”
Chấn hưng đảng trị, phế quyền dân.)
Đồng chí chỉ còn là... đồng lõa,
Gầm ghè, đấu đá, khử trừ nhau.
Rồi dàn xếp, điều đình, mặc cả,
Phân ngôi, chia ghế hưởng sang giàu.
Đảng? Nhà nước? - Chỉ là phương tiện
Xây vương triều chuyên chế độc tài.
Dân lành phận con giun, cái kiến
Trong “thiên đường nô lệ” tương lai.
“Thiên đường nô lệ” thời nguyên thủy
Là mô hình toàn trị Lê nin:
Đại thảm họa dài xuyên thế kỷ,
“Thời kỳ Đồ Đểu” diệt văn minh.
Đất nước bốn ngàn năm lịch sử
Bao giờ bi đát thế này chăng?
Rắn nhiều đầu ôm chân quỷ dữ,
Cầm tù lòng yêu nước nhân dân.
Bao kiến nghị vứt vào sọt rác,
Cũng chỉ vì mấy miếng đỉnh chung.
Ác với “thần dân”, hèn với giặc,
“Quân vương” hay đạo tặc gian hùng?
Đối ngoại nạm vàng mười sáu chữ,
Quỵ lụy, nâng bi, hiến đất đai.
Sa bẫy nên biến thành thái thú,
Hay cuồng si bám giữ ghế ngai?
Chân lý cuộc đời luôn giản dị:
Độc tài là ngu tối, lỗi lầm;
Đảng trị là loạn luân chính trị,
Hủy hoại nền văn hiến ngàn năm.
Tháng 10/2011
TS Trần Nhơn- nguyên thứ trưởng bộ Thủy lợi
(rút trong 6 bài thơ chính luận của Trần Nhơn)
Nếu có cảm giác nhục vì mình nghèo, hay khinh bỉ người nghèo - đó cơ bản không phải là cảm giác của con người.
Trả lờiXóaCác bà mẹ phương Tây thường dạy con gái: "Nếu người yêu của con không biết chào lại những người phục vụ bàn trong nhà hàng, con hãy cân nhắc khi tính chuyện là bạn đời của nó".
Bến cũ trầm luân thương hàng chục triệu Lương Dân
Trả lờiXóahttps://www.youtube.com/watch?v=-kVnuZ8_-Sc
Lương dân cũng bạn cũ cùng trường
Người tai biến não - kẻ tang thương
Người tâm thần - da cam chất độc
Nhìn răng chẳng còn - trí vất vuởng
Chiến tranh - cấm vận - độc tài - tham nhũng
Gieo bao thảm cảnh bao đoạn trường
Lệ nhòa cầu chúc Xuân Bính Tuất
Bến cũ trầm luân thương dân lương
https://www.youtube.com/watch?v=2STC7SeuoSQ
Nguyễn Hữu Viện
Paris 22/01/2006
http://3.bp.blogspot.com/-OPv1npRB5CI/VOjMeR409NI/AAAAAAAAxoU/U1y5C8JdStQ/s1600/manh1%2B(1).JPG
Mạnh vương NÔNG ĐỨC MẠNG
khai trương phòng 'khánh tiết' trong ngày mùng 1 tết.
http://danlambaovn.blogspot.fr/2015/02/can-canh-noi-that-phong-khanh-tiet.html
Từ hôm mới đọc đã muốn góp ý cách tác giả gom chung ông Vũ Khiêu với cụ Vĩnh vào làm tứ hiền. Nay nhan dịp ông Khiêu tự khoe cái xấu toi phải tìm bài này để nhờ chủ blog nhắn với tác giả thay mấy chữ ấy kẻo thất kính với cụ Vĩnh.
Trả lờiXóa