* Peter Hoffmann
- Trần Ngọc Cư dịch
Khi chúng giam những người
dân chủ xã hội, tôi im lặng, tôi có theo dân chủ xã hội đâu.
Khi chúng lùng những thành
viên công đoàn, tôi im lặng, tôi có ở công đoàn nào đâu.
Khi chúng đến bắt tôi, thì
chẳng còn ai, để có thể đứng ra phản đối.
Đó là những
lời còn mãi của nhà thần học Tin lành Martin Niemöller (1892-1984) và
lãnh đạo Giáo hội Thống hối, người cũng được nhắc đến trong bài điểm sách dưới
đây.
Từng bầu cho Đảng Quốc xã, ủng hộ chính thể của Quốc trưởng và có khuynh
hướng bài Do Thái, song chỉ 4 năm sau khi Hitler lên cầm quyền ông đã chuyển
thành một người chống đối, bị giam cầm trong các trại tập trung, có thời gian
như một tù nhân riêng của Hitler, cho đến khi được lính Mỹ giải phóng. Trong số
những người Đức âm thầm chịu đựng chế độ Quốc xã, thậm chí tìm cách giành được
một vị trí nhiều ảnh hưởng trong đó để chống nó từ bên trong, nổi bật lên hai
nhóm: tướng lãnh và nhà thờ Tin lành, một có chỗ dựa là vũ khí quân sự, một có
chỗ dựa là vũ khí tinh thần. Phần lớn họ cuối cùng đều thiệt mạng. Song cuộc
đời họ cho thấy là khả năng ấy có thật chứ không phải một lời biện minh mệt
mỏi, rằng người ta phải đến gần cái Ác để ngăn chặn nó.
Phạm Thị Hoài
* * *
Khi Adolf Hitler xâm chiếm Ba
Lan năm 1939, người Châu Âu vốn đã có một truyền thống dùng vũ trang để chống
lại nhà cầm quyền, từ đó họ học hỏi nhiều kinh nghiệm. Tại những nước như Đan
Mạch, Pháp, và Ba Lan, các phong trào có thực lực đã xuất hiện chống lại việc
chiếm đóng của Quốc xã. Nhưng chính trong nước Đức, một cuộc chống đối tương
đối nhỏ cũng phải vất vả lắm mới có thể bám trụ và hiếm khi đặt ra một đe dọa
nghiêm trọng nào cho chế độ Hitler.
Hầu hết mọi người Đức đều lo
ngại trước hết cho chính sự sống còn của bản thân mình và vì thế, khi thông tin
bắt đầu rò rỉ về việc trục xuất người Do Thái và các sự lạm quyền khác của Quốc
xã, họ chỉ giấu kín bất cứ quan ngại nào nếu có ở trong lòng. Dẫu sao, chỉ cần
nhắc đến những vấn đề này cũng có thể rước lấy án tử hình, cũng như nghe lén
các đài nước ngoài và loan tải tin đồn. Sự đe dọa của hình phạt nghiêm khắc rất
có hiệu quả: Đảng Quốc xã bưng bít thành công mọi thông tin từ ngoài vào đối
với hầu hết người Đức, và bất cứ ai biết được sự thật mà đâm ra ray rứt, thì
người ấy sẽ chịu nhiều nguy hiểm do việc hành động theo lương tâm của mình. Một
thiểu số can trường tham gia kháng chiến, ý thức một cách đau đớn rằng họ thiếu
hẳn hậu thuẫn từ bên trong lẫn bên ngoài, nhưng việc này không gây ngạc nhiên
cho hầu hết những người chống chế độ.
Tuy nhiên, những lý giải về
lý do tại sao quá ít người Đức nổi dậy chống Hitler và quá nhiều người Đức bám
víu ông ta đến hơi thở cuối cùng đã không dành chỗ cho những câu chuyện của
những người Đức, nam cũng như nữ, đã chống lại chế độ Quốc xã. Trong cuốn No
Ordinary Men, Elizabeth Sifton và Fritz Stern giúp điền vào chỗ trống này bằng
cách ghi chép các sự kiện liên quan cuộc đời của hai thành viên hàng đầu của
kháng chiến Đức: nhà thần học nổi tiếng Dietrich Bonhoeffer và người anh rể ít
tiếng tăm hơn, luật gia Hans von Dohnanyi. Trong khi kể về Bonhoeffer và
Dohnanyi, cuốn sách đã trình bày một bức tranh rất hấp dẫn về làn sóng ngầm
chống Quốc xã. Trong nhiều nhận xét sâu sắc được đưa ra, có lẽ điều quan trọng
nhất là, mặc dù những người chống Hitler thường có động cơ chính trị và chiến
lược không liên quan đến chủ nghĩa bài Do Thái của Quốc xã, nhưng những nhân
vật phản kháng quan trọng nhất ở đây được thúc đẩy chủ yếu (hay chí ít một phần
lớn) do cùng có một cảm nhận chung về sự hãi hùng đối với cuộc tàn sát tập thể
nhắm vào người Do Thái.
CHẶN ĐỨNG BÁNH XE
Cả Bonhoeffer và Dohnanyi đều
chống đối chế độ Quốc xã từ đầu, nhưng sự xung đột của Bonhoeffer với Đảng Quốc
xã là công khai hơn và vì thế ngày nay được nhiều người nhớ đến hơn. Được sinh
ra trong một gia đình nổi tiếng tại Berlin ,
Bonhoeffer quyết định theo đuổi sự nghiệp của một mục sư từ khi mới 14 tuổi.
Sifton và Stern gợi ý rằng ngoài ảnh hưởng của phía gia đình bên mẹ ông (cả ông
ngoại và ông cố ngoại đều là mục sư), Bonhoeffer có lẽ đã được thu hút đến một
cuộc đời mục vụ để phản ứng lại tình trạng “bấp bênh đạo lý” và “bất ổn tâm
linh” vốn là đặc tính của những năm sau Thế chiến I. Về sau, Bonhoeffer đã học
một năm tại Chủng viện Thần học Hợp nhất [the Union Theological Seminary] tại
New York dưới sự chỉ giáo của triết gia Reinhold Niebuhr (vị này lại là cha của
đồng tác giả Sifton).
Vào năm 1933, khi Hitler được
chỉ định làm Thủ tướng Đức, Bonhoeffer đã là một mục sư được thụ phong có
tiếng tăm nhờ những tác phẩm thần học của mình. Lúc bấy giờ, Giáo hội Luther
Đức, mà ông là một thành viên, không có một lập trường thống nhất về Chủ nghĩa
Quốc xã. Một phe có thế lực trong Giáo hội, mà các thành viên tự xưng là “Những
người Thiên chúa giáo Đức” ủng hộ cái được coi là một phiên bản Thiên chúa giáo
mang đặc tính Đức, công bố một “Giê-su của chủng tộc Aryan” và hậu thuẫn chủ
nghĩa bài Do của Đảng Quốc xã. Hầu hết các mục sư Đức không phải là những thành
phần Quốc xã cực đoan, mà là những người theo chủ nghĩa dân tộc, trung thành
với bất cứ chính phủ nào đang cầm quyền. Bonhoeffer bác bỏ cả hai lập trường.
Chỉ hai ngày sau khi Hitler được bổ nhiệm, Bonhoeffer đã đọc một diễn từ trên
đài phát thanh cảnh báo rằng nếu một lãnh tụ đầy quyền lực (Führer) như Hitler
vi phạm niềm tin của nhân dân, ông ta có “nguy cơ trở thành một tên lừa mị vĩ
đại” (Verführer). Trong khi đó, các đảng viên Quốc xã phát động một nỗ lực quan
trọng nhằm xác lập quyền kiểm soát việc điều hành Giáo hội và thanh lọc các
“phần tử phi-Aryan” [non-Aryans] khỏi hàng giáo phẩm.
Không lâu sau bài diễn từ đó,
Bonhoeffer cho xuất bản “Giáo hội và Vấn đề Do Thái,” một tiểu luận tranh luận
rằng Giáo hội Đức có “một bổn phận vô điều kiện đối với các nạn nhân của bất cứ
một cuộc sắp xếp trật tự xã hội nào.” Mặc dù vai trò của Giáo hội “không phải
là ca ngợi hay chỉ trích luật lệ nhà nước,” ông viết, Giáo hội phải chất vấn
xem các hành động của nhà nước có chính đáng hay không. Hơn nữa, Giáo hội
có thể có bổn phận không những “băng bó vết thương của những người ngã gục dưới
bánh xe…mà đôi khi phải chặn đứng bánh xe ấy lại” bằng cách vận động chính trị
trực tiếp. Theo ngôn từ của nhà thần học Thụy Sĩ Karl Barth, bài tiểu luận này
đã làm cho Bonhoeffer trở thành “mục sư đầu tiên và gần như duy nhất nắm bắt
được và đối phó với vị trí trung tâm của Judenfrage [Vấn đề Do
Thái].” Vì không thể cúi đầu sống theo điều mà ông coi là sự hèn nhát của Giáo
hội Luther trước những nỗ lực kiểm soát nó của Hitler, Bonhoeffer và mục sư bạn
Martin Niemöller đã dẫn đầu một nhóm gồm hơn 2.000 mục sư để thành lập một tổ
chức mới gọi là Giáo hội Thống hối.
Chẳng bao lâu, Bonhoeffer
cũng từ bỏ nhóm này, vì cho rằng các thành viên của nó còn quá e dè, không dám
chống lại các cảm tình viên và mật vụ Quốc xã đang tìm cách kiểm soát các Giáo
hội Đức. Nhưng Gestapo có vẻ tin rằng Giáo hội Thống hối đặt ra một
mối đe dọa và bắt giữ khoảng 800 mục sư của Giáo hội này năm 1937. Ba năm sau,
Quốc xã cấm hẳn Bonhoeffer giảng đạo hay phát biểu bất cứ điều gì trước công
chúng.
Trong thời gian Bonhoeffer
thử nghiệm những giới hạn của nỗ lực chống Quốc xã thì Dohnanyi đang phục vụ
trong hàng ngũ cao nhất của chế độ Quốc xã. Dohnanyi, con trai của nhà soạn
nhạc Hung Gia Lợi nổi tiếng Ernst von Dohnanyi (và sau này là cha của nhạc
trưởng lừng danh Christoph von Dohnanyi), đã lớn lên ở Berlin và quen biết với gia đình Bonhoeffer
từ thời thơ ấu. Trong thời gian soạn luận án tiến sĩ luật tại Đại học Hamburg,
Dohnanyi gặp và năm 1925 cưới Christine, chị của Bonhoeffer. Bốn năm sau, hai
vợ chồng trở về Berlin, tại đây Dohnanyi bắt đầu làm việc tại Bộ Tư pháp và lần
lượt giữ những chức vụ có uy tín. Năm 1933, ông trở thành trợ lý chính cho Bộ
trưởng Tư pháp, Franz Gürtner. Ghê tởm trước sự tàn bạo của Quốc xã, Dohnanyi
đã dùng ưu thế của mình để bắt đầu lập hồ sơ về những hành động phi pháp của
chúng. Về sau ông đã khai với những thẩm vấn viên Quốc xã là chính “sự độc đoán
phi lý trong lãnh vực pháp lý và các bản án của Quốc xã trong vấn đề Do Thái và
các Giáo hội” đã thúc đẩy ông chống lại chế độ.
Nhưng Dohnanyi còn đối diện
nhiều rủi ro nghiêm trọng khác vì di sản huyết thống của mình: ông có một người
ông Do Thái. Như tất cả mọi công chức nhà nước, Dohnanyi bị bắt buộc phải kê
khai bằng chứng về dòng dõi Aryan của mình. Tuy nhiên, Gürtner báo cho Hitler
biết rằng Dohnanyi là trợ tá không thể thiếu, do đó Hitler ra sắc lệnh cho phép
Dohnanyi khỏi phải “chịu bất cứ một thiệt thòi nào vì gốc gác chủng tộc của
mình.” Để đảm bảo an toàn thêm cho Dohnanyi, Gürtner đã bổ nhiệm ông làm thẩm
phán tại toà án tối cao Đức, đưa ông ra khỏi sự giám sát trực tiếp của Gestapo.
Sự tin tưởng của các đảng
viên Quốc xã đối với Dohnanyi được đặt không đúng chỗ. Ngay từ năm 1934, ông đã
bắt đầu tích cực chống phá nhà nước Quốc xã: ngấm ngầm giúp đỡ những người Do
Thái mà ông quen biết hoặc chính họ tìm đến ông, đồng thời dùng khả năng tiếp
cận của mình để thu thập và sắp xếp những hồ sơ đồ sộ về tội ác của chế độ. Năm
1939, Đô đốc Wilhelm Canaris, chỉ huy trưởng cơ quan Abwehr, cánh tay phản gián
của quân đội Đức, đã tuyển Dohnanyi vào làm việc trong tổ chức của ông. Dưới sự
chỉ huy của Canaris, một quan chức cũng chống đối Hitler ngấm ngầm, Dohnanyi có
điều kiện tiếp tục giúp đỡ người Do Thái, trong vài trường hợp đã tác động để
thuyên chuyển họ từ một trại tập trung đặc biệt nguy hiểm đến một trại ít nguy
hiểm hơn. Dohnanyi còn dùng địa vị mới của mình để giúp nối kết các phần tử
chống đối khác nhau trong hàng ngũ sĩ quan Đức.
Đồng thời, Dohnanyi thường
tìm sự cố vấn tâm linh của người em rể Bonhoeffer; việc Dohnanyi tiếp tục phục
vụ cho một chế độ đầy tội ác, dù đó chỉ là một bình phong, cũng làm ông bất ổn
tâm lý sâu sắc. Nhưng khoảng năm 1939, cả hai anh em đã gặp nhau trên một quan
điểm: thay vì sống trung thực với tín lý của mình và công khai bày tỏ sự bất
bình đối với các chính sách của chế độ, người ta nên bám lấy một chức quyền khả
dĩ uy tín nhất trong chế độ Quốc xã để phá hoại nó từ bên trong.
Về phần mình, Bonhoeffer cũng
lâm vào một tình trạng nan giải. Năm 1940, ông có khả năng bị bắt nhập ngũ, và
ông hết sức bất an với ý tưởng phải phục vụ cho tập đoàn tội phạm Quốc xã trong
bộ quân phục của mình. Nhưng ông coi việc chống đối chiến tranh vì lý do lương
tâm [conscientious objection] là một hành vi tự sát, vì những người từ chối
nhập ngũ thường bị xử tử. Sau khi đơn xin làm tuyên úy quân đội của Bonhoeffer
bị bác bỏ, Dohnanyi và các cộng sự của ông đã tìm cách cho Bohoeffer được hoãn
quân dịch bằng cách tuyển dụng ông làm liên lạc viên dân sự cho lực lượng phản
gián Abwehr. Bonhoeffer về sau đã trở thành một thành viên chính thức của một
tổ chức bí mật chống Quốc xã tích cực trong hàng ngũ Abwehr. Thành viên của âm
mưu này gồm cả Đô đốc Canaris; Tướng Hans Oster, chỉ huy phó của tổ chức phản
gián Abwehr; Ludwig Beck, cựu Tổng Tham mưu trưởng quân đội Đức, và Helmuth
James von Moltke, một sĩ quan Abwehr khác và là một hậu duệ của thống chế lừng
danh Helmuth von Moltke dưới thời Bismark — tất cả đều kinh tởm việc Hitler đàn
áp người Do Thái. Nhưng cũng như Bonhoefer và Dohnanyi, họ quả quyết rằng những
cơ may tốt nhất để chặn đứng Hitler nằm ở vị trí cận kề nhất với những kẻ điều
khiển quyền lực quốc gia, việc này đòi hỏi một sự đồng lõa bất đắc dĩ với chế độ.
Có lẽ âm mưu có ý nghĩa nhất
mà Bonhoeffer và Dohnanyi đã thai nghén trong thời gian làm nhân viên của cơ
quan phản gián Abwehr là nỗ lực tranh thủ hậu thuẫn của Vương quốc Anh cho một
cuộc đảo chánh. Tháng Năm 1942, Bonhoeffer nhận được tin George Bell, Giám mục
địa phận Chichester và là một nghị sĩ của
Thượng viện Anh, đang thăm viếng Thụy Điển. Bonhoeffer có quen biết Bell và vì thế đã bay qua Stockholm để gặp ông ta. Ông cho vị Giám mục
này hay rằng một nhóm âm mưu có thanh thế tại Đức sẵn sàng lật đổ chế độ Quốc
xã. Và Bonhoeffer đã yêu cầu chính phủ Anh không nên coi thường cuộc đảo chánh
có tiềm năng xảy ra này và tránh khai thác lợi thế quân sự từ bất cứ một bất ổn
nào có thể xảy ra ở Đức trong trường hợp cuộc đảo chánh thành công.
Căn cứ trên hậu thuẫn bền bỉ
của dân chúng Đức dành cho Hitler, Bonhoeffer và Dohnanyi cũng thừa hiểu những
nguy hiểm mà hành động phản kháng sẽ mang đến cho bản thân mình và gia đình
mình. Như Sifton và Stern nhận xét, những người này đã “hi sinh mọi điều tốt
đẹp trong lãnh vực đời tư để chống lại cái ác trong lãnh vực công.”
Chính trong tinh thần này mà
năm 1942 Dohnanyi đã tổ chức đưa lậu 14 người Do Thái từ Berlin sang Thụy Sĩ,
ngụy trang họ như những nhân viên tình báo Đức, việc này cho phép cả nhóm đi
qua biên giới với sự chấp thuận của Heinrich Himmler, trùm SS Đức. Nhưng đây là
một nước cờ rốt cuộc đã đưa Dohnanyi đến tai họa: tháng Tư 1943, chính quyền
Quốc xã đã bắt giữ Dohnanyi và Bonhoeffer với những cáo buộc về các vi phạm
luật tiền tệ liên quan đến việc tài trợ cho điệp vụ Thụy Sĩ nói trên.
Trong phần cuối của cuốn
sách, Sifton và Stern mô tả thời gian tù kéo dài gần hai năm của hai người, ghi
nhận việc họ không chịu khai ra bất cứ một cộng sự nào. Các tác giả mô tả việc
Bonhoeffer và Dohnanyi, khi đối diện với những cuộc thẩm vấn gắt gao, đã dựa
vào trình độ pháp lý và biện chứng thâm hậu của mình trong một hành vi phản
kháng cuối cùng, nhằm bác bỏ những cáo buộc, đe dọa, và cả những lời nhục mạ
của Gestapo. Cả hai bị treo cổ tháng Tư 1945 — chỉ vài tuần trước khi Hồng Quân
chiếm Berlin .
CÁC CUỘC MƯU SÁT NHẮM VÀO
HITLER
Chắc chắn là, không phải tất
cả mọi người kháng chiến Đức đều coi việc Quốc xã bách hại người Do Thái là
động cơ thúc đẩy chính. Những tội ác khác của Quốc xã cũng ghê gớm không kém:
đấy là việc đình chỉ bản hiến pháp dân chủ của Đức, việc hủy bỏ các quyền dân
sự, việc hi sinh bừa bãi hàng triệu binh lính, việc tàn sát tập thể tù binh Xô
viết. Trong suốt cuộc chiến tranh, Henning von Tresckow, một sĩ quan cao cấp,
đã lên kế hoạch và âm mưu thực hiện nhiều cuộc đảo chánh, chủ yếu là những nỗ
lực ám sát Hitler. Không một vụ nào thành công, và sau vụ mưu sát bất thành
trong “Chiến dịch Valkyrie” tháng Bảy 1944, Tresckow tự tử. Nhưng một năm trước
khi chết, Tresckow đã thổ lộ với người bí thư tin cẩn của mình rằng chính việc
tàn sát tập thể người Do Thái đã thúc đẩy ông và những người đồng mưu tìm cách
giết Hitler.
Claus von Stauffenberg, viên
đại tá đặt bom với ý định giết Hitler trong âm mưu Valkerie, cũng khai việc tàn
sát Do Thái là động lực chính đã thúc đẩy ông hành động. Vào tháng Tư 1942, khi
nói chuyện với một sĩ quan tham mưu tại Bộ Tư lệnh tối cao, Stauffenberg đã bày
tỏ phẫn nộ trước sự đối xử thô bạo với thường dân trên đất Nga do Đức chiếm
đóng, với việc tàn sát tập thể người Do Thái, và việc bỏ đói tù binh Xô viết.
Vào tháng Năm, khi nhận được báo cáo của các nhân chứng về việc nhân viên SS đã
tập trung người Do Thái tại một thị xã của Ukraine, bắt họ tự đào huyệt, rồi xả
súng bắn vào họ, Stauffenberg hạ quyết tâm là Hitler cần phải bị trừ khử.
“Chúng đang bắn giết hàng loạt người Do Thái,” ông nói với một sĩ quan khác sau
đó. “Những tội ác này không được phép tiếp diễn.”
Tresckow và Stauffenberg
không phải là những nhân vật đơn độc bênh vực người Do Thái: hồ sơ Gestapo còn
sót lại trích dẫn từng trường hợp của 15 cá nhân, trong số hàng chục người phản
kháng tìm cách giết Hitler vào tháng Bảy 1944, đã khai với nhân viên thẩm vấn
rằng họ chống lại chế độ Quốc xã vì chế độ này đã bách hại người Do Thái. Sau
hàng tháng liên tục thẩm vấn và tra tấn những kẻ đồng mưu với họ, Gestapo kết
luận rằng toàn bộ sự bất mãn bên trong đối với ý thức hệ Quốc xã — đặc trưng
của những người thuộc giới âm mưu phản động – phơi bày rõ nét nhất trong lập
trường của họ đối với Vấn đề Do Thái… Họ ngoan cố giữ lấy lập trường phóng
khoáng về việc phải ban bố trên nguyên tắc cho người Do Thái một địa vị giống
hệt đã dành cho mọi người Đức.
Tại sao các âm mưu ám sát Hitler
từ năm 1938 đến 1944 luôn luôn thất bại? Một lý do chủ yếu là, Quốc xã không hề
nương tay trong việc đàn áp bất đồng chính kiến bên trong nước Đức. Giữa những
năm 1933 và 1945, các lực lượng Quốc xã, sử dụng các thủ tục được nhà nước cho
phép, đã hành quyết khoảng 77.000 người Đức về các tội chính trị và thủ tiêu vô
số đối lập trong nước tại các trại tập trung bất chấp mọi thủ tục pháp lý. Các
toà án quân sự Đức hành quyết khoảng 25.000 binh sĩ Đức. (Trong khi đó, các toà
án quân sự Đồng minh có liên quan đến Thế chiến II tuyên án chưa đến 300 vụ tử
hình.) Bọn chỉ điểm Gestapo thường xuyên cản trở các âm mưu thành lập liên minh
của những người chống đối. Đài phát thanh nằm trong đặc quyền kiểm soát của
chính phủ; những người chống đối chỉ còn một cách là sao chép và rải truyền đơn
bằng tay, một phương pháp thiếu hiệu quả, dễ bị cảnh sát phát hiện và ngăn chặn.
Nếu nội cái việc tán phát các
truyền đơn chống Quốc xã đã là thậm khó, thì việc lên kế hoạch ám sát Hitler
thật không đơn giản chút nào. Tuy vậy, một số âm mưu đã đến chỗ sắp thành công,
và hầu hết đã gặp trở ngại chỉ vì rủi ro, những trục trặc kỹ thuật, hay những
thay đổi ngoài dự kiến trong lịch trình của Hitler. Âm mưu Valkyrie, mà mục
đích chủ yếu là cho nổ một trái bom đựng trong cặp tài liệu, không phải là một
trường hợp ngoại lệ. Đại tá Stauffenberg, người chỉ còn một mắt và ba ngón tay
trên một bàn tay sau thời gian phục vụ tại Tunisia , là nhân vật then chốt đã
bố trí vụ mưu sát này. Vào sáng ngày 20 tháng Bảy, ông đến Tổng hành dinh Hang
Sói của Hitler, trên mặt trận miền đông, và sắp sửa châm ngòi hai gói thuốc nổ
1000 gram — một tiến trình bị làm gián đoạn bởi một viên sĩ quan cần vụ; người
này đến yêu cầu Stauffenberg phải khẩn trương đến tham dự một cuộc họp giữa
trưa với Hitler vốn đã bắt đầu. Với nguy cơ bị phát hiện trước mắt,
Stauffenburg cắt ngắn thủ tục châm ngòi và chạy đến phòng họp với chỉ nửa phần
của lượng thuốc nổ mà ông dự trù sử dụng. Quả bom phát nổ, và Hitler lẽ ra có
thể đã bị giết chết nếu cặp hồ sơ của Stauffenberg được đặt – hay vẫn còn ở vị
trí — đủ gần Hitler. Nhưng Stauffenberg đã rời khỏi phòng họp (để lại cặp hồ
sơ) để bay về Berlin ,
nơi ông là người chủ mưu duy nhất có đủ quyết tâm và khả năng để điều hành giai
đoạn kế tiếp của cuộc đảo chánh theo kế hoạch.
Điều này cho thấy một sự thật
kinh khủng là, tại Berlin
ngoài Stauffenberg ra, không còn ai đáng tin cậy để xúc tiến công việc tiếp
theo sau vụ mưu sát. Tresckow thì đang chiến đấu trên mặt trận miền đông, còn
Bonhoeffer và Dohnnayi thì đã bị Quốc xã bắt giam. Do đó, Stauffenberg đã đảm
nhận một vai trò kép không thể nào thực hiện được – cùng một lúc điều hành hai
bộ phận của một âm mưu đảo chánh tại hai nơi cách nhau đến 350 dặm [miles].
Việc ông là người duy nhất có quyết tâm và can đảm để kinh qua toàn bộ nỗ lực
này là nguyên nhân sâu sắc và bi đát hơn cả đã dẫn đến sự thất bại của âm mưu
này.
Trong những tuần lễ trước khi
bị hành quyết, Dohnnayi đã đưa ra một gỉải thích tương tự về sự thiếu thành
công của những người chống đối: “Sự trì độn và hèn nhát của những người có tài
sản và có ảnh hưởng, và sự ngu đần của hầu hết tầng lớp sĩ quan đã làm thất bại
mọi nỗ lực phản kháng.” Cách suy nghĩ này, dĩ nhiên, là điệp khúc thông thường
của những người Đức phản kháng khi họ than trách về tình trạng yếu kém của phong
trào. “Kể từ khi Đức chiếm đóng Ba Lan, ba trăm ngàn người Do Thái trên lãnh
thổ này đã bị tàn sát một cách dã man nhất,” theo một tờ rơi được phát tán năm
1942 bởi Hoa Hồng Trắng, một nhóm sinh viên phản kháng tại Đại học Munich.
“Nhân dân Đức một lần nữa đang ngủ một giấc u mê, cho phép những tên tội phạm
phát-xít này có đủ táo tợn và cơ hội để tiếp tục hận thù – và chúng đang gieo
rắc hận thù… Mọi người đều phạm tội, phạm tội, phạm tội!” (Những lãnh đạo của
nhóm này, Hans Scholl và em gái là Sophie Scholl, bị chặt đầu một năm sau đó.)
Sifton và Stern kết thúc tác
phẩm của mình bằng cách đề cập đến việc thậm chí sau khi Quốc xã bị đánh bại,
hai gia đình Bonhoeffer và Dohnanyi vẫn còn bị bôi bác một cách công khai và
chính thức vì là thân nhân của những tên phản quốc. Tại Đức ngày nay, dĩ nhiên,
hai nhân vật phản kháng này đã được chính thức vinh danh. Nhưng sở dĩ các
truyện kể về những người Đức, nam cũng như nữ, thực tâm chống đối chế độ Quốc
xã, vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, một phần cũng chỉ vì những câu chuyện này
sẽ làm ô nhục những người không chịu chống đối, hoặc vì quá lo lắng về sự sống
còn của bản thân, hoặc thiếu cơ hội, thiếu bản lãnh, hoặc vì đã tích cực hậu
thuẫn chế độ Quốc xã. Vì thế, Sifton và Stern đã có một cống hiến quan trọng
là, khám phá cuộc đời của hai nhân vật đã chọn một con đường mà, theo quan niệm
của Dohnanyi, “một người tử tế tất yếu phải đi.”
PH
____________
> - PETER HOFFMANN là Giáo sư Sử
học tại McGill University và là tác giả cuốn sách vừa
xuất bản gần đây, nhan đề Carl Goerdeler and the Jewish question, 1923-1942
(Carl Goerdeler và Vấn đề Do Thái, 1933-1942).
No Ordinary Man: Dietrich
Bonhoeffer and Hans von Dohnanyi, Resisters Against Hitler in Church and State(Những
con người không tầm thường: Dietrich Bonhoeffer và Hans von Dohnanyi, Những
người chống Hitler ngay trong Giáo hội và Nhà nước) của ELIZABETH SIFTON và
FRITZ STERN. New York Review Books, 2013, 157 trang, giá 19.95 USD
Nguồn: Foreign
Affairs, July/August 2014. Nhan đề bài viết của pro&contra.
Bản tiếng Việt © 2014 Trần
Ngọc Cư & pro&contra
(BVN)
-----------------
Nghị viện châu Âu đã xếp chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản là cùng một giuộc. Nó giống nhau ở chỗ diệt chủng và cách thức trấn áp những ai chống đối. Để che đậy, biện pháp của nó cũng rất giống nhau, đó là nói dối, tuyên truyền, tuyên truyền và tuyên truyền bất chấp sự thật. Ngày nay mà vẫn có nhiều người VN tin vào CNCS thì cũng thật lạ, chắc đây cũng chỉ là kết quả của tuyên truyền. Dân Việt không khá lên được cũng vì vậy.
Trả lờiXóaCó hai loại người ở VN vẫn "vững tin" vào CNCS:
Xóa1. Bị tâm thần nặng.
2. Mang mác CS để mà dễ dàng ăn cắp số tiền hoành tráng mà cảm thấy rất an toàn, không ai dám xử!
Người vn họ bị ngấm quá sâu vì C s tuyên truyên ,họ không được nghe Thông tin bên ngoài thế giới ,báo chí vn do đảng chỉ đạo và nói cái gì được nói,
Trả lờiXóaNgưoi dân chỉ biết so sánh cuộc sống bây giờ khá hơn trước ăn no mặc ấm
Con e không phải ra trận không bị đổ máu ,là hạnh phúc lắm rồi
Có nói có đấu tranh cái sai phạm của chính quyền C a bộ đội nó vào bắt bớ gép tội
Bỏ tù thậm trí dùng cả xã hội đen khủng bố bằng mọi cách,
Họ đều tặc lưỡi chịu thua lên đảng chính quyền nó càng lấn tới đàn áp
Thảo nào CS ghét trí thức và ngòi bút như những kẻ thù không đội trời chung
Trả lờiXóachỉ chục dòng đầu tiên làm thay đổi nhận thức và suy nghĩ một bộ phận không nhỏ
Đọc bài viết của TG PT Hoài tôi lại nhớ đến tiểu thuyết NAM TƯỚC PHON GO RINH VÀ NƯỚC CỜ THÍ MẠNG! Cái thành công một thời của CNPX cũng như của CNCS là tuyên truyền và dối trá...? đúng như bộ trưởng bộ tuyên truyền Gơn Ben từng nói ''sự thật là điều k có thật được nhắc lại nhiều lần?
Trả lờiXóaNGLUY