Việc ấn định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm và
khống chế tín dụng với từng ngân hàng sẽ làm thị trường tín dụng méo mó, kém
linh hoạt.
ThS. Nguyễn Anh Dương, Phó trưởng ban Chính sách kinh
tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) chia sẻ với Đất
Việt trước việc cơ quan này vừa công bố Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý IV năm 2014,
trong đó có đưa ra đề nghị bỏ khống chế tín dụng với từng ngân hàng cũng như bỏ
chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Nên bỏ điều
hành tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu hàng năm
- PV: - Thưa ông, CIEM mới đây
kiến nghị Chính phủ bỏ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Xin ông có thể phân tích
kỹ hơn những lý do nào khiến CIEM lại đưa ra kiến nghị này?
- ThS. Nguyễn
Anh Dương: - Thực tiễn điều hành tín dụng trong các năm 2013-2014 cho
thấy tín dụng có những diễn biến không đều. Cụ thể, những tháng đầu năm thì
tăng rất chậm, thậm chí còn giảm, những tháng giữa năm tăng trưởng không đều và
dồn nhiều hơn vào các tháng cuối năm. Kết quả là kết quả tăng trưởng tín dụng
đều đạt mục tiêu đề ra: năm 2013 là 12,5%, năm 2014 là 12,6%.
Trên thực tế, chưa có nhiều bằng chứng về “công thức
chung” thể hiện quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, ngay cả khi bỏ qua vấn đề này, việc tín dụng tăng trưởng không đều cũng
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của các hoạt động kinh tế.
Tại những thời điểm tín dụng tăng rất nhanh trên thị
trường mà việc thanh khoản không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất cho vay
biến động mạnh. Nhất là vào các dịp cuối năm, mong muốn thúc đẩy tín dụng - để
đạt mục tiêu đề ra - cũng sẽ hạn chế khả năng giảm lãi suất cho vay.
Trước tình hình đó, CIEM kiến nghị cải cách và điều
hành chính sách phải hướng tới một thị trường tín dụng lành mạnh và có tính thị
trường hơn. Trong đó, tín hiệu duy nhất quyết định hoạt động vay của doanh
nghiệp và hoạt động cho vay của ngân hàng chính là lãi suất. Cụ thể, cần hạn
chế các can thiệp gián tiếp gắn với điều hành tín dụng vào các thời điểm khác
nhau để lãi suất ít méo mó hơn.
Chính vì thế, CIEM kiến nghị nên bỏ điều hành tăng
trưởng tín dụng theo chỉ tiêu hàng năm. Con số tăng trưởng tín dụng của cả năm
chỉ là mục tiêu trung gian để hướng đến những mục tiêu sâu xa hơn là tăng
trưởng kinh tế và lạm phát.
Tuy nhiên, con số này không phản ánh chất lượng của
hoạt động tín dụng. Nếu chỉ cố gắng giải ngân tín dụng để đạt mục tiêu đề ra
cho cả năm mà ít lưu tâm đến chất lượng tín dụng thì hiệu quả đối với nền kinh
tế không được như mong muốn, thậm chí còn ảnh hưởng đến các mục tiêu khác.
Nếu đơn thuần tăng trưởng giải ngân tín dụng dựa vào
các hình thức như tín dụng ngoại tệ hay bất động sản thì thực tế có nhiều hệ
lụy, rủi ro khác kể cả với cấp ngành và với môi trường kinh tế vĩ mô – như đã
từng chứng kiến trong giai đoạn 2007-2010.
Nếu làm rõ được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng
quý thì sẽ giảm được áp lực “dồn toa” tín dụng vào cuối năm. Tuy nhiên, điều
này cũng khiến thị trường tín dụng kém linh hoạt hơn, và làm giảm dư địa để
chính sách tiền tệ phối hợp với các chính sách khác. Bản thân việc xác định các
chỉ tiêu hàng quý là không dễ vì khó nhất quán với các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế hay lạm phát –thường được xác định theo năm.
- PV: - Thưa ông, trước đó CIEM
cũng từng đề nghị Chính phủ đừng cố cứu DNNN. Điều này liên quan thế nào đến
những khoản vay lớn của nhiều tập đoàn nhà nước vốn chịu tai tiếng làm ăn thua
lỗ? Đây có phải là hệ quả tất yếu của việc đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng
hay không và vì sao?
- ThS. Nguyễn
Anh Dương: - Thực ra, đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) là không dễ. Lý do là vì ngoài các mục tiêu kinh tế thì
các DNNN còn phải thực hiện các mục tiêu phi kinh tế khác.
Nhưng điều chúng ta có thể nhìn thấy đó là các can
thiệp nhằm giúp DNNN tiếp cận tín dụng ưu đãi hơn và/hoặc dễ dàng hơn, tương tự
như việc thúc đẩy giải ngân tín dụng vào cuối năm hay ưu tiên tín dụng cho các
gói bất động sản, nông nghiệp, thủy sản hay tín dụng ngoại tệ, v.v.
Các can thiệp kiểu như thế này không mang lại hiệu quả
bền vững cho nền kinh tế. Trong khi đó, thị trường có thêm lo ngại về sự gắn
kết chặt chẽ hơn giữa DNNN với các ngân hàng vì các DNNN gắn với nhiều lĩnh vực
được ưu tiên nên cũng có thêm hỗ trợ trong tiếp cận tín dụng. Các DNNN được ưu
tiên trong khi ít chứng minh được khả năng dự án của họ khả thi hơn và có khả
năng trả nợ tốt hơn so với DN tư nhân.
Hệ lụy khi dành ưu tiên tiếp cận tín dụng cho DNNN
trên cơ sở thiếu cạnh tranh, không dựa trên yếu tố thị trường là giảm hiệu quả
và động lực cạnh tranh của DNNN, đồng thời không duy trì đủ sức ép để DNNN thực
hiện hiệu quả dự án.
Thứ nữa là với cùng một lượng vốn trên thị trường mà
ưu tiên hơn cho DNNN thì rõ ràng sẽ khó khăn cho việc tiếp cận vốn của DN tư
nhân. Khó khăn này nằm ở cả quy mô vốn vay và lãi vay cho DN tư nhân. Điều này
cũng làm giảm hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế nói chung cũng như sự phát
triển bền vững của khu vực DN tư nhân.
Ưu tiên DNNN
đương nhiên DN tư nhân bị hạn chế
- PV: Hệ quả của cách điều hành như
thời gian qua từ việc cố cứu DNNN liệu có là nguyên nhân khiến công cuộc tái cơ
cấu kinh tế không đạt được như mong muốn? Đề xuất của CIEM có phải là nỗ lực
đầu tiên để khơi thông công cuộc này hay không và vì sao?
- ThS.
Nguyễn Anh Dương: - Chúng ta
đang nhấn mạnh yêu cầu cải cách cũng như yêu cầu chuẩn bị, tranh thủ tận dụng
cơ hội trước khi thực hiện các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia
ở mức độ sâu sắc hơn. Trong bối cảnh ấy, rõ ràng quá trình tái cơ cấu và nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều vấn đề.
Vấn đề không chỉ nằm ở chỗ từng lĩnh vực tái cơ cấu
như đầu tư công, DNNN, hệ thống ngân hàng thương mại. Nó không chỉ nằm ở mong
muốn và yêu cầu cải cách mà ngay cả tiến độ của từng lĩnh vực cần tái cơ cấu
cũng không được như kỳ vọng. Nói cách khác, quá trình tái cơ cấu hiện nay còn
chậm vì nhiều lý do chứ không chỉ nằm ở chính sách kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, phải thấy rằng chính sách tín dụng đang ảnh
hưởng một phần đến quá trình tái cơ cấu. Cụ thể, việc điều hành tín dụng chưa
gắn được với tư duy ổn định lãi suất trong trung và dài hạn. Nếu muốn doanh
nghiệp đầu tư và bỏ vốn làm ăn trong một thời gian dài thì phải có được sự ổn
định lãi suất trong trung và dài hạn. Nhưng lãi suất tín dụng trong thời gian
từ 2012 đến nay – dù có xu hướng giảm - nhưng thiếu sự ổn định trong trung và
dài hạn làm cho DN rất lo ngại.
Có thể thấy rằng việc điều hành tín dụng ở đây nếu
không gắn được với neo kỳ vọng về lạm phát, không giúp ổn định lãi suất trung
và dài hạn thì rõ ràng DN khó có động lực để thực hiện hoạt động đầu tư trong
dài hạn. Khi đó nền kinh tế sẽ thiếu đi sự phát triển ổn định, bền vững.
Cần nhận thức sâu sắc rằng các DN quan tâm đến chính
sách kinh tế vĩ mô không phải chỉ là chuyện hỗ trợ được ngành này, ngành kia.
Quan trọng hơn là các DN cần một môi trường ổn định và dễ dự đoán được để yên
tâm hơn với các quyết định đầu tư kinh doanh của mình.
Kiến nghị của CIEM chính là để cải thiện cách thức
điều hành chính sách theo hướng này.
- PV: - Khi nguồn lực tín dụng
đổ vào những địa chỉ làm ăn kém hiệu quả thuộc khối nhà nước, cơ hội cho các
doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn tín dụng với lãi suất hợp lý sẽ bị hạn chế
như thế nào? Nếu doanh nghiệp tư nhân bị chặn cơ hội phát triển, trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với những thách thức hội nhập, cơ hội để
giữ vững chủ quyền kinh tế có thể được hình dung ra sao, thưa ông?
- Ths Nguyễn
Anh Dương: - Tiếp cận tín dụng
của DN tư nhân là vấn đề không mới, nhưng có ý nghĩa ngày càng lớn hơn do phần
lớn các DN Việt Nam hiện có quy mô nhỏ và vừa.
Rõ ràng là khi nguồn vốn tín dụng có hạn, nếu ưu tiên
DNNN hơn thì đương nhiên phần dành cho DN tư nhân sẽ phải thấp đi. Hơn nữa,
hiệu quả sử dụng tín dụng sẽ giảm đi nếu đổ vào các dự án do DNNN thực hiện lại
kém hiệu quả trong khi đáng lẽ ra nguồn vốn đó có thể dành cho một doanh nghiệp
tư nhân có hiệu quả cao hơn.
Đó là chưa kể xu hướng gia tăng phát hành Trái phiếu
Chính phủ hiện cũng gây thêm lo ngại về chèn lấn tín dụng cho DN tư nhân.
Chính vì vậy, khu vực tư nhân chỉ còn vài lựa chọn.
Với các DN có hồ sơ tín dụng sạch, dự án tốt, và duy trì quan hệ tốt với ngân
hàng thì có thể có tín dụng chính thức. Số còn lại sẽ phải dựa vào các khoản
vay từ thị trường phi chính thức (người thân, bạn bè, thậm chí là cả từ chợ
đen). Trong khi đó, hoạt động vay mượn thông qua phát hành trái phiếu thì rất
ít DN tư nhân có thể thực hiện được.
Như vậy, khu vực tư nhân vừa hạn chế về cơ hội tín
dụng, vừa hạn chế cả lãi suất nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời. Đương
nhiên, DN tư nhân có xu hướng đi vào những lĩnh vực kiếm lời nhanh trong thời
gian ngắn hoặc có ưu đãi tín dụng, nếu không sẽ không đủ trả tiền lãi vay. Ở
chừng mực ấy, đòi hỏi các DN này tham gia vào sản xuất công nghiệp hỗ trợ hay
lĩnh vực cần đầu tư dài hạn sẽ rất rủi ro.
Chính vì vậy, bên cạnh kiến nghị bỏ mục tiêu điều hành
tín dụng tăng trưởng theo năm, CIEM cũng đề xuất giảm dần các đối xử khác biệt
cho các nhóm lĩnh vực được ưu tiên hay các lĩnh vực bị hạn chế.
Cách điều hành như vậy sẽ gây méo mó đối với thị
trường tín dụng và hạn chế khả năng điều chỉnh chính sách tín dụng khi cần,
chưa kể đến động lực hoạt động của các DN nhận ưu đãi. Khi đó, hệ lụy là khả
năng phục hồi tăng trưởng chậm cũng như chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế
không cao.
Chúng ta mong muốn một môi trường tăng trưởng chất
lượng, dựa nhiều hơn vào năng suất, vào sự nỗ lực mang tính dài hạn của DN
trong việc cải thiện trình độ công nghệ, khả năng quản trị, liên kết với DN
nước ngoài hay nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo cạnh tranh,v.v.
Song phương thức điều hành tín dụng hiện nay chưa giúp DN yên tâm để có những
nỗ lực ấy. Đây là điều hết sức lo ngại.
- Xin trân trọng
cảm ơn ông!
Bích Ngọc (thực hiện)/ĐVO
-----------------
Các kinh tế gia VN chỉ lý thuyết suông!
Trả lờiXóaHiệu suất lao động và tính người trong sản xuất, kinh doanh mới thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia phát triển.
Hôm qua, vô tình nghe đọc trên HTV ca ngợi chủ nghĩa Mác "sẽ đánh đổ CNTB thối nát"?! mà tôi chẳng hiểu bọn này còn ngoan cố ngu ngốc đến bao giờ? Kể cả lúc đã xuống mồ ư?!