Liên quan đến chuyện "viết cho ai?", tôi
nghĩ, có một vấn đề khác cũng cần được đặt ra: Nhà văn là ai?
Câu trả lời chắc chắn không đơn giản. Khái niệm nhà
văn thay đổi theo thời gian: ngày xưa, ở Việt Nam, bất kể ở những tài năng lớn
hay nhỏ, tư cách nhà văn đều bị chìm khuất, thật mờ nhạt, đằng sau tư cách của
những ông quan, ông đồ, ông cử hay ông tú.
Lặn sâu vào những sự đa dạng và phức tạp ấy để tìm
hiểu vấn đề "nhà văn là ai?" hẳn là một điều vô cùng thú vị. Tuy
nhiên, trong bài này, tôi chọn một góc độ khác không kém thú vị nhưng lại thực
tế hơn: nhà văn không là ai?
Cái
không là cái vô hạn. Ở đây, tôi chỉ dừng lại ở một số nét chính.
Như,
nhà văn không phải là nhà báo, chẳng hạn.
Về phương diện lý thuyết, sự phân biệt giữa nhà văn và
nhà báo thật vô cùng đơn giản. Nhà báo trước hết là tình nhân của các vấn đề
thời sự, trong khi nhà văn, trước hết, là tình nhân của nghệ thuật. Nhà báo
đuổi theo các sự kiện, trong khi nhà văn đuổi theo cái đẹp. Với nhà báo, chữ
nghĩa là phương tiện; với nhà văn, chữ nghĩa là cứu cánh. Tiêu chuẩn để đánh
giá các nhà báo là tính chính xác và tính kịp thời, trong khi tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá một nhà văn là sự nhạy cảm và sự độc đáo. Đại khái thế.
Sự khác biệt khá rõ ràng. Ít ai có thể lẫn lộn được.
Có điều, ở Việt Nam
thì khác. Ranh giới giữa nhà văn và nhà báo, cho đến nay, vẫn rất nhập nhằng.
Đầu tiên là nhập nhằng về phương diện sinh hoạt: cả
nhà văn lẫn nhà báo đều sử dụng một sân chơi chung: các tờ báo. Hầu hết các nhà
văn chuyên nghiệp đều ít nhiều là các nhà báo chuyên nghiệp. Nguồn thu nhập
chính của họ không đến từ sách mà là từ báo. Đăng trên báo thì gọi là bài báo;
in lại dưới hình thức sách thì thành ra chương sách. Tính chất thông tin và
giải trí vốn là đặc trưng của báo chí dần dần trở thành đặc trưng nổi bật của
vô số các tác phẩm được gọi là văn học, đặc biệt dưới nhãn phê bình và tiểu
luận.
Hậu quả của điều này là sự nhập nhằng trong phong cách
viết lách của nhà văn và của nhà báo: khi viết báo, người ta vẫn thích chút văn
vẻ sang cả của văn chương, và khi làm văn chương thật, người ta lại không dứt
bỏ được thói vội vàng đến cẩu thả của những người đưa tin.
Từ hai sự nhập nhằng trên dẫn đến sự nhập nhằng khác,
nhập nhằng trong danh xưng: không hiếm người làm báo, hoàn toàn làm báo, thích
mạo nhận là nhà văn và hay lẩn quẩn vào sân chơi văn chương để giành ghế của
người này và đòi cụng ly với người khác. Tính chất xô bồ và nhếch nhác trong
sinh hoạt văn học Việt Nam lâu nay, trong cũng như ngoài nước, theo tôi, phần
lớn xuất phát từ đám người mạo danh ấy.
Trong ba sự nhập nhằng trên, sự nhập nhằng đầu tiên
hầu như không thể giải quyết được trong tình hình kinh tế và xã hội hiện nay
khi số người đọc sách quá ít và, hơn nữa, quá thấp; sự nhập nhằng thứ ba rất
khó giải quyết một phần vì không thể có cá nhân hay tổ chức nào đủ quyền lực để
ngăn chận tình trạng mạo danh; phần khác, quan trọng hơn, vì chính giới nhà văn
cũng chưa đủ sức để tạo hẳn cho mình một diện mạo và một thế giá riêng, nhờ đó,
có thể tự phân biệt mình và những kẻ ăn theo. Nói cách khác, nguyên nhân chính
của tình trạng xô bồ và nhếch nhác trong sinh hoạt văn học Việt Nam lâu nay
không phải chỉ do sự hiện diện của những kẻ mạo danh mà còn vì, nếu không muốn
nói chủ yếu là vì sự bất tài của những kẻ được xem là nhà văn.
Chỉ có sự nhập nhằng thứ hai là có thể giải quyết
được. Chỉ cần chút nỗ lực và nhất là, chút tự giác. Nỗ lực giữ ngòi bút của
mình không bị trượt vào sự dễ dãi, không bị cuốn theo thói quen, và nhất là,
không bị biến thành thứ phương tiện chỉ xài một lần rồi bị vứt bỏ; nỗ lực biến
mỗi bài viết thành một công trình kiến trúc hoàn chỉnh bằng ngôn ngữ. Nhưng
muốn thế, người ta cần phải, trước hết, tự giác về những đặc điểm và những
chuẩn mực của văn chương để có thể, ít nhất, biết được khi nào mình còn ở trong
lãnh thổ của văn chương và khi nào thì không; khi nào mình đang làm văn chương
và khi nào mình chỉ thải ra chữ.
Cái ý thức tự giác ấy thật ra là một tài năng: đó là
sự nhạy cảm về độ, về ngưỡng, về giới hạn, về sợi chỉ mong manh căng qua ranh
giới giữa cái đẹp và cái đèm đẹp. Cái ý thức tự giác ấy cũng là một biểu hiện
của văn hoá: đó chính là ý thức về giá trị và kỷ luật, ở đây chủ yếu là giá trị
văn chương và kỷ luật của nghề làm văn chương. Hai khía cạnh này có quan hệ chặt
chẽ với nhau: ý niệm về độ hay ngưỡng bao giờ cũng gắn liền với ý niệm về giá
trị và kỷ luật. Bởi vậy, tôi cho điều quan trọng nhất trong việc tách nhà văn
ra khỏi nhà báo là các nhà văn, chính các nhà văn, phải xây dựng và phải tôn
trọng bảng giá trị và kỷ luật của văn chương: họ có thể sống như một nhà báo và
viết như một nhà báo, nhưng khi đã có ý định làm văn chương thì phải quyết tâm
làm văn chương thực sự, phải chấp hành những kỷ luật của văn chương và phải
nhắm tới những giá trị văn chương chứ không phải bất cứ một thứ giá trị gì
khác; nghĩa là, nói cách khác, phải tích cực đẩy mạnh quá trình chuyên nghiệp
hoá văn học.
Biện pháp này, nghĩ cho cùng, cũng có thể áp dụng cho
sự nhầm lẫn giữa tư cách nhà văn và tư cách cán bộ.
Đúng ra, đó không phải là một sự nhầm lẫn. Đó là một
sự cố tình đồng nhất tư cách nhà văn và tư cách cán bộ để tạo thành một thứ
nhà-văn-cán-bộ như cái điều vẫn phổ biến tại Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Sự đồng
nhất này nằm trong âm mưu hành chính hoá và chính trị hoá văn học, biến văn học
thành một bộ phận trong guồng máy nhà nước, ở đó, mỗi người cầm bút là một viên
chức được trả lương và phải có nhiệm vụ chấp hành mọi mệnh lệnh từ giới lãnh
đạo.
Khi văn hoá văn học bị khống chế bởi văn hoá hành
chính, những cái được xem là giá trị không phải là tinh thần sáng tạo mà là sự
vâng phục; không phải sự độc đáo mà là sự bình thường; không phải cá tính mà là
ý thức tập thể; không phải cái riêng mà là cái chung. Từ văn hoá hành chính,
nhà văn xem việc thực hiện trách nhiệm đối với tổ chức quan trọng hơn trách
nhiệm đối với văn học, xem cái đẹp không bằng cái có ích, xem việc trung thành
đối với các quan điểm và chính sách của đảng là một yêu cầu đạo đức cũng như
xem tính hiệu quả trong việc phục vụ cho các quan điểm và các chính sách ấy là
thước đo tài năng.
Điều đáng lưu ý là khi văn hoá văn học bị khống chế
bởi văn hoá hành chính, không phải chỉ có nhà-văn-cán-bộ mà còn có cả những
độc-giả-cán-bộ.
Độc-giả-cán-bộ ở đây không phải là những cán bộ đóng
vai độc giả mà là những độc giả đóng vai cán bộ, đọc trong tinh thần của một
cán bộ, dù độc giả ấy, trên thực tế, không phải là cán bộ và cũng không phải là
người ăn lương của nhà nước, thậm chí, có khi đã di tản hẳn ra nước ngoài.
Đọc trong tinh thần cán bộ là đọc với tâm thế tự
nguyện chấp hành kỷ luật và với ý thức bảo vệ những tôn ti trật tự đang có. Một
độc-giả-cán-bộ đánh giá tác phẩm trước hết dựa theo cái tên của tác giả: nếu đó
là tác phẩm của một người thuộc giới lãnh đạo, họ sẽ đọc với thái độ cung kính
của một thuộc hạ; nếu đó là tác phẩm của một người được xã hội xếp vào bậc
thầy, họ sẽ đọc với thái độ ngoan ngoãn của một tên học trò; nếu đó là tác phẩm
của một người không có chức vị gì đáng kể, họ sẽ đọc với thái độ phê phán có
khi khắc nghiệt, có khi suồng sã của một kẻ bề trên hoặc ngang hàng; nếu đó là
tác phẩm của một người bị xem là thù nghịch, họ sẽ đọc với thái độ hoàn toàn
phủ định và đầy ác ý.
Hơn nữa, khi đọc, điều một độc-giả-cán-bộ cần tìm kiếm
nhất bao giờ cũng sự tái khẳng định những điều vốn đã được xem là chân lý bất
biến. Họ không bao giờ cảm thấy chán khi đọc đi đọc lại những trích dẫn trùng
lặp từ các tác phẩm được gọi là kinh điển hoặc từ các loại sách báo phổ thông.
Ngược lại, điều làm họ dị ứng nhất chính là những cái mới lạ: trong tâm lý của
một cán bộ, cái mới lạ bao giờ cũng hàm chứa một nguy cơ gây đảo lộn cái trật
tự hiện có và cũng chính là cái trật tự họ muốn bảo vệ.
Xuất phát từ văn hoá chính trị, sáng tác là để tập hợp
lực lượng, hay nói như ai đó, một cách "gọi đàn". Điều người cầm bút
quan tâm nhất là được đồng tình, đồng ý và được chấp nhận. Muốn thế, người ta
thường tránh xa mọi sự thách đố. Người ta phải tự mài mòn cá tính của mình, tự
bóp chết những giấc mơ tìm tòi và thử nghiệm. Văn hoá chính trị bao giờ cũng là
văn hoá của đại chúng: nó đề cao những cái chung chung và những cái tầm tầm. Nó
xem phản ứng của quần chúng như một thứ nhiệt kế văn học: tác phẩm được quần
chúng hiểu, thích và nhớ là thành công; ngược lại, là thất bại, hoặc thất bại
về nghệ thuật (chưa đủ trình độ để chinh phục người đọc), hoặc thất bại về đạo
đức (cố tình làm ra vẻ cao vĩ để dối gạt hay hù doạ quần chúng).
Tự
bản chất, một thứ văn hoá như thế rất xa lạ với văn hoá văn học.
Khác với các lãnh vực khác, văn học là thế giới của sự
riêng tây. Văn học không làm người ta tụ lại với nhau mà làm cho mỗi người tách
ra một cõi riêng. Từ cả việc viết lẫn việc đọc, người ta đều một mình. Chức
năng cao cả nhất của văn học, theo tôi, là nuôi dưỡng cái "một mình"
ấy: một mình mình đối diện với chính mình; một mình mình lắng nghe những tiếng
thì thầm của ngôn ngữ; một mình mình đi vào thế giới mênh mông vô cùng vô tận
của sự sáng tạo. Trong những cuộc hành trình một mình đi vào cõi riêng tây như
thế, chỉ có những khám phá mới mẻ hoặc những cách thể hiện mới mẻ mới thực sự
có ích: chúng làm cuộc hành trình đẹp hơn và làm cõi riêng giàu có hơn.
Chính vì vậy, với tư cách là một công việc sáng tạo,
mọi cái viết chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó thách đố lại với thói quen và định
kiến, khi nó gây hấn với mọi lối mòn và mọi quy ước. Một nhà văn lớn là người,
bằng tác phẩm của mình, góp phần mở ra những biên giới mới hoặc đưa ra định
nghĩa mới cho các khái niệm văn học hoặc thể loại văn học. Cũng chính vì vậy,
văn học có thể đi liền với cách mạng nhưng lại rất khó song hành với chính trị:
khi các lực lượng cách mạng đã giành được chính quyền thì cũng là lúc văn học
bị lâm nguy.
Nói tóm lại, trong phạm vi bài này, tôi chưa dám khẳng
định nhà văn là ai, nhưng tôi biết chắc một điều: dù là ai đi nữa thì nhà văn,
ít nhất là lúc cầm bút làm văn chương, nhất định không phải là một nhà báo, kẻ
chỉ xem chữ nghĩa như một phương tiện để rượt đuổi theo các sự kiện không ngừng
diễn ra và không ngừng bị vùi lấp. Nhà văn cũng nhất thiết không phải là một
cán bộ, kẻ chỉ biết phục tùng; một nhà chính trị, kẻ chơi trò mị dân, chỉ thích
đầu tư trên cái vốn chung và cũ của tập thể; một nhân viên xã hội, kẻ đầy tinh
thần trách nhiệm đối với xã hội và vì tinh thần trách nhiệm ấy, sẵn sàng hy
sinh cả nghệ thuật.
N.H.Q/VOA
-----------------
Văn hóa nghệ thuật VN hiện nay ở số "âm" rồi. Rẻ tiền, nhí nhố, với những bộ mặt tinh tướng, nhìn thấy là muốn chuyển kênh (qua kênh nước ngoài).
Trả lờiXóaÂm nhạc phản ánh xã hội. Như vậy, thời tiền chiến (trước "CM") ở VN là rất đẹp, qua những bài hát thời đó. Xã hội lúc đó thanh bình và đáng sống, các nhạc sĩ mới có hồn làm ra những ca khúc tuyệt vời, không bao giờ bị quên lãng.
Các nhà văn nói những gì , viết những gì thì viết , nhưng từ nay đừng đẻ ra thêm dạng con người mới XHCN nữa đấy , rồi còn cái " Tính đảng " nữa , nhiều quá rồi .
Trả lờiXóaBài viết tìm cách phân biệt giữa nhà văn và các nghề khác để trả lời một câu hỏi "nhà văn là ai?", xin không lạm bàn về nhà văn là ai, chỉ xin góp vui bằng sự phân biệt nhà văn và nhà báo (viết); hai "nhà" cùng phản ánh cuộc sống bằng ngòi bút.
Trả lờiXóaCâu chuyện ở làng Vũ Đại, được nhà báo phản ánh như sau:
Ngày...tháng ... năm...vào hối...giờ...(họ) Chí đã đâm chết ông ...Kiến, nguyên Lý trưởng làng, Tiên chỉ làng bằng ... nhát dao. Sau khi đâm chết ông Kiến Chí đã dùng dao tự sát. Nguyên nhân ban đầu được biết Chí uống rượu say tìm đến nhà ông Kiến để trả thù. Theo nguồn tin của dân địa phương,trước đây, Chí là người ở trong nhà ông Kiến. Cách đây mấy năm, vì nghi Chí có tư tình với vợ ba của mình, ông Kiến lúc đó đang là Lý trưởng tìm cách đẩy Chí vào tù. Sau khi mãn hạn tù, Chí trở thành kẻ nghiện ngập thường gây gỗ, không làm chủ được bản thân...
Đại khái thế.
Chắc trong bài báo (dù dài bao nhiêu) cũng sẽ không có các nhân vật Thị Nở, Tự Lãng, Binh Tư, Năm Thọ ...không có một số phận, một thân phận của Chí phèo, thị Nở, Binh Tư, Tự Lãng, Năm Thọ...và không có những đoạn viết "Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành vành. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại ? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài loang ra, xé rách vài chỗ. Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo." và cũng không có câu hỏi của Tự Lãng "Người ta đứng lên bằng cái gì?".v.v tất cả những cái đó là của nhà văn, là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Nhà văn, viết trước tiên để phản ánh cái "tôi"; cái tôi nghệ sĩ. Cuộc sống được phản ánh bằng cảm quan cá nhân, bằng triết lý cá nhân, bằng tình cảm cá nhân; chỉ là anh duy nhất, nhìn thấy cuộc sống như thế, và chỉ có anh phản ánh cuộc sống như thế. Thế giới hiện thực được qua cảm quan của anh, nhân thức của anh thành những hình tượng nghệ thuật của riêng anh không thể ai tác động...nó mới là anh.
Và như thế, nhà văn phải được tự do, hoàn toàn tự do mới có tác phẩm hay được.
Điều đáng buồn là không ai đưa được tự do cho nhà văn, chỉ có nhà văn, bằng bản lĩnh, tài năng mới tìm được tự do cho chính mình. Chí Phèo là một kiệt tác, cùng Chí Phèo văn học Việt còn có những Kiệt tác khác như "Tướng về hưu", "Cánh đồng bất tận" ...nó chỉ thực sự kiệt tác khi viết về thân phận con người và qua tác phẩm cho người đọc thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của nhà văn với con người.