* GS. HOÀNG XUÂN PHÚ
Cuối tháng 3 năm 2013 dân cư
mạng bỗng xôn xao về việc Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), báo Nhân
dân (Cơ quan Trung ương của ĐCSVN), trang VOV Online (Đài Tiếng nói Việt Nam)
cùng nhiều báo chí và trang mạng "lề phải", như Tiền phong, Tuổi
trẻ, Văn nghệ Quân đội, Vietnamnet… đồng loạt viết"Hiếp pháp" thay
cho "Hiến pháp". Trước đó, ngày 22 tháng 11 năm 2011, Văn phòng
Chính phủ cũng gửi công văn số 8298/VPCP-PL "V/v thông báo ý kiến của
Phó Thủ tướng về cuộc họp trực tuyến tổng kết Hiếp pháp". Trong
hoàn cảnh Nhân dân bị áp đặt một bản Hiến pháp trái với nguyện vọng và có hại
cho phía dân, lại tạo điều kiện dễ dãi cho bộ máy thống trị, thì cách chơi chữ
này quả là ý nhị và thâm thúy.
Trên bàn phím thông thường,
hai phím "N" và "P" nằm cách xa nhau,
vì vậy khó mà vô tình gõ nhầm. Chẳng hiểu nguyên do thực sự là gì, nhưng việc
họ thay chữ cái "N" bằng "P" gợi ra
cách làm ngược lại, là thay "P" bằng "N" nhằm
tạo ra từ "Hiến… nháp", để gọi tắt bản Hiến pháp đã
được Quốc hội khóa XIII long trọng thông qua vào ngày 28/11/2013, khi chất
lượng của nó mới đạt tầm bảnnháp.
Hai bài "Hiến
pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?" và "Hiến
pháp vi hiến" đã góp phần làm sáng tỏ nhận định "… mới
đạt tầm bản nháp". Bài này bổ sung thêm một số chứng cứ. Hy vọng
chúng sẽ có ích, giúp các đại biểu Quốc hội hiểu rõ hơn cái sản phẩm mà họ đã
nhất trí chọn làm Hiến pháp, và cũng giúp các cử tri hiểu rõ hơn năng lực của
những người mà họ đã bầu làm đại biểu cho mình.
Một ngày không xa, chắc chắn
Hiến pháp sẽ được sửa chữa lần nữa, hoặc được viết lại từ đầu. Hy vọng những
người sẽ tham gia vào công việc trọng đại ấy đọc kỹ mấy bài viết này, để rút
kinh nghiệm mà khắc phục một số chứng bệnh kinh niên, thường mắc phải trong các
Hiến pháp của chế độ đương thời.
Để dễ theo dõi, bài này được
cấu trúc theo kiểu phân loại "chứng bệnh" mắc phải. Đó là
các chứng "tất định" (phần 1), "lắm lời" (phần
2), "ít chữ" (phần 3),"tuyên giáo" (phần 4), "lan
man" (phần 5), "đại ngôn" (phần 6), "bất
chấp"(phần 7), và "vu vơ" (phần 8).
Bài này khá dài. Chẳng phải
vì người viết quá tham lam, ôm đồm, không biết chọn lọc, mà do tâm lý "dọn
vườn": Đã phải xắn tay lên dọn cỏ, thì chẳng nỡ dừng tay khi mảnh
vườn vẫn còn um tùm cỏ dại. Dù đã cố gắng chọn cách trình bày, nhưng bài
viết không tránh khỏi rời rạc, khô khan, vì phải đề cập đến nhiều nội dung tẻ
nhạt. Mong bạn đọc dành thời gian và kiên trì đọc đến cuối, đặc biệt là những
người quan tâm, muốn hiểu rõ hơn thực trạng của bản Hiến pháp đang chi phối
cuộc sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam.
1. Chứng "Tất
định"
Trên đỉnh cao quyền lực, các
nhà độc tài dễ mắc chứng "tứ tưởng": Tưởngquyền lực của
mình vô biên, bao trùm thiên hạ, và tưởng dân chúng thuộc quyền sở
hữu của họ, nên luôn phải ngoan ngoãn, tuân thủ vô điều kiện mọi mệnh lệnh mà
họ ban ra. Tưởng trí tuệ của mình cao ngất trời, và tưởng hiểu
biết của dân chúng chỉ thấp lè tè ngọn cỏ. Do đó, làm người thế nào, sử
dụng quyền con người ra sao, thì muôn dân đều phải đợi nhà cầm quyền cho phép
và hướng dẫn thực hiện. Cũng vì vậy nên nhiễm phải chứng "tất định",
nghiện đemtất cả mọi thứ ra để quy định hay định nghĩa,
rồi coi đó là chuẩn mực, khuôn phép, và áp đặt lên toàn dân. Buồn thay, chuẩn
mực mà thường phi lý, cứ sai hoài sai mãi…
1.1.
Một biểu hiện của chứng
hoang tưởng quyền lực, coi thường người dân, là không chịu thừa nhận quyền con
người thuộc phạm trù đương nhiên, như sự tồn tại của con người, mà coi
quyền con người là thứ do thế lực cầm quyền ban cho dân chúng. Ban cho bao
nhiêu thì dân chúng chỉ được hưởng bấy nhiêu, không được đòi hỏi hay thắc mắc.
Có điều, giữa thời buổi nhãn hiệu "nhà nước pháp quyền"đã trở
thành mốt, thì sự ban phát tùy ý được hợp pháp hóa thông qua thủ thuật hiến
định.
Trong các Hiến pháp của chế
độ này, từ "quyền con người" xuất hiện lần đầu tiên và chỉ
đúng một lần tại Hiến
pháp 1992, nhưng không phải để thừa nhận, mà để phủ định:
Nghĩa là "các quyền
con người" không được thừa nhận như giá trị phổ cập, màchỉ được "thể
hiện ở các quyền công dân", và chúng cũng chỉ "được quy
định trong Hiến pháp và luật".
Sang Hiến
pháp 2013, từ "quyền con người" xuất hiện 9 lần, không
còn bị đồng nghĩa mà được song hành với "quyền công dân", nhưng
cả hai đều không thoát nổi số phận chỉ "được công nhận… theo
Hiến pháp và pháp luật":
Vậy là cả những quyền con
người hiển nhiên cũng không được thừa nhận, nếu không vượt qua "cửa
ải hiến định". Điều đó cho thấy chứng "tất định" giống
như một thứ bệnh ung thư đã di căn, tác động xấu tới cuộc sống của mọi người
dân.
1.2.
Một căn nguyên khác của chứng "tất
định" là bệnh ấu trĩ nghề nghiệp trong lĩnh vực lập hiến và
lập pháp. Ấy là tưởng rằng quy định càng kỹ, càng cụ thể thì càng
chặt chẽ, càng ít bị lợi dụng. Nhưng cuộc sống quá bao la, đến mức không một
tấm lưới pháp lý nào có thể bao trùm hết mọi hoàn cảnh thực tế, nên càng cố
căng ra để phủ thì càng sơ hở, rồi kéo căng quá thì rách cả lưới. Khi sa
đà vào cụ thể, thì cũng đánh mất tính tổng quát, nên có thể trở nên sai hoặc để
sót nhiều trường hợp, và đôi khi còn dễ bị lợi dụng hơn. Chẳng hạn, Điều
153 Bộ luật hình sự số 15/1999/AH10 quy định về "Tội buôn
lậu", nhưng chỉ đề cập đến hành vi "buôn bán trái phép qua
biên giới". Khi đã viết cụ thể "qua biên giới", thì không
thể coi "buôn bán trái phép" trong nội địa Việt Nam là phạm "tội
buôn lậu"(theo Điều 153) nữa. Vậy thì cứ việc "buôn bán trái
phép", nhưng tránh vượt"qua biên giới" là thoát được tội
này, mặc dù buôn
bán hàng cấm hoặc hàng trốn thuế (kể cả trong nội địa) thường được coi là "buôn
lậu".
1.3.
Khi đã nghiện quy định,
nghiện định nghĩa, cố định nghĩa cả những thứ không cần định nghĩa, hay không
thể định nghĩa chính xác, thì khó tránh khỏi những kết quả ngây ngô. Ví dụ đơn
giản là Khoản 1 Điều
13 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
"Quốc kỳ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba
chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh."
Có thể rút ra điều gì từ đây?
Khi đã viết cụ thể là "hình chữ nhật", "chiều rộng
bằng hai phần ba chiều dài", và "ở giữa có ngôi sao", thì
có nghĩa các nhà lập hiến rất chú trọng chi tiết và tính chính xác, đặc biệt là
coi trọng hình dáng, tỷ lệ kích thước và vị trí của ngôi
sao. Do đó, khi đã quy định tỉ mỉ như thế, thì tỷ lệ nào không được nhắc tới có
thể coi là không quan trọng và có thể chọn tùy ý. Chẳng hạn, nếu "hình
chữ nhật" (với "chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài")
to bằng mặt bàn và "ở giữa có ngôi sao"… nhỏ xíu như con ruồi,
thì vẫn phù hợp với mọi tiêu chuẩn được quy định chi tiết trong Hiến pháp.
Nhưng có thể coi cái thứ hợp hiến ấy là Quốc kỳ của nước CHXHCN Việt Nam hay
không? Cũng theo tiêu chuẩn hình dáng, tỷ lệ kích thước và vị
trí của ngôi sao đã được hiến định, thử hỏi có thể chấp nhận các biến
tướng của Quốc kỳ như trong Ảnh 1, Ảnh 2 và Ảnh 3 hay
không? Có cần phải xử lý các tổ chức và cá nhân đã vi phạm Hiến pháp thông qua
hành vi xuyên tạc Quốc kỳ hay không?
|
Ảnh 1: Quốc kỳ hình
chữ nhật, nhưng tỷ lệ kích thước sai, với ngôi sao bị búa liềm chèn dạt sang
một phía (Nguồn: Internet)
|
|
Ảnh 2: Quốc kỳ hình…
thang lõm một cạnh, với ngôi sao theo búa liềm phiêu bạt lên trên (Nguồn:
Internet)
|
|
Ảnh 3: Quốc kỳ hình…
méo – Không phải do gió bay, vì ngôi sao vẫn ngay ngắn, không bị méo theo nền
cờ (Nguồn: Internet)
|
1.4.
Khoản 2 Điều
13 Hiến pháp 2013 viết như sau:
"Quốc huy nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng
năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ ‘Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’."
Tức Quốc huy phải là "hình
tròn", nghĩa là hình phẳng, được giới hạn bởi một đường biên có
khoảng cách không đổi (được gọi là bán kính) so với một điểm cố
định (được gọi là tâm). Xin hỏi: Trong hai hình ở Ảnh 4 và Ảnh
5, cái nào giống"hình tròn" hơn? Trong số những người đã học
xong chương trình giáo dục tiểu học (được hiến định "là bắt
buộc" tại Điều
61 Hiến pháp 2013), ai dám nói rằng cái hình chỗ lồi chỗ lõm trong Ảnh
5 là "hình tròn"? Ấy vậy mà Hiến pháp lại gọi nó là "hình
tròn", và 486
đại biểu Quốc hội đã bấm nút "tán thành", chỉ có 2 người bỏ
phiếu trắng, không có ai phản đối.
|
|
Ảnh 4: Quốc huy hình
tròn?
|
Vốn dĩ, Hiến
pháp 1946 không hề hiến định Quốc kỳ và Quốc huy. Hiến
pháp 1959 bắt đầu hiến định chúng, đã quy định "Quốc huy…
hình tròn", nhưng không đề cập đến hình dáng và tỷ lệ kích thước của Quốc
kỳ, mà chỉ viết "ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh". Hiến
pháp 1980 bổ sung thêm quy định "Quốc kỳ… hình chữ nhật,
chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài". Sau đó, nội dung hiến định "Quốc
kỳ… hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài… ở giữa có ngôi
sao" và "Quốc huy… hình tròn" được tiếp tục duy
trì trong Hiến
pháp 1992và Hiến
pháp 2013. Như vậy, suốt hơn nửa thế kỷ, cả 13 khóa Quốc hội đều
"kiên định lập trường" cho rằng Quốc huy như trong Ảnh 5 là
"hình tròn".
Nội dung đơn giản như vậy mà
còn hiến định sai, thì sao có thể hiến định đúng những vấn đề phức tạp? Lỗi sơ
đẳng, hiển nhiên như vậy mà còn không nhận ra, thì sao có thể phát hiện nổi
những sai sót không tầm thường trong Hiến pháp?
Hiến
pháp Mỹ không đề cập đến Quốc
kỳ và Quốc
huy. Hiến
pháp Đức cũng không nhắc đến Quốc
huy, và chỉ viết gỏn gọn về Quốc
kỳ như sau: "Cờ
Liên bang là Đen-Đỏ-Vàng." (Nghĩa là chỉ nhắc đến bộ
màu Đen-Đỏ-Vàng, thường được dùng làm tên để gọi Quốc kỳ CHLB Đức, chứ
không đưa ra quy
định mang tính định nghĩa về Quốc kỳ.) Thế nhưng sự "thiếu
vắng" ấy không hề cản trở hai quốc gia đó phát triển, trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến Việt Nam phải làm khác
đi, cố hiến định một cách chi tiết về Quốc kỳ và Quốc huy, để rồi lại tạo ra
sản phẩm ngây ngô như vậy?
1.5.
Điều
17 Hiến pháp 2013 định nghĩa:
"Công dân nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam."
Ấy là tiếp tục duy trì truyền
thống hiến định tại Điều
53 Hiến pháp 1980 và Điều
49 Hiến pháp 1992. Với bản năng "tất định", đương nhiên đặt
ra câu hỏi: Vậy "người có quốc tịch Việt Nam" là ai? Khoản
1 Điều
5 Luật Quốc tịch Việt Nam (Số 24/2008/QH12) cho câu trả lời… ngược lại:
"Người có quốc tịch Việt
Nam là công dân Việt Nam."
Sử dụng quy tắc bắc cầu cho
cặp mệnh đề trên, ta thu được "chân lý":
"Công dân nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân Việt Nam."
Chỉ "luận
quẩn" những thứ hiển nhiên, để rồi tòi ra đặc sản "đèn
cù" như vậy, thì có nhất thiết phải viết vào Hiến pháp và luật hay
không?
2. Chứng "Lắm
lời"
Lời nói đầu của Hiến
pháp Mỹ chỉ vẻn vẹn 52 chữ và của Hiến
pháp Đức chỉ có 79 chữ. Còn ở Việt Nam, Lời nói đầu của Hiến
pháp 1959 dài 1276 chữ, của Hiến
pháp 1980 dài 1706 chữ và của Hiến
pháp 1992 dài 532 chữ. Nghĩa là dài, rất dài, nhưng càng dài thì càng…
sai, nên chưa đầy 70 năm đã phải trải qua 5 đời Hiến pháp. Có lẽ nhận thức được
phần nào hạn chế ấy, nên Lời nói đầu của Hiến
pháp 2013 đã được viết gọn hơn, chỉ còn 290 chữ. Tiến bộ ấy dễ nhận
thấy, song không có nghĩa là Hiến pháp đã khắc phục xong chứng "lắm
lời". Sau đây là mấy ví dụ về biểu hiện của hội chứng đó trong Hiến pháp
2013.
2.1.
"Công đoàn Việt Nam…
là… tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên" – Nội dung
này được hiến định đến hai lần. Lần thứ nhất tại Điều
9:
"Công đoàn Việt Nam,
Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính
trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình…"
Lần thứ hai sát ngay sau đó,
tại Điều
10, với từ "người lao động" thay cho từ"thành
viên":
"Công đoàn Việt Nam là
tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…"
2.2.
"Cơ quan… cán bộ, công
chức, viên chức phải… chống tham nhũng, lãng phí" – Cái này được quy
định tại Điều
8:
"Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận
tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền."
Không nhất thiết phải viết ở
đó như vậy, vì nội dung "Cơ quan… cá nhân phải… chống lãng phí… chống
tham nhũng" cũng xuất hiện trong Điều
56:
"Cơ quan, tổ chức, cá
nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng,chống
tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước."
Chẳng nhẽ phải đề cập hai
lần, vì Quốc hội cho rằng "các cơ quan nhà nước"không phải là "cơ
quan", và "cán bộ, công chức, viên chức" không phải là "cá
nhân", hay sao?
2.3.
Đặc biệt, chỉ trong nội bộ Điều
58 mà ý "Nhà nước, xã hội… bảo vệ, chăm sóc sức khỏe…" đã
được viết hai lần:
"1. Nhà nước, xã
hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân
dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ
cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
2. Nhà nước, xã hội và
gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực
hiện kế hoạch hóa gia đình."
Chẳng nhẽ phải viết hai lần
vì Quốc hội cho rằng "người mẹ, trẻ em" không thuộc vào "Nhân
dân"?
2.4.
Và đây nữa, cùng trong Điều
15, Khoản 2 đã quy định:
"Mọi người có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của người khác."
Vậy mà Khoản 4 còn viết:
"Việc thực hiện quyền
con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác."
Chẳng nhẽ, Quốc hội cho rằng,
mặc dù đã "tôn trọng quyền của người khác" theo Khoản 2,
nhưng vẫn có thể "xâm phạm quyền của người khác", nên phải
dùng Khoản 4 để quy định "không được xâm phạm quyền của người
khác", hay sao? (Xem Phụ lục I.)
Nếu cho rằng Khoản 4 Điều
15 là cần thiết, thì tại sao không bổ sung thêm vàoĐiều
4 Hiến pháp 2013 Khoản 4 với nội dung tương tự? Cụ thể như sau:
"Việc thực hiện quyền lãnh
đạo Nhà nước và xã hội không được xâm phạm lợi ích Quốc gia, Dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân."
Thậm chí, nên viết thêm rằng:
"Nghiêm cấm việc đặt lợi
ích của đảng lên trên lợi ích Dân tộc, vì quyền lợi của đảng mà hy sinh quyền
lợi Quốc gia."
Thực tế chỉ ra rằng: Hiến
định như vậy không thừa, mà còn hết sức cần thiết.
3. Chứng "Ít
chữ"
Phải chăng đã quen "lắm
lời" thì hiến định cái gì cũng kỹ lưỡng? Không, trái lại, khi đã tốn "lắm
lời" cho những chuyện không đâu, thì chỉ còn lại "ít chữ" cho
những điều cần thiết.
"Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định."
Vẻn vẹn 33 chữ cho 3 nhóm
quyền tự do quan trọng: Tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận thông tin; tự
do tụ họp và biểu tình; tự do lập hội.
Vốn dĩ, vào thuở sơ khai của
trình độ lập hiến, Hiến
pháp 1946 (Điều 10) chỉ dành 21 chữ cho 3 nhóm quyền này, dưới hình
thức "khoán trắng", nghĩa là không kèm theo bất kỳ cam kết hay
ràng buộc nào cả. Sau đó, Hiến
pháp 1959 (Điều 25) tăng lên thành 44 chữ, chủ yếu vì bổ sung thêm cam
kết:
"Nhà nước bảo đảm những
điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó."
Sang đời thứ ba, Hiến
pháp 1980 (Điều 67) sử dụng số chữ kỷ lục là 79, do bổ sung tiếp hai
ràng buộc
"… phù hợp với lợi ích
của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân"
và
"Không ai được lợi dụng
các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân."
Đến đời thứ tư, Hiến
pháp 1992 (Điều 69) rút xuống còn 31 chữ, trong đó bỏ hẳn cam kết "Nhà
nước bảo đảm bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng
các quyền đó", và thay điều kiện "phù hợp với lợi ích của chủ
nghĩa xã hội và của nhân dân" bằng ràng buộc "theo quy định
của pháp luật".
Việc hủy bỏ cam kết "Nhà
nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó",
vốn tồn tại trong Điều
67 Hiến pháp 1980 và Điều
25 Hiến pháp 1959, không chỉ đơn thuần là khước từ trách nhiệm của nhà cầm
quyền, mà còn thể hiện quyết tâm không cho "công dân sử dụng các
quyền đó". Chính vì mưu đồ vi hiến ấy, mà họ đã dựng lên trong Điều
69 Hiến pháp 1992rào cản "... theo quy định của pháp luật",
rồi cố tình trì hoãn, dứt khoát không chịu ban hành văn bản pháp luật quy định
việc thực hiện, để công dân không thể thực thi các quyền tự do. Sau khi nhận ra
rào cản ấy không đủ kín về mặt pháp lý, họ đã thay thế nó trong Điều
25 Hiến pháp 2013 bằng bức tường thành kiên cố hơn: "Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định". Tiếc thay, đi lạc nước cờ
lập hiến nên lâm vào ngõ cụt, như phân tích trong bài "Hiến
pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?".
Dân gian dùng từ "xin
đểu" để chỉ kiểu "giả vờ xin, nhưng thực chất là ngang
ngược ép buộc người khác phải cho". Phải chăng, tương tự như vậy, từ "cho
đểu"cũng phù hợp với kiểu "giả vờ cho, nhưng thực chất là ngang
ngược cản cấm người khác nhận"?
Cũng chính vì ý đồ không cho "công
dân sử dụng các quyền đó", nên mấy quyền tự do được hiến định một cách đơn
giản, mang tính chiếu lệ, và chỉ sử dụng ít chữ. Để hiểu hơn bản chất này, ta
hãy so sánh với hiến pháp của vài nước khác.
"Quốc hội sẽ không
ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín
ngưỡng, hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, hoặc quyền tự do báo chí,
hoặc quyền của người dân tụ họp (assemble) một cách hòa bình (peaceably)
và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình."
Như vậy, Hiến pháp Mỹ cũng
chỉ dùng ít chữ để hiến định các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự
do tụ họp. Không phải vì các nhà lập hiến Mỹ thiếu chữ, mà vì cho rằng không
cần thiết phải viết quá nhiều về những quyền được họ quan niệm là hiển
nhiên, hiển nhiên đến mức chỉ còn cần hiến định việc cấm Quốc hội ban hành
các đạo luật nhằm hạn chế các quyền đó. Mặc dù "hào phóng"như
vậy, nhưng quyền tụ họp không được "khoán trắng" như
trong Hiến pháp 1946 hay Hiến pháp 2013 của Việt Nam, mà bị Hiến pháp Mỹ hạn
chế trong khuôn khổ "tụ họp một cách hòa bình".
Đòi hỏi "tụ họp một
cách hòa bình" cũng xuất hiện cùng với điều kiện "không
mang theo vũ khí" trong Điều
8 Hiến pháp Đức, hiến định về quyền tự do tụ họp(bao gồm cả quyền biểu
tình):
"(1) Mọi người Đức đều
có quyền tụ họp một cách hòa bình và không mang theo vũ khí, mà
không cần phải trình báo hay được chuẩn y.
(2) Đối với các cuộc tụ họp
ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật."
Bên cạnh đó, Hiến pháp Đức
còn dành Điều
5 để quy định về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin và Điều
9 để quy định về quyền tự do lập hội (xem Phụ lục II).
Như vậy, để thể hiện nội dung của Điều
25 Hiến pháp 2013 (với 33 chữ) về 3 loại quyền tự do ngôn luận,
báo chí và tiếp cận thông tin; tự do tụ họp và biểu tình; tự do lập
hội, Hiến pháp Đức phải sử dụngĐiều
5, Điều
8 và Điều
9, với tổng cộng 215 chữ tiếng Đức và có thể dịch ra 294 chữ tiếng Việt,
nghĩa là nhiều gấp gần 9 lần so với Hiến pháp hiện hành của Việt Nam.
Đấy là chưa kể Điều
18 (quy định về việc tước bỏ quyền cơ bản nếu lợi dụng chúng để
chống lại trật tự dân chủ tự do) và Điều
19 (quy định về nguyên tắc ban hành luật hạn chế quyền cơ bản nếu
hiến pháp cho phép hạn chế).
Một ví dụ khác là điều hiến
định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Trong khiHiến
pháp Việt Nam 2013 (Điều 22) sử dụng 46 chữ cho mục đích này, thì Hiến
pháp Đức (Điều 13) sử dụng 334 chữ tiếng Đức, tương đương khoảng 450
chữ tiếng Việt, tức là nhiều gấp hơn 9 lần so với Hiến pháp 2013.
Hai ví dụ trên cho thấy Hiến
pháp 2013 dành rất ít chữ để hiến định quyền con người, quyền
công dân. Tại sao?
Phải chăng là để nhà cầm
quyền dễ hạn chế hay dễ phủ định các quyền đó?
Hay do không có ý định
chấp nhận chúng trên thực tế, nên cũng chẳng cần phảiphí chữ cho
chúng, đến mức bỏ qua cả cái ràng buộc đã trở thành kinh điển, là quyền tự
do hội họp, biểu tình gắn liền với điều kiện là chúng phải diễn ra "một
cách hòa bình"?
4. Chứng "Tuyên
giáo"
Chứng "lắm
lời" không chỉ thể hiện ở chỗ lặp đi lặp lại một số nội dung, mà cả ở
việc nhồi vào Hiến pháp những mệnh đề thuần túy "tuyên giáo". Cứ
như thể Hiến pháp là nơi để các tác giả thể hiện tài viết văn chính trị hay khả
năng thuyết giáo.
4.1.
Điều
4 Hiến pháp 2013 viết:
"Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời làđội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam…"
Vậy "đội tiên
phong" là gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp
luật? Thuật ngữ này chứa thuộc tính pháp lý nào, mà lại lạc vào Hiến pháp? Ngay
cả ý nghĩa đời thường của nó cũng đã bị mất tiêu sau khi chiến tranh kết thúc,
cái thuở "tiên phong" còn có nghĩa là đi đầu ra mặt
trận, gương mẫu xông pha nơi lửa đạn… Còn bây giờ, khi lý tưởng quan trường là leo
thật cao và kiếm thật nhiều tiền, với vũ khí là lợi dụng quyền lực, bất
chấp pháp luật, thì "tiên phong"trên "mặt trận thi
đua… tham nhũng", hay sao?
4.2.
Khoản 1 Điều
15 Hiến pháp 2013 viết:
"Quyền công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân."
Mệnh đề này hay được tua lại
trong các bài tuyên giáo. Nó có thể dùng để dạy con nít, giáo dục chúng đừng
chỉ nghĩ đến quyền lợi mà quên nghĩa vụ. Nhưng khi "bị lạc" vào
Hiến pháp, thì mệnh đề đó trở nên vô nghĩa. Nó hoàn toàn thừa, vì "trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ" của công dân đã được hiến định rõ ràng và
đầy đủ tại Khoản 3 của chính Điều
15:
"Công dân có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội."
Hơn nữa, trong khuôn khổ một
văn bản pháp lý, thì thuật ngữ "không tách rời"chỉ có thể hiểu
một cách "trần trụi" theo nghĩa đen, khiến câu văn
bóng bẩy ấy trở nên sai về nội dung. Đang ăn, đang ngủ, hay đang làm tình,
chẳng nhẽ cũng phải thực hiện đồng thời một "nghĩa vụ công
dân" nào đó, để thỏa mãn điều kiện"không tách rời", hay
sao? Đối với trẻ sơ sinh, người tàn tật nặng và cụ già nằm liệt giường, cần
được chăm sóc tuyệt đối, thì "quyền" được chăm sóc của họ"không
tách rời nghĩa vụ công dân" nào đây?
4.3.
Điều
45 Hiến pháp 2013 viết:
"Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa
vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân."
Hiện thân đích thực của "Tổ
quốc" ra sao, khi các bên xung đột đều nhân danh"Tổ quốc",
giống như thời đất nước còn chia đôi thành hai miền Nam, Bắc? Bao giờ thì phải hay được "bảo
vệ Tổ quốc", và "bảo vệ" như thế nào? Khi Tổ quốc bị
xâm lấn và đồng bào ngư dân bị ngoại bang bắt bớ, cướp bóc ngay trên vùng biển
quê hương, thì công dân có nghĩa vụ và có quyền "bảo
vệ" hay không? Tại sao nhà cầm quyền lại sử dụng "quyền cao
quý" để đàn áp những người biểu tình phản đối hành vi bành trướng của
ngoại bang, nhằm thực thi "nghĩa vụ thiêng liêng"? Ôi Tổ quốc,
chúng con phải bảo vệ Người thế nào đây, khi Tổ quốc của họ khác Tổ quốc của
chúng con?
Tại sao không viết gọn, rằng "Bảo
vệ Tổ quốc là nghĩa vụ và quyền của công dân", mà cố nhồi thêm vào đó hai
tính từ "thiêng liêng" và "cao quý" ? "Thiêng
liêng" và "cao quý" hay không là cảm nhận của mỗi
người. Tình cảm đó bị chi phối bởi hình hài mà Tổ quốc hiện ra trong con mắt
của từng số phận. Đối với thế lực núc ních nhờ tham nhũng, thì có lẽ Tổ quốc
giống như bò cái thả rông, không mất công nuôi vẫn ngày ngày cho sữa – Yêu
yêu quá đi thôi! Còn đối với dân oan lang thang trong vô vọng, thì có lẽ
Tổ quốc giống như người mẹ mải theo người tình mà bỏ rơi con cái – Sao mẹ
nỡ vô tình làm vậy? Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tình cảm đương
nhiên cũng khác nhau. Không thể đòi hỏingười bị đè đầu cưỡi cổ cũng phải
hưng phấn như kẻ đang đè, đang cưỡi. Đừng đòi những phận đời đang chới với
trong biển khổ phải dày vò thêm với câu hỏi"thiêng liêng": "Ta
đã làm gì cho Tổ quốc?" Hãy để lương tâm "cao quý" của
các đức ông, đức bà thường nhân danh Tổ quốc trả lời câu hỏi: "Tổ
quốc đã làm gì cho dân đen?" Và phía lập hiến hãy trả lời câu hỏi: Quốc
hội lấy đâu ra cái quyền và cái lý để hiến định cả tình cảm của công dân,
buộc mọi người phải coi đòi hỏi "bảo vệ Tổ quốc" theo kiểu nhà cầm
quyền ấn định là "thiêng liêng" và "cao quý"?
4.4.
Điều
68 Hiến pháp 2013 viết:
"Nhà nước phát huy tinh
thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân."
"Phát huy tinh thần yêu
nước" như thế nào? Tổ
chức khiêu vũ nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân bành trướng Trung Quốc tấn công
vào các tỉnh biên giới phía bắc, nhằm ngăn cản buổi lễ tưởng niệm hàng vạn đồng
bào và chiến sĩ đã ngã xuống, có phải là cách "Nhà nước phát huy
tinh thần yêu nước" hay không? "Chủ nghĩa anh hùng cách
mạng" là cái gì và được định nghĩa ở đâu trong hệ thống văn bản pháp
luật? Nó khác với "chủ nghĩa anh hùng" (chung chung) hay "chủ
nghĩa anh hùng không cách mạng" như thế nào? Cái "chủ
nghĩa anh hùng cách mạng" ấy có thực sự là "của Nhân
dân" hay không?
4.5.
Những mệnh đề "tuyên
giáo" trong Hiến pháp 2013, như mấy ví dụ kể trên, thường có chung
đặc điểm là mơ hồ về nội dung, rỗng và vô dụng về pháp lý, không cần
thiết và cũng không nên xuất hiện trong một bản hiến pháp đích thực.Đó là kết
quả của việc "tuyên giáo hóa" hệ thống giáo dục và đào tạo,
khiến một số người đã "tu đủ các lò" có thể "đắc
đạo" đến mức, dù đi đâu về đâu cũng không quên bản năng và trách
nhiệm thuyết giáo. Kể cả khi tham gia viết Hiến pháp (là văn bản pháp lý lẽ ra
chỉ chứa đựng những quy định cơ bản về quyền lợi và trách nhiệm của công dân,
về nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức tổ chức của bộ máy nhà nước, và biện pháp
kiểm soát nó), thì họ cũng không quên truyền giáo, và nhầm tưởng Hiến pháp cũng
là giảng đường để triển khai công tác "tuyên giáo".
5. Chứng "Lan
man"
Một đặc điểm phổ biến trong
các bài "tuyên giáo" là hay "lan man", nên ôm
đồm về nội dung và tùy tiện về ngôn ngữ. Đáng tiếc thay, khi các nhà "tuyên
giáo"nhúng tay vào Hiến pháp, thì nó cũng bị lây nhiễm căn bệnh ấy. Thành
thử, lẽ ra văn bản pháp luật phải được viết một cách mạch lạc, rõ ràng và chính
xác, thì Hiến pháp 2013 lại chứa nhiều câu "lan man" kiểu "con
cà con kê", và lắm lúc kết thúc trong vô nghĩa.
5.1.
"Lan man" đến
mức rơi vào thế quẩn, như trong Lời
nói đầu của Hiến pháp 2013:
"Nhân dân ta tiến
hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự
do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân."
Nếu "Nhân dân… đấu
tranh… vì hạnh phúc của Nhân dân", thì đó chỉ là chuyện thường tình, đấu
tranh vì hạnh phúc của bản thân thì có gì đáng nói? Hơn nữa,"Nhân
dân" đã "hy sinh… vì hạnh phúc của Nhân dân", thì còn
ai để hưởng "hạnh phúc" nữa đây? (Có lẽ các tác giả muốn
gắn từ "hy sinh" với chữ "đầy", để chỉ"cuộc
đấu tranh… đầy… hy sinh", nhưng với câu viết lan man như thế, người đọc
vẫn có quyền hiểu rằng "hy sinh" là động từ gắn trực tiếp
với chủ ngữ "Nhân dân".)
5.2.
"Lan man" đến
mức đọc "mệt nghỉ", như Khoản 3 Điều
5 Hiến pháp 2013:
"Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình."
Và nếu nghỉ giữa chừng, chưa
kịp đọc hai chữ "của mình" nấp ở tận cuối câu, thì có thể
thu được thông tin ngây ngô, chẳng hạn: "Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết…"
5.3.
"Lan man" đến
mức quên cả… chủ ngữ, như trong Khoản 2 Điều
35 Hiến pháp 2013:
"Người làm công ăn lương được
bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế
độ nghỉ ngơi."
Vâng, nếu không quên mất đang
viết về chủ ngữ "Người… ăn lương", thì tại sao lại bỏ công
hiến định rằng họ "được hưởng lương"? Hơn nữa, nếu "người
làm công..." không nghiễm nhiên "được hưởng lương, chế độ
nghỉ ngơi", nên vẫn phải đem cái thứ hiển nhiên ấy ra mà hiến định, thì
hóa ra đây là chế độ chiếm hữu nô lệ hay sao?
5.4.
"Lan man" đến
mức lạc hướng, khiến không chỉ người đọc bị nhầm, mà người viết cũng
bị lẫn, như trong Khoản 1 Điều
37 Hiến pháp 2013:
"Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em."
Ở đây, "trẻ
em" không còn là một từ đơn, có thể đứng riêng lẻ và được vận dụng
một cách độc lập, mà đã là một bộ phận cấu thành, không thể tách rời của từ
ghép "quyền trẻ em". Thành thử, "vi phạm quyền
trẻ em" thì có nghĩa, nhưng"hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm
dụng, bóc lột sức lao động… quyền trẻ em"thì hoàn toàn vô nghĩa.
5.5.
"Lan man" đến
mức "tắc ngôn", lâm vào "nghẽn ý", như trong
Khoản 1 Điều
37 Hiến pháp 2013:
"Trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào
các vấn đề về trẻ em."
"Trẻ em… được tham
gia vào các vấn đề về trẻ em" – Nghe mới… âm u làm sao. Với xu
hướng "phát triển dân chủ" này, liệu có ngày "thai
nhi được tham gia vào các vấn đề về thai nhi" hay không?
Hiến định như vậy thì trẻ em
được thêm cái gì? Và nếu không hiến định như vậy thì trẻ em bị mất đi cái gì?
Thực tế trả lời ngắn gọn là KHÔNG! Vậy thì hiến định để làm gì?
Cái cao kiến ấy xuất xứ từ
đâu? Có người giải thích rằng ý "trẻ em được tham gia vào các vấn đề
về trẻ em" được cóp từ "Công
ước về Quyền trẻ em". Nếu quả đó là giáo án, thì e rằng đã túm nhầm
phao (xem Phụ lục III).
5.6.
"Lan man" đến
mức sa đà vào ngạo mạn, đem cả những "gánh nặng không đâu"ra
để "ban phát", như trong Khoản 2 và Khoản 3 Điều
37 Hiến pháp 2013:
"2. Thanh niên được Nhà
nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển
thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi
đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc."
"3. Người cao tuổi
được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc vàphát huy vai trò
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."
"Thanh niên được…
đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc." Và "Người
cao tuổi được… phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc." Phải "được" Hiến pháp (tức là "được" nhà
cầm quyền) cho phép, thì "thanh niên" và "người
cao tuổi" mới "được" gánh vác cái của "trời
ơi"ấy hay sao?
5.7.
Vì sao Hiến pháp 2013 lại
phạm phải những lỗi như đã trình bày trong phần 5này? Không thể phủ nhận
được sự ôm đồm và hạn chế trình độ của những người liên quan. Nhưng có lẽ còn
một nguyên nhân khác là hiệu ứng "đẽo cày giữa đường". Mỗi
người, xuất phát từ vị trí, nhận thức và mối quan tâm của bản thân, đều cố đưa
vào Hiến pháp vài ý nào đó. Nhiều người tham gia thì phải dung nạp nhiều ý, có
thể không tương thích với nhau. Muốn người khác chấp nhận ý của mình, thì mình
cũng phải tôn trọng ý của người khác. Vả lại, khi mỗi người chỉ được phát biểu
trong một thời gian ngắn, đấu tranh để thực hiện và bảo vệ ý tưởng của mình
chưa chắc đã xong, còn đâu thời gian để bàn sang chuyện của người khác. Thêm
vào đó là sự bất lực cá nhân trước tập thể quá đông, cùng với sự lép vế trước "bề
trên". Và cả tâm lý "cha chung không ai khóc", cộng hưởng
với thói quen ỷ lại: "Dưới" thì nghĩ "đã có Trên
lo", còn "Trên" thì đinh ninh "đã có bọn Dưới
làm". Thành thử dễ sinh ra sản phẩm… hổ lốn.
6. Chứng "Đại
ngôn"
Một trong những điểm đặc
trưng của Hiến pháp Việt Nam là hay dùng những từ to tát, toàn mỹ, để chỉ những
điều phi thực tế, mà nhà cầm quyền chưa hay không bao giờ thực hiện được, hoặc
thậm chí cũng chẳng hề có ý định thực hiện.
Để khắc họa chứng "đại
ngôn" của Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần khảo sát sự vận dụng của từ "bảo
đảm", vốn dĩ chỉ xuất hiện khiêm tốn có 2 lần trong Hiến
pháp 1946, nhưng tăng lên 17 lần trong Hiến
pháp 1959, nhiều nhất là 35 lần trongHiến
pháp 1980, rồi lại giảm xuống còn 26 lần trong Hiến
pháp 1992.
Theo "Từ điển tiếng
Việt" của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1997), từ "bảo đảm"có
nghĩa là:
- Làm cho chắc chắn
thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.
- Nói chắc chắn và chịu
trách nhiệm về lời nói của mình để cho người khác yên lòng.
- Nhận chịu trách nhiệm làm
tốt.
Từ "bảo đảm" xuất
hiện 28 lần trong Hiến
pháp 2013. Đáng nói là, nhiều thứ được hiến định là "bảo
đảm" lại không hề được "bảo đảm", thậm chí còn bị
chính bộ máy chính quyền xâm phạm thô bạo.
6.1.
Điều
34 Hiến pháp 2013 viết:
"Công dân có quyền được bảo
đảm an sinh xã hội."
Đây chính là Điều 35 trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2/1/2013. Bài "Teo
dần quyền con người trong hiến pháp" đã phân tích và kết luận
rằng: "Quyền được bảo đảm an sinh xã hội"thuộc loại "quyền
hư quyền ảo", tức là "một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả
thi".
Theo Công ước số 102 của Tổ
chức Lao động Quốc tế (International
Labour Organization), thì 9 lĩnh vực chính của "an
sinh xã hội" (social
security) là: Chăm sóc về y tế, trợ cấp khi ốm đau, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền
tuất. Chẳng cần khảo sát xem chất lượng thực hiện đã đạt mức gọi là "được bảo
đảm" hay chưa, vì có thể khẳng định rằng: Không một thứ nào
trong số đó được triển khai ở Việt Nam trên quy mô toàn xã hội. Nếu
có phần nào đó được thực hiện, thì chỉ dừng lại ở bộ phận tương đối nhỏ, mang
tính "đặc ân", trước hết dành cho những người được coi là có
công với chế độ.
Đôi khi, một số hoạt động
mang tính từ thiện cũng được tổ chức cho đối tượng dân thường, nhưng không phải
chỉ vì tình thương bao la, mà còn nhằm trang trí cho chế độ. Theo
thông tin được đăng tải trên Báo Điện tử ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Từ năm 2011- 2013 nguồn lực dành
cho hộ nghèo tăng lên khoảng 120 nghìn tỷ đồng/năm. Chỉ riêng "nguồn
lực dành cho hộ nghèo" mà đã tương đương với 14,7% tổng
số thu cân đối ngân sách nhà nước (816 nghìn tỷ đồng cho năm 2013), thì
không phải là ít. Song tiêu chí đánh giá không thể dừng lại ở chỗ chi bao
nhiêu, mà phải là:Chi thế nào? Số tiền đó đi đâu? Có đến tay người nghèo hay
không?
Theo bài "Ai
giám sát tiền hỗ trợ giảm nghèo?" của Nguyên Khánh, đăng trên báoĐại
đoàn kết ngày 29/9/2013, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy
Đông đã thừa nhận rằng:
"Bộ máy quản lý các
chương trình, dự án giảm nghèo quá đồ sộ. Tỷ lệ chi cho hành chính, sự
nghiệp chiếm hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được… Thế nên mới có
chuyện tiếng là các nguồn hỗ trợ người nghèo lên tới gần 200 triệu/hộ/năm,
nhưng thực tế thì mỗi hộ nghèo chỉ tiếp cận được từ 10 - 15 triệu đồng/năm."
Qua đó, có thể hình dung ra
mục tiêu và hiệu quả của một số chính sách giúp đỡ người nghèo và phục vụ "an
sinh xã hội" (ví dụ như xây nhà ở xịn giữa đô thị đắt đỏ để bán cho
người nghèo).
Rõ ràng, những hoạt động kiểu
ấy không chỉ là lấy tiền ngân sách chi cho người nghèo, mà còn là
cách lấy tiền ngân sách nhân danh người nghèo. Kết quả là: Đã tiêu
tốn rất nhiều tiền, nhưng "an sinh xã hội" còn cách rất…
rất xa cái mức có thể coi là "bảo đảm".
Hãy lấy việc chăm sóc về
y tế làm ví dụ. 4-6 người bệnh phải chung nhau một giường, như được phản
ánh trong bài "Một
năm viện phí mới: Giường ghép, nỗi khổ chưa chấm dứt" của Lan Anh và
Quỳnh Liên, đăng trên báo Tuổi trẻ Online ngày 26/9/2013. Như thế có lẽ vẫn
còn may mắn hơn so với những "Bệnh
nhân ‘bò từ gầm giường’ ra đón Bộ trưởng Y tế", như được mô tả trên báo Người
đưa tin ngày 15/1/2013. (Xem thêm "Chùm
ảnh: Bệnh nhân ‘bò’ ra đón Bộ trưởng Y tế", với Ảnh 6 và Ảnh
7 được lấy từ đó.)
|
Ảnh 6: Bệnh nhân 'lóp
ngóp' dưới gầm giường (Nguồn: Người
đưa tin)
|
|
Ảnh 7: Bệnh nhân và
người nhà chen chúc (Nguồn: Người
đưa tin)
|
Nhẫn tâm thay,
"bất chấp hậu quả khôn
lường cho bệnh nhân, một phiếu xét nghiệm huyết học ở Bệnh viện Đa khoa Hoài
Đức (Hà Nội) được khoa Xét nghiệm “nhân bản” để dùng luôn cho 2-5 bệnh nhân…
1.000 kết quả xét nghiệm huyết học được dùng cho ít nhất 2.000 bệnh nhân
(trung bình một kết quả phiếu xét nghiệm được sử dụng cho 2-5 bệnh nhân)… Thí
dụ, một kết quả xét nghiệm huyết học vào hồi 9h3 phút ngày 19.2.2013 được
dùng cho 4 bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên - 70 tuổi, chẩn đoán lao phổi; Nguyễn
Trung Nghĩa - 27 tuổi, chẩn đoán áp-xe cạnh hậu môn; Lý Thị Vân - 61 tuổi, chẩn
đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp đang nằm ở khoa Hồi sức cấp cứu
và cháu Lương Kiều Trang - 12 tuổi, chẩn đoán viêm ruột thừa."
Bao chuyện tiêu cực xảy ra
hàng ngày, hàng giờ, ở khắp nơi, từ địa phương đến trung ương, nhiều không kể xiết…
Thêm vào đó là những vụ vô tình… làm chết người, như tiêm
nhầm thuốc gây co bóp tử cung khiến 3 trẻ sơ sinh tử vong tại Bệnh viện Đa khoa
Hướng Hóa… Thử hỏi, tình hình "chăm sóc về y tế" (lĩnh
vực số một của "an sinh xã hội") bi đát như vậy, thì có thể coi
là "được bảo đảm",tức là được "làm tốt" và "có
đầy đủ những gì cần thiết", hay không?
Muốn "bảo đảm an
sinh xã hội" thì phải có đủ tiền của, để chăm sóc chu đáo về y
tế cho mọi người; để trợ cấp đáng kể cho người ốm đau, người thất nghiệp, người
già, người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; để trợ cấp cho người tàn
tật… Và điều đó phải tiến hành trên quy mô toàn xã hội, dành cho cả những
người nghèo không có khả năng đóng các loại bảo hiểm. Mấy chục năm nữa, chưa
chắc xã hội Việt Nam mon men đến được cái đích ấy. Vậy thì tại sao bây giờ lại đại
ngôn mà viết vào Hiến pháp là "bảo đảm an sinh xã hội" cho
mọi công dân?
Bạn đừng tưởng đó là sơ hở
pháp lý, để rồi tận dụng mà kiện chính quyền. BởiĐiều
34 Hiến pháp 2013 đã được viết với kỹ năng chính trị cao cường, nên
đem lại dáng dấp oai phong, mà vẫn chẳng tạo ra gánh nặng nào cho Nhà nước. Nó
chỉ hiến định "công dân có quyền được được bảo đảm…", nhưng
không xác định"ai phải bảo đảm…", nên nhà cầm quyền vẫn có thể
lẩn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn, nếu công dân nào đó đòi được trợ cấp…, trong
khuôn khổ của cái gọi là"bảo đảm an sinh xã hội", thì có thể
nhận được câu trả lời theo kiểu "Trời sinh voi thì Trời phải sinh
cỏ", rằng ai sinh ra ngươi thì phải "bảo đảm" những
quyền lợi ấy cho ngươi. Như vậy, Nhà nước vừa được ca ngợi, vừa vẫn "vô
can".
6.2.
Khoản 3 Điều
55 Hiến pháp 2013 viết:
"Đơn vị tiền tệ quốc gia
là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc
gia."
"Bảo đảm ổn định giá trị
đồng tiền quốc gia" – Nghe thật tuyệt đối và to tát, nhưng vấn đề là: Nhà
nước có "ổn định" nổi không? Lấy cái gì để đo mức "ổn
định"?
Theo thông tin về tỷ giá ngoại
tệ trên website của Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), giá mua chuyển
khoản ngày 10/2/2009 là 17.483 Đồng/USD, 22.372 Đồng/EUR, và ngày 10/2/2014 là
21.080 Đồng/USD, 28.569 Đồng/EUR. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị tiền
Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 83% so với USD và chỉ còn 78% so với EUR.
Theo thông tin trên Sài Gòn
Giải phóng Online, giá mua vàng SJC ngày
10/2/2009 là 18.610.000 Đồng/lượng và ngày
10/2/2014 là 35.420.000 Đồng/lượng. Như vậy, trong vòng 5 năm, giá trị
tiền Đồng Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 53% so với vàng SJC.
Giá trị Đồng Việt Nam giảm
nhiều như vậy, mà Quốc hội lại thông qua Hiến pháp viết rằng "Nhà
nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia", thế thì có quáđại
ngôn hay không?
6.3.
Khoản 2 Điều
61 Hiến pháp 2014 viết:
"Nhà nước ưu tiên
đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo
đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí…"
"Nhà nước… bảo đảm giáo
dục tiểu học là bắt buộc" có nghĩa là phải tạo điều kiện để mọi người
đều có khả năng hoàn thành chương trình "giáo dục tiểu học". "Nhà
nước không thu học phí" là góp phần thực hiện mục tiêu ấy, nhưng đó
mới chỉ là một phần tương đối nhỏ. Để có thể đi học, trẻ em phải được ăn
no,mặc
ấm, phải có sách vở, giấy bút… Dù xã hội giàu đến đâu, thì vẫn có những bố
mẹ không đủ khả năng thỏa mãn những nhu cầu ấy của con cái. Trong trường hợp
đó, chính Nhà nước phải trợ cấp phần thiếu hụt, để trẻ em có điều kiện
sinh sống tối thiểu mà đi học tiểu học. Liệu Quốc hội đã nghĩ đến trách nhiệm
này hay chưa? Liệu Nhà nước có định "bảo đảm" chu cấp nuôi
hàng triệu trẻ em ở độ tuổi giáo dục tiểu học hay không? Và có khả năng kinh tế
để triển khai dự định ấy hay không? Hay chỉ đại ngôn cho sướng, cho
oai?
6.4.
Điều
96 Hiến pháp 2013 quy định "Chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây":
"3. … thi hành lệnh
tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các
biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính
mạng, tài sản của Nhân dân;"
"6. Bảo vệ quyền và lợi
ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội;"
Theo giải nghĩa trong "Từ
điển tiếng Việt" về từ "bảo đảm" (như đã trích ở
trên), thì Điều 96 đòi hỏi Chính phủ phải "chắc chắn giữ gìn
được tính mạng, tài sản của Nhân dân" và "chắc chắn
giữ gìn được trật tự, an toàn xã hội".
Trên thực tế, "tính
mạng, tài sản của Nhân dân" và "trật tự, an toàn xã
hội" được Chính phủ "bảo đảm" như thế nào? Hãy
nghe Phương
Bích tâm sự:
"Báo chí đưa tin nạn
trộm chó hoành hành khắp các miền quê. Người dân bảo vệ chó của mình thì bị
trộm đánh trả. Thậm chí chỉ vì bảo vệ chó mà chủ thiệt mạng. Kết quả là người
dân hợp lực nhau lại, đánh chết kẻ trộm chó trong cơn cuồng nộ."
"Chuyện nợ nần trong làm
ăn, người ta không mấy khi nhờ cậy đến pháp luật giải quyết, vì họ biết thừa
không có hiệu quả. Thế mới sinh ra các nhóm đòi nợ xã hội đen đỏ tím vàng... Và
lúc đó thì pháp luật lại ra tay trị kẻ đi đòi nợ…"
"Tôi rất muốn hỏi các
quý vị người nhà nước, dân chúng tôi phải làm gì khi pháp luật không có tác
dụng bảo vệ quyền lợi và tính mạng của mình?"
Một trong những chuyện đau
lòng mới xảy ra là vụ
đứt cáp cầu treo nối bản Chu Va 8 với Chu Va 6 ở xã Sơn Bình (Tam Đường, Lai
Châu) vào sáng 24/2/2014, khiến hơn 40 người rơi xuống suối, 8 người chết và 33
người khác bị thương. Chẳng nhẽ đó cũng là kết quả "bảo đảm" của
Chính phủ hay sao?
Thực ra, không một Chính
phủ nào trên Thế giới này có thể "bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân
dân" và "bảo đảm trật tự, an toàn xã hội"! Hùng mạnh như
Chính phủ Mỹ mà cũng đành bất lực… Không "bảo
đảm" nổi tính mạng của Tổng thống, thì làm sao có thể "bảo
đảm" được tính mạng của người dân? Không "bảo
đảm" nổi sự an toàn của tòa tháp đôi World Trade Center, biểu tượng
tự hào sừng sững giữa trung tâm thành phố New York, cùng với tính mạng của hàng
nghìn làm việc trong đó, thì làm sao có thể "bảo đảm tính mạng,
tài sản của Nhân dân" và "bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội" ở những nơi hẻo lánh xa xôi?
Dù cố gắng đến đâu, thì vẫn
buộc phải chấp nhận thực tế: Luôn có những người bị thiệt mạng (vì
tai nạn hoặc vì bị hãm hại). Luôn có những tài sản của Nhân dân bị hủy
hoại (vì thiên tai, hỏa hoạn… hoặc vì bị phá hoại). Và luôn tồn tại
những sự cố về trật tự, an toàn xã hội.
Nếu viết "Chính phủ
có nhiệm vụ… bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, …bảo vệ trật
tự, an toàn xã hội", thì còn hợp lý và khả thi. Đằng này, thay vì dùng từ "bảo
vệ", Quốc hội lại dõng dạc hiến định là "bảo đảm", vậy thì
có quá đại ngôn hay không?
Lỗi tương tự cũng xuất hiện
trong Điều
67 Hiến pháp 2013:
"Nhà nước xây dựng Công
an nhân dân… làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm."
Một trong những ví dụ chỉ ra "Công
an nhân dân… bảo đảm trật tự, an toàn xã hội" thế nào được mô tả
trong bài "Vết
rạn sau vụ giết bạn chấn động" của Đàm Đệ.
Còn nhiều thứ "bảo
đảm" khác, sẽ được đề cập tiếp trong phần 7 và Phụ
lục IV.
6.5.
Đại ngôn là tập quán phổ
biến ở mọi chính trường trên Thế giới. Nhưng đại ngôn tràn lan cả trong
hiến pháp, thì chỉ có thể là đặc sản của nhà nước mà thế lực cầm quyền xa
lạ với trách nhiệm. Nếu quan niệm rằng "nói phét không mất tiền",
nghĩa là không phải chịu trách nhiệm về những điều mình nói, thì tội gì mà
không nói cho oai?
Đại ngôn bị vung vãi dễ
dãi trong Hiến pháp khi thế lực cầm quyền chỉ muốntô vẽ để tự ngợi ca, mà không
hề có ý định thi hành trên thực tế. Tệ nạn ấy không chỉ bắt nguồn từ tập
quán hứa bừa, mà còn bám rễ trong truyền thống mạo công. Làm một kể mười,
thậm chí không làm cũng điềm nhiên nhận công. Cái chứng bệnh ấy lây lan khắp
nơi, càng lên cao thì bệnh càng trầm trọng. Hãy xem những bia đá được chưng ra
nơi nơi, từ công viên đến đền chùa và các loại di tích, để kể công vị này ngài
nọ đã trồng cây, cái cây mà nhiều người cùng trồng cùng tưới, nhưng công lao
lại chỉ được gán cho đúng một người – cái người đóng góp ít công sức nhất. Tệ
hại hơn, có lẽ để tương xứng với cái bia đá to đoành, hay vì sợ cây non không
kịp lớn trước khi vị nọ "giải nghệ hoàn dân", nên người ta bứng
cả những cây to đã tồn tại lâu năm, để diễn trò tái trồng mầm… già.
Quyền trong tay thì cứ việc
ra tay, nhưng đừng quá chủ quan cho rằng đại ngônluôn vô hại. Về lý mà
nói, một khi đã hiến định là Nhà nước hay Chính phủ "bảo đảm" thứ
gì đó, thì người dân có quyền kiện những người đứng đầu Nhà nước hay Chính phủ
khi thứ ấy không được "bảo đảm". Nếu bịt tai phớt lờ hay trả thù
người khiếu kiện thì lại bị dư luận lên án là chà đạp "nhà nước pháp
quyền". Đại ngôn có sướng đến mức đáng để chuốc lấy "hậu
quả không đâu" ấy hay không?
7. Chứng "Bất
chấp"
Khi "đại ngôn" thì
ít nhiều đã "bất chấp". Nhưng trong phần này, ta chỉ đề cập đến
một số điều hiến định thuộc loại rất bất chấp thực tế.
7.1.
Hai khoản đầu của Điều
2 Hiến pháp 2013 là:
"1. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyềnxã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân."
"2. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức."
Nhà nước này có phải là "nhà
nước pháp quyền", "của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân" hay
không? Nước này có phải là "do Nhân dân làm chủ" và "tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" hay không? Thông qua thực
tế, nhà cầm quyền đã liên tục đưa ra câu trả lời phủ định. Ở đây, chỉ cần đề
cập một ví dụ:Việc cương quyết không chấp nhận để Nhân dân phúc quyết Hiến pháp
đã chứng tỏ, rằng Nhà nước này không phải "của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân"! Và cái gọi là "Nhà nước… do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" chỉ là chuyện hư cấu bất
chấp thực tế mà thôi.
Không phải hiến pháp nước nào
cũng được đem ra phúc quyết toàn dân. Khi không có ai đòi đem Hiến pháp ra phúc
quyết, thì cũng chẳng nhất thiết phải phúc quyết. Khi bộ máy cầm quyền thừa sức
ngụy tạo ra kết quả bỏ phiếu theo ý muốn của họ, thì cũng chẳng nên kỳ vọng vào
giá trị khách quan của việc phúc quyết. Nhưng nếu một lực lượng công dân
đòi hỏi phải đem Hiến pháp ra phúc quyết toàn dân, thì không ai có quyền phủ
quyết đòi hỏi đó. Bởi về lý mà nói, dù có quyền cao, chức trọng đến đâu
trong bộ máy cầm quyền, thìbất cứ ai cũng chỉ là công dân bình đẳng với mọi
công dân.
Giả sử các đại biểu Quốc hội
được Nhân dân bầu ra một cách thực sự dân chủ (tiếc rằng thực tế không phải như
vậy), thì Nhân dân cũng chỉ trao cho họ quyền đại diện về những điều mà họ đã
thể hiện và tuyên bố công khai trước toàn thể cử tri, từ trước khi họ được bầu,
và cử tri đã dựa vào đó để bầu họ. Nếu trước khi đắc cử tuyên bố sẽ ủng hộ "phương
án A", thì sau đó không thể nhân danh đại biểu của Nhân dân để phản đối "phương
án A". Nếu trước khi bỏ phiếu, cử tri không được biết gì hơn về các ứng cử
viên ngoài mấy dòng lý lịch trích ngang vô hồn, thì người đắc cử không thể
nghiễm nhiên cho rằng mình đã được cử tri ủy thác quyết định bất cứ việc gì. Không
thể quan niệm rằng Nhân dân đã trao cho đại biểu Quốc hội quyền quyết định mọi
vấn đề, như thể trao cho họ tập séc khống, muốn ghi gì và ghi bao nhiêu vào đó
cũng được.
Chưa bao giờ Nhân dân ủy thác
cho Quốc hội phủ định quyền phúc quyết của Nhân dân. Vì vậy, nếu muốn
phản đối việc phúc quyết Hiến pháp, thì đại biểu Quốc hội phải tổ chức lấy biểu
quyết cử tri mà mình đại diện, xem đa số cử tri có ủng hộ dự định đó hay không. Chẳng
hề xin ý kiến cử tri, mà Quốc hội vẫn ngang nhiên bác bỏ đòi hỏi phúc quyết
Hiến pháp của một lực lượng công dân, thì đó là bằng chứng cho thấy: Quốc
hội đã bất chấp thực tế khi khẳng định trong Hiến pháp rằng Nhà nước này
là "của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân", "do Nhân dân làm
chủ" và "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".
7.2.
Điều
4 Hiến pháp 2013 viết:
"1. Đảng Cộng sản Việt
Nam… đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc…
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật."
Như đã phân tích trong bài "Uẩn
khúc trong Điều 4 Hiến pháp", tất cả các nội dung được trích ở trên
đều thuộc dạng "công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản".
Thay vì viết rõ đó là những đòi hỏi mà ĐCSVN phải chấp nhận vàphải thực
hiện, thì họ lại cố tình bỏ đi mấy chữ "phải", biến các đòi hỏi
pháp lý thành những mệnh đề khẳng định, như thể ĐCSVN đã và đang đạt được
những điều mà trên thực tế không hề đạt.
Vốn dĩ, Điều
12 Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng rằng:
"Các cơ quan Nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…"
Nay nội dung trên được "hóa
thân" tại Khoản
1 Điều 8 Hiến pháp 2013 như sau:
"Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật…"
Vậy là trách nhiệm hiến định "phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật" của "các
cơ quan Nhà nước" và "đơn vị vũ trang nhân dân" không
còn nữa. Thay vào đó, chỉ còn hiến định là "Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật", tức không hề có từ "phải",
hay tương tự, để thể hiện trách nhiệm hiến định. Nghĩa là, học theo tấm gương
xấu của Điều 4, Khoản
1 Điều 8 Hiến pháp 2013 cũng trở thành dạng "công chứng bất
chấp hiện trạng của nguyên bản", như thể "Nhà nước đang được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật", bất chấp thực tế mà
người người đều rõ.
7.3.
Điều
3 Hiến pháp 2013 viết:
"Nhà nước bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân…"
"Quyền làm chủ của Nhân
dân" là gì? Cái này mờ ảo như trời cao, nên thôi, không bàn ở đây.
Còn "quyền con người, quyền công dân" thì cụ thể hơn, thiết
thân hơn, nên buộc phải đặt ra câu hỏi: "Nhà nước… bảo đảm quyền con
người, quyền công dân" như thế nào?
Như ta đều biết, quyền
con người, quyền công dân thường xuyên bị bộ máy cầm quyền xâm phạm, ví dụ
như trường hợp "Bốn
công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một thanh niên". Để tránh
bị lên án, khi ra tay chỉ lớp quan chức dưới cùng mới xuất đầu lộ diện. Kín kẽ
hơn, họ huy động cả đám "quần chúng bức xúc" hay "côn
đồ tự phát" để "ném đá dấu tay". Thậm chí, cho cả sĩ
quan công an giả dạng dân thường, như trường hợp công
an giả làm thợ cưa đá dưới chân tượng Lý Thái Tổ vào sáng 19/1/2014, để ngăn
cản một số công dân dâng hương hoa, nhằm tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh,
nhân kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc. Nhưng những
màn kịch ấy không thể ngụy trang, che dấu được trách nhiệm của các cấp lãnh
đạo. Ai cũng hiểu rằng: Nếu lãnh đạo cấp trên không đồng tình, không đứng
sau những trò hề ấy, thì họ đã chấn chỉnh, ra lệnh cho cấp dưới chấm dứt ngay
những hành động vi hiến, phi pháp, đàn áp người dân thực thi các quyền hiến
định.
Điều khiến lãnh đạo tầng trên
cùng, từ Bộ trưởng trở lên, không thể phủ nhận trách nhiệm, là chính họ ký tên
ban hành các văn bản pháp quy vi hiến và phi pháp để phủ định quyền con
người, quyền công dân, như đã đề cập trong bài"Lực
cản Nhà nước pháp quyền". Qua đó ta thấy rõ, Điều
3 Hiến pháp 2013 bất chấp thực tế đến mức nào. Thiết tưởng cũng
chẳng cần bàn thêm, nhưng tiện đây, xin bổ sung thêm một ví dụ tương đối mới.
Theo thông
tin trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 24/2/2014, Công an Quận
4 Thành phố Hồ Chí Minh đã phát đến từng hộ dân “Phiếu Tố giác Tội phạm” (xemẢnh
8). Trong đó, "Kích động, nói xấu chế độ" là tội số
một, "Vận động khiếu kiện tập thể" là tội đứng thứ hai,
trên cả tội "cướp của". Đây là một bằng chứng hùng hồn về việc
bộ máy cầm quyền vi phạm quyền con người, quyền công dân.
|
Ảnh 8: Phiếu Tố giác
Tội phạm do Công an phát cho các hộ dân (Nguồn: Bauxite
Việt Nam)
|
Lạ thay cái tội "nói
xấu chế độ"! Không ai có thể phủ định thực tế, là chế độ này không
thiếu biểu hiện xấu. Xấu đến mức Chủ
tịch nước Trương Tấn San phải gọi một số đồng chí là "bầy sâu".
Và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thi Doan cũng thừa nhận: "Người
ta ăn của dân không từ cái gì". Nếu ai đó nói về những cái xấu ấy
của chế độ, thì cũng chỉ là phản ánh cái sự thật mà muôn người đều
biết, trong khuôn khổ tự do ngôn luận, được hiến định tại Điều
25 Hiến pháp 2013. Tại sao lại quy kết người "nói xấu chế độ đúng
sự thật" là "tội phạm", rồi ra tay trừng phạt? Đó là "công
lý xã hội chủ nghĩa" hay sao?
Lẽ ra, chỉ nên coi những
người "bịa đặt về chế độ" là "tội phạm".
Song khi đó, phải kết tội tất cả những ai "nói không thành có",
kể cả những vị thường bịa đặtnhững chuyện tốt không có thật để gán cho chế
độ, cái hành vi thường được coi là "ca ngợi chế độ". Tội bịa đặt
để "ca ngợi chế độ" rất đáng bị trừng phạt. Bởi nó làm hại
người dân, khiến họ ấm ức, phải chịu đựng lâu hơn những nỗi khổ bị thuyết
minh là hạnh phúc. Mặt khác, nó làm hại chính bản thân chế độ, vì thôi miên và
đánh lừa bộ máy cầm quyền: Đang mang trong mình những khối u ác tính, mà lại bị
lừa (và tự lừa) là vẫn khỏe mạnh, nên chủ quan, không chịu điều trị
kịp thời, đợi đến khi di căn khắp nơi, thì… vô phương cứu chữa.
Đặc biệt, trong “Phiếu
Tố giác Tội phạm”, "Vận động khiếu kiện tập thể" bị coi là"tội" thuộc
phạm trù "An ninh chính trị". Trên thực tế, "khiếu
kiện tập thể" thường bắt nguồn từ lý do kinh tế, không vì mục tiêu
chính trị. Tước quyền sử dụng đất của bao nông dân quanh năm "bán mặt
cho đất bán lưng cho trời", mà bồi thường không thỏa đáng, thì đương nhiên
các nạn nhân phải cùng nhau bảo vệ tài sản của mình. Và nếu tự vệ không nổi,
thì phải cùng nhau khiếu kiện, gọi là"khiếu kiện tập thể", để
đòi lại công bằng. Hành động hợp tình, hợp lý như vậy, mà lại bị chính quyền
cản cấm và đàn áp, thì dù ngu ngơ đến đâu cũng có thể đoán ra vai trò giật dây
của thế lực tham nhũng. Cho nên, nhiều khi "vận động khiếu kiện tập
thể" cũng là "vận động tập thể chống tham nhũng". Coi "vận
động tập thể chống tham nhũng" là "tội" đe dọa "an
ninh chính trị", tức là "tội chống chế độ", thì chẳng khác
nào khẳng định rằng "tham nhũng là bản chất của chế độ này", nên "chống
tham nhũng là chống chế độ". Hay đó chỉ là hành vi xuyên tạc của thế lực
cầm quyền, "nhân
danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng"?
Như đã chỉ ra trong bài "Lực
cản Nhà nước pháp quyền", Điều
74 Hiến pháp 1992hiến định "quyền khiếu nại" không hạn
chế; Luật
khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 chấp nhận đích danh việc "nhiều
người khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung" và "cử đại
diện để trình bày", nghĩa là chấp nhận những vụ khiếu nại của nhiều người
cùng đứng tên. Cho nên, việc Chính phủ ban hành Nghị
định số 136/2006/NĐ-CP và Thanh tra Chính phủ ban hành Thông
tư số 04/2010/TT-TTCP, trong đó không chấp nhận "đơn khiếu
nại có chữ ký của nhiều người", là hành vi vi phạm thô bạo Hiến pháp và
luật. Điều
30 Hiến pháp 2013 tiếp tục hiến định "quyền khiếu nại" không
hạn chế. Thêm vào đó, Điều
14 Hiến pháp 2013quy định: "Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật". Vì nghị định và thông tư
không phải là luật, nên tính vi hiến của Nghị
định số 136/2006/NĐ-CP và Thông
tư số 04/2010/TT-TTCP càng trở nên rõ ràng hơn. Như vậy, không có bất
kỳ văn bản pháp lý hợp hiến nào cho phép nhà cầm quyền khước từ "khiếu
kiện tập thể".
Việc "vận động khiếu
kiện tập thể" thuộc quyền công dân, trong khuôn khổ tự do
hội họp, lập hội, được hiến định tại Điều
25 Hiến pháp 2013. Thế thì tại sao công an lại coi hành động ấy là tội,
thậm chí là trọng tội?
“Phiếu Tố giác Tội phạm” có
vi hiến, phi pháp hay không? Điều đó đã quá rõ, nhưng các tác giả khoác áo công
an hoàn toàn không quan tâm. Họ chỉ viết ranhững tư duy sai trái đã ngấm sâu
vào tiềm thức và hóa thành bản năng. Đó mới là điều đáng lo ngại.
Độc tài có nghĩa là phi
dân chủ. Đã phi dân chủ thì thường vi phạm quyền con người,
quyền công dân. Cho nên, nếu nói bộ máy độc tài "bảo đảm quyền
con người, quyền công dân", thì quả là hoang đường, bất chấp thực
tế.
7.4.
Khoản 2 Điều
35 Hiến pháp 2013 viết:
"Người làm công ăn lương
được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn…"
Để hiểu "điều kiện
làm việc công bằng" như thế nào, hãy đọc bài
của Hữu Công đăng trên VnExpress ngày 27/8/2013:
"Công ty TNHH một thành
viên Thoát nước đô thị chi lương cả năm 2012 cho Giám đốc là 2,6 tỷ đồng (hơn
200 triệu đồng mỗi tháng), Chủ tịch Hội đồng thành viên 1,6 tỷ đồng, Kế toán
trưởng 1,67 tỷ đồng, Phó giám đốc 969 triệu đồng. Trong khi đó, lương bình quân
người lao động mùa vụ tại công ty này là 5,4 triệu đồng mỗi tháng."
Ai là người phải trả giá cho
mức lương "công bằng" của các vị Giám đốc, Chủ tịch Hội
đồng thành viên, Kế toán trưởng, Phó giám đốc? Hiển nhiên, những người lao động "thấp
cổ bé họng" thuộc vào số đó:
"Công ty Thoát nước đô
thị bị kết luận "vi phạm quy định của Bộ luật Lao động" khi ký hợp
đồng mùa vụ với thời hạn dưới 3 tháng đối với 163 người lao động thường xuyên
và ký hợp động có thời hạn 3 năm đối với 355 trường hợp đủ điều kiện ký hợp
đồng không xác định thời hạn."
Thật là "công
bằng" hết chỗ nói!
Để đánh giá "điều
kiện làm việc… an toàn" đến mức nào, hãy nhớ lại vụ
sập cầu Cần Thơ vào sáng ngày 26/7/2007, khiến hơn 50
người bị chết và gần 200 người bị thương. Một năm sau tai nạn khủng khiếp
đó, ngày 2/7/2008 Ủy ban Nhà nước Điều tra sự cố sập hai nhịp cầu dẫn cầu
Cần Thơ đã công bố Báo cáo tóm tắt về kết quả điều tra, rằng
"Tình huống rủi ro, khó
lường trước" có nghĩa là "lỗi tại Trời". Không
phải do thiết kế sai. Không phải do thi công sai. Không phải do bớt xén nguyên
liệu. Vậy là hòa cả làng. Chỉ các nạn nhân là có lỗi, do xuất hiện không "đúng
nơi, đúng lúc", nên đành phải "chết… đúng quy trình". Một
công trình phức tạp như thế, mà
Sử dụng cả "nông
dân mặc áo công nhân", "chưa một ngày qua đào tạo kỹ thuật
cơ bản", để xây cầu "siêu cấp", thì không bị sập mới là chuyện
lạ.
Nếu ai cho rằng đó chỉ là
chuyện của quá khứ xa xôi, thì nên xem thêm bài
tổng hợp "Những sự cố xây dựng nghiêm trọng năm 2012" của
Đỗ Tuyết trên báo Giáo dục Việt Nam (đăng ngày 24/12/2012), để ôn lại vụ
sập giàn giáo tại Khu đô thị mới Mỗ Lao ở Hà Nội vào ngày 21/2/2012 (khiến "nhiều
công nhân rơi từ tầng 7 cao ốc – 6 người thương nặng, 1 người chết"); vụ
sập giàn giáo tại công trường xây dựng nhà Nam Đô Complex ở Hà Nội vào ngày
5/11/2012 (khiến "hai công nhân rơi từ tầng 18" và tử
vong)… Trong bài
đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 26/2/2014), Nguyễn Dân viết: "Năm
2013, toàn quốc đã xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 627 người chết, hơn
6.000 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất lên tới hơn 70 tỉ đồng."
Hiển nhiên, trong một nền
kinh tế thị trường, được cộng hưởng bởi tham nhũng hoành hành, thì không
có cái gọi là "điều kiện làm việc công bằng". Cũng hiển nhiên
không kém, trong mọi chế độ, tai nạn lao động là điều khó tránh khỏi một cách
tuyệt đối. Vậy thì tại sao Quốc hội lại bất chấp thực tế mà hiến định
rằng"Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc
công bằng, an toàn"?
7.5.
Khoản 5 Điều
103 Hiến pháp 2013 viết:
"Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm."
Ngay cả với chế độ này, thì "tranh
tụng trong xét xử" cũng không phải khái niệm quá xa lạ. Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”, ban hành ngày 2/1/2002, đã xác định:
"Việc phán quyết của toà
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích
hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn quy định."
Nhưng nghị quyết nào cũng tỏ
ra vô dụng, nguyên tắc "tranh tụng trong xét xử"hầu như không
được tôn trọng trên thực tế. Để minh họa, chỉ cần nhắc đến trường hợp của ông
Nguyễn Thanh Chấn, trú tại xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang,
người còn may mắn được minh oan sau 10 năm chấp hành án phạt chung thân về tội “giết
người”. Nguyên nhân dẫn đến án oan sai đã đượcNguyễn
Trường thuật lại trên báo Tiền phong ngày 7/11/2013:
"Luật sư Nguyễn Đức
Biền, người được chỉ định bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn 10 năm trước,
từng chỉ ra 5 điểm thiếu sót trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các ý kiến
của ông không được xem xét thỏa đáng…"
Và ông Biền đã khẳng định:
"Tôi cho rằng, đây là
sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tố tụng, nhưng đáng tiếc Hội đồng xét
xử không hề để ý gì đến các lập luận của luật sư cũng như sự phản cung của bị
cáo tại phiên tòa. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới kết luận một cách phi
lý của Hội đồng xét xử, khẳng định ông Chấn giết người một cách oan ức."
Đây không phải là trường hợp
cá biệt, mà là một ví dụ điển hình. Khi phán quyết theo "bản án bỏ
túi" đã trở thành thông lệ, thì hiển nhiên quan tòa không chấp nhận "tranh
tụng trong xét xử". Vậy nên, khẳng định trong Hiến pháp rằng"nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" là hoàn toàn bất
chấp thực tế.
7.6.
Điều
19 Hiến pháp 2013 quy định:
"Mọi người có quyền
sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.Không ai bị tước đoạt
tính mạng trái luật."
Vốn dĩ, trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2/1/2013, thì điều này chỉ chứa đúng 5 chữ:
"Điều 21 Mọi người
có quyền sống."
Bài "Teo
dần quyền con người trong Hiến pháp" đã chỉ ra rằng: Đó là một
mệnh đề vừa vô nghĩa, vừa giả tạo, nếu nhà cầm quyền vẫn có ý định duy trì án
tử hình, bởi vì tử hình bất kỳ ai cũng là vi phạm "quyền sống"
của người ấy.
Phải chăng nội dung "nghe
rất kêu" ấy được chép từ Điều
3 của The Universal
Declaration of Human Rights ("Tuyên bố chung về Quyền con
người", thường được dịch ra tiếng Việt là "Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền"), được Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948? Có điều, "Tuyên
bố" hay "Tuyên ngôn" không nhất thiết có giá trị
pháp lý, tức là không bắt buộc mọi quốc gia đều phải thực hiện, nên một số nước
đã ký tán thành vẫn tiếp tục duy trì án tử hình. Còn nếu mệnh đề "Mọi
người có quyền sống" đã được ghi vào Hiến pháp của nước nào (ví dụ
như trong Khoản
2 Điều 2 của Hiến pháp Đức), thì Nhà nước đó không thể duy trì án tử
hình.
Lý lẽ ủng hộ việc bãi bỏ án
tử hình không chỉ xuất phát từ lý do tín ngưỡng hay nhân đạo, mà còn vì trên
thực tế không hiếm những bản án oan sai. Nếu còn sống thì còn có cơ hội được
minh oan, nhưng nếu xử tử rồi mới phát hiện oan sai, thì sửa sai bằng cách nào?
Theo thông tin của tổ chức Amnesty International(Ân
xá Quốc tế), tính đến năm 2012 có khoảng
2/3 các nước trên Thế giới đã xóa bỏ án tử hình ra khỏi luật, hoặc xóa bỏ án tử
hình trên thực tế (98 nước xóa bỏ án tử hình trong luật đối với mọi tội, 7 nước
xóa bỏ án tử hình trong luật cho các tội thông thường, 35 nước xóa bỏ án tử
hình trên thực tế).
Nếu thuộc vào số 1/3 các nước
trên Thế giới vẫn duy trì án tử hình, thì có thể coi quy định về "Quyền
sống" trong European
Convention on Human Rights (Công
ước châu Âu về Nhân quyền) là một hình mẫu đáng tham khảo:
1. Quyền sống của mọi người
được bảo vệ bằng luật. Không được cố ý tước mạng sống của bất kỳ ai, trừ trường
hợp thi hành án tử hình, do tòa tuyên án đối với tội danh mà luật có quy định
án tử hình.
2. Việc tước mạng sống không
bị coi là vi phạm điều này, nếu nó bị gây ra bởi sử dụng vũ lực không vượt quá
mức tuyệt đối cần thiết, nhằm:
(a) bảo vệ ai đó trước bạo
lực phi pháp;
(b) tiến hành bắt giữ đúng
luật, hay ngăn cản người bị giam giữ đúng luật bỏ trốn;
(c) dẹp tắt một cách đúng
luật một cuộc nổi loạn hay nổi dậy."
Quy định này không hề khẳng
định "Mọi người có quyền sống", mà chỉ có mệnh đề "Quyền
sống của mọi người được bảo vệ bằng luật". Đáng lưu ý là: "Bảo
vệ"chứ không phải là "bảo đảm"!
Lẽ ra, sau khi được góp ý,
thì đơn giản nhất là loại bỏ mệnh đề "Mọi người có quyền sống" ra
khỏi bản Dự
thảo. Song có thể vì quá sĩ diện, họ vẫn cố bảo lưu nó đến cùng, rồi bổ
sung hai mệnh đề "Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ" và "Không
ai bị tước đoạt tính mạng trái luật" để "chữa cháy".
Nhưng càng chữa càng cháy, càng sửa thì càng sai…
Nội dung và ý nghĩa của mệnh
đề "Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ"là gì? Khi tuyên
bố như thế thì pháp luật sẽ có thêm quy định hay thủ thuật gì khác, so với
trường hợp "tính mạng con người không được pháp luật bảo
hộ"? Những đặc điểm nhận dạng nào có thể giúp ta phân biệt loại "pháp
luật bảo hộ"với loại "pháp luật không bảo hộ tính mạng
con người"? Với những điều khoản"bảo hộ" bổ sung thì tính
mạng con người có an toàn hơn hay không? Câu trả lời sẽ cho thấy "nồng
độ pháp lý" của mệnh đề "… được pháp luật bảo hộ" chỉ
xấp xỉ… 0%. Và đó cũng là đặc điểm điển hình của nhiều điều khoản "ưu
việt" trong Hiến pháp Việt Nam.
Có lẽ "sứ
mạng" của mệnh đề "Không ai bị tước đoạt tính mạng trái
luật" chỉ là"đánh tiếng", rằng tuy tuyên bố "Mọi
người có quyền sống", nhưng thực ra vẫn tiếp tục duy trì án tử hình.
Với lối "nói lấy được", bất chấp nội dung câu chữ,Điều
19 Hiến pháp 2013 trở thành "siêu vi hiến", bởi vì nó mâu
thuẫn với chính nó.
Trớ trêu thay, hàng ngày trên
toàn quốc có bao người "bị
tước đoạt tính mạng", do cố ý giết
người để cướp của hay vì ân
oán, do ngộ
sát hay tai
nạn giao thông… Nhà nước, với tất cả các thủ thuật pháp luật và bộ máy
vũ trang khổng lồ, không thể "bảo đảm" các nạn nhân tránh được cái
chết. Ngược lại, một
số người dân còn bị chính công an hãm hại.
Hãy xem bài "Khởi
tố 4 công an xã đánh chết người tại trụ sở" đăng trên Phụ nữ Online
ngày 4/9/2012 và Ảnh 9 để thấy được "hiệu quả làm
việc" vào ngày 30/8/2012 của công an (ở huyện Đông Anh, Thủ đô Hà
Nội) trên thi thể của ông Nguyễn Mậu Thuận.
Ảnh 9: "Hiệu quả
làm việc" của công an (Nguồn: Phụ
nữ Online)
Hãy xem bài "Chiếc
dùi cui quật vào đâu?" trên báo Lao động ngày 28/3/2014, bình
luận về "những lời khai rất khủng khiếp" của "5
công an dùng nhục hình đánh chết… nạn nhân Ngô Thanh Kiều" (vào ngày
13/5/2012 tại Thành phố Tuy Hòa).
Ngày
13/2/2014, lại "Thêm một người chết sau khi làm việc với công
an", nhưTuổi trẻ Online đã tường thuật (xem Ảnh 10). Đó
là chưa kể những vụ bị coi là"tự tử" ngay khi đang "làm
việc" với công an, ví dụ như Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở Bình Định) "treo
cổ tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh" vào tối
11/3/2014; Bùi Thị Hương (42 tuổi, ở Bình Phước) "chết
trong tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính" vào
ngày 17/3/2014…
Đó chỉ là mấy ví dụ đại diện
cho bao cái chết oan uổng, được tường thuật công khai trên báo chí chính thống.
Vậy mà họ vẫn ngang nhiên khẳng định trongĐiều
19 Hiến pháp 2013 rằng "Không ai bị tước đoạt tính mạng
trái luật."Quả là bất chấp thực tế đến tột cùng, tới mức khó có
thể tìm được một từ thích hợp mà vẫn còn lịch sự để đánh giá. Chẳng nhẽ họ dự
định sẽ ban hành luật để hợp pháp hóa, biến tất cả những oan hồn thành diện "bị
tước đoạt tính mạngphù hợp với luật" hay sao?
|
Ảnh 10: Thân thể tử
thi sau khi "làm việc" với công an (Nguồn: Tuổi
trẻ Online)
|
7.7.
"Bất chấp" là
tính cách khá phổ biến trong giới cầm quyền. Song không phải mọi thể hiện "bất
chấp" trong Hiến pháp đều bắt nguồn từ tính cách ấy.
Hãy xem lại mệnh đề "Không
ai bị tước đoạt tính mạng trái luật" trong Điều
19 Hiến pháp 2013. Hai chữ "trái luật" cho thấy câu này
thực ra là một ràng buộc, đòi hỏi đối với phía Nhà nước, bởi chẳng có luật
nào cho phép dân thường "tước đoạt tính mạng" của người
khác. Như vậy, theo thông lệ lập hiến có thể viết rằng: "Không ai bị Nhà
nước tước đoạt tính mạng trái luật" – tức là viết như mộtcam
kết của Nhà nước. Song trên thực tế thì Nhà nước không thực hiện được cam kết
này. Nên phải viết một cách chính xác là: "Nhà nước không được tước
đoạt tính mạng của bất cứ ai một cách trái luật" – tức là viết như
một đòi hỏi hiến định đối với Nhà nước. Nhưng có lẽ họ cho rằng viết như
vậy sẽ ảnh hưởng đến sĩ diện của Nhà nước, hoặc đã rắp tâm sẽ lẩn tránh trách
nhiệm, nên dở chiêu "mập mờ", xóa tên của chủ thể "tước
đoạt tính mạng". Bị mất đối tượng đích thực là"Nhà nước", nội
dung hiến định trở nên lệch lạc, không còn là cam kết hay đòi
hỏi, mà trở thành mệnh đề khẳng định một trạng thái hoàn toàn trái với
thực tế. Chứng "mập mờ" gây ra chứng "bất
chấp" là vậy.
Chứng "mập mờ" là
một căn bệnh cố hữu trong Hiến pháp Việt Nam. Cũng vì sĩ diện hay lẩn tránh
trách nhiệm, nên cố tình bỏ đi một số chữ "phải" (hay tương
tự), khiến các đòi hỏi, ràng buộc hiến định trở thành những mệnh đề "công
chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản", như đã phân tích trong bài "Uẩn
khúc trong Điều 4 Hiến pháp". Chỉ cần thành tâm thêm chữ "phải" vào
một số nơi cần thiết, thì khắc phục được ngay trạng thái "khẳng định
bất chấp thực tế"của một số điều khoản liên quan. Ví dụ:
"Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình."
"Các tổ chức của Đảng và
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật."
"Nhà nước phải được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp
và pháp luật…"
"Nhà nước phải bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phải công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…"
"Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử phải được bảo đảm."
Tuy nhiên, thêm chữ "phải" vẫn
chưa đủ để chứng "bất chấp" biến khỏi vòng Hiến pháp. Nó
chỉ thay vai, đổi chỗ mà thôi: Nếu không thể hiện trong Hiến pháp một
số nội dung dưới dạng bất chấp thực tế, thì trên thực tế lại bất
chấp Hiến pháp. Có lẽ, do không thể tránh khỏi "bất chấp", và "bất
chấp" khi lập hiến an toàn hơn "bất chấp" khi thi
hành Hiến pháp, nên "mập mờ" trong Hiến pháp vẫn hơn. Ấy là
nguyên do khiến chứng "bất chấp" cũng có thể gây ra chứng "mập
mờ".
Nếu bất chấp cái Hiến
pháp do thế hệ tiền nhiệm để lại thì có thể thông cảm phần nào, vì không
phải mọi quy định trong cái Hiến pháp đã trở nên lỗi thời đều phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại. Nhưng nếu đem Hiến pháp ra sửa đổi mà vẫn duy trì hay bổ
sung thêm những nội dung mà thế lực đương quyền đã, đang và sẽ không muốn, hay
không thể thực hiện, thì đó là hành vihiến định bất chấp thực tế. Chủ động hiến
định bất chấp thực tế và sau đấy lại chủ động bất chấp Hiến pháp –
đó là thái độ "bất chấp" không thể chấp nhận được!
8. Chứng "Vu
vơ"
Để mô tả căn bệnh này, ta chỉ
cần dựa vào danh từ "chủ nghĩa xã hội" và tính từ"xã
hội chủ nghĩa" trong Hiến pháp Việt Nam. Ban đầu, chúng không hề tồn
tại trong Hiến
pháp 1946. Sang Hiến
pháp 1959, mỗi từ này xuất hiện đúng 6 lần. Nhiều nhất là trong Hiến
pháp 1980, với 23 lần "chủ nghĩa xã hội" và 86 lần "xã
hội chủ nghĩa". Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở
châu Âu bị sụp đổ, Hiến
pháp 1992 chỉ còn chứa 3 từ "chủ nghĩa xã hội" và
43 từ "xã hội chủ nghĩa". Sự biến thiên này cũng tương ứng với
quá trình thăng trầm của một giấc mơ…
8.1.
Hiến pháp 2013 giữ nguyên 3
danh từ "chủ nghĩa xã hội", tại những vị trí tương tự như ở Hiến
pháp 1992, trong đó có đoạn thứ ba của Lời
nói đầu:
"Thể chế hóa Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992,
Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh."
Thử hỏi, "Cương
lĩnh…" của ai? Của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, hay của Đảng
Lao động Triều Tiên? Tại sao lại dấu tên chủ nhân của "Cương
lĩnh…"? Phải chăng các nhà lập hiến hiểu ra, rằng không đảng nào có quyền
lạm dụng Hiến pháp để áp đặt cả Dân tộc? Hay tránh nhắc tên, để khỏi gây phản
cảm?
Nếu "Cương
lĩnh…" của ĐCSVN, thì "Cương lĩnh…" nào? Là "Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN thông qua ngày 27/6/1991?
Hay là cái "Cương
lĩnh…" do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉnh sửa, và hóa
trang bằng mỹ từ "Bổ sung, phát triển năm 2011"? Phải chăng,
không thể nói rõ bản "Cương lĩnh…" nào, vì biết trước sẽ
còn phải tẩy xóa, chỉnh sửa nhiều lần nữa? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả
Dân tộc phải răm rắp làm những điều mà bản thân họ cũng không dám tin là đúng?
Hiến định "Cương
lĩnh…" một cách vu vơ như vậy phỏng có ích gì?
8.2.
Hiến pháp 2013 chứa 39 tính
từ "xã hội chủ nghĩa", trong đó 33 lần thuộc về tên nước "Cộng
hòa từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Gán nó cho tên nước có hợp lý hay
không? Điều này đã được đề cập trong bài "Quốc
hiệu nào hội tụ lòng dân?"nên không cần nhắc lại ở đây nữa. 6 lần xuất
hiện còn lại có thể chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất bao gồm:
"Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân." (Điều
2)
"Nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo." (Điều
51)
"Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa" là gì? Trong "Nhà
nước pháp quyền", không cá nhân và tổ chức nào có quyền đứng trên hay
đứng ngoài Hiến pháp và luật, mọi quyền lực nhà nước đều bị ràng buộc và giới
hạn bởi Hiến pháp và luật. Còn ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quyền lực của ĐCSVN mới là cao nhất, không bị khống chế bởi bất cứ điều khoản
cụ thể nào trong Hiến pháp và luật. Hiến pháp chỉ "thể chế hóa Cương
lĩnh…" của ĐCSVN, và luật phải tuân theo Hiến pháp, nên về thực chất
lãnh đạo ĐCSVN mới đóng vai trò quyết định và còn đứng cao hơn Hiến pháp và
luật. Chẳng nhẽ đó là đặc trưng của"pháp quyền xã hội chủ nghĩa" hay
sao?
"Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa" là gì? "Xã hội chủ nghĩa" mù
mờ bao nhiêu, thì "định hướng xã hội chủ nghĩa" luẩn quẩn
bấy nhiêu. Càng tung hô"kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa", thì càng tỏ ra chẳng có định hướng nào cả.
Phải chăng hai khái niệm trên
cũng tương tự như phạm trù "dân chủ xã hội chủ nghĩa"? Thường
thì chế độ "phi dân chủ" hay được khẳng định là "dân
chủ xã hội chủ nghĩa", tức là:
"Dân chủ xã hội chủ
nghĩa" = "Phi dân chủ".
Nếu như vậy thì cái đuôi "xã
hội chủ nghĩa" được gắn sau từ "dân chủ" có ý
nghĩa như chữ "phi" được gắn trước từ "dân
chủ" (để phủ định). Áp dụng quy tắc ghép từ này, ta thu được:
"Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa" = "Nhà nước phi pháp quyền",
"Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa" = "Kinh tế thị trường phi định
hướng".
Bạn thấy kết quả suy luận này
có phù hợp với thực tế hay không?
Nhóm thứ hai bao gồm:
"Bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân."(Điều
64)
"Lực lượng vũ trang nhân
dân… có nhiệm vụ… bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa…" (Điều
65)
"Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…" (Điều
102)
"Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ… bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…"(Điều
107)
Nếu áp dụng quy tắc ghép từ ở
trên, thì "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" có thể phiên
dịch thành "Tổ quốc phi Việt Nam". Nghe có vẻ bất thường, nhưng
nếu liên hệ với lối tư duy "truyền thống", coi lý tưởng và quyền
lợi của giai cấp vô sản quốc tế cao hơn lợi ích của Tổ quốc Việt Nam, thì kết
quả phiên dịch có phù hợp hay không?
Hãy bỏ qua ý phụ vừa rồi, để
tập trung vào ý chính, mà chúng ta muốn trao đổi về nhóm thứ hai. Đó là: Có
hay không cái gọi là "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" và "chế
độ xã hội chủ nghĩa"?
Khi xuất hiện trong cụm từ "Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", thì từ "xã hội chủ nghĩa" đóng
vai trò tên gọi, được hiến định trong Hiến pháp. Nó chỉ để trang trí,
không nhất thiết phải tương thích với thực trạng. Cũng tương tự như việc đặt
tên "Cao" cho người lùn, tên "Mạnh" cho người
yếu, tên "Tài" cho người thiểu năng… Dù không phù hợp
với trạng thái, tính cách, thì người ấy vẫn tồn tại với tên gọi đó, không ai có
thể phủ định.
Nhưng khi xuất hiện trong hai
cụm từ "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"và "chế độ
xã hội chủ nghĩa" thì "xã hội chủ nghĩa" không hề
đóng vai trò tên gọi (được hiến định hay luật định), mà chỉ đơn thuần
là một tính từ, phản ánhtính chất, đặc điểm thực tại của "Tổ
quốc" và "chế độ".
Vậy "Tổ quốc" và "chế
độ" này có phải là "xã hội chủ nghĩa" hay không?
Nếu trước năm 2013 mà trả lời phủ định, thì có lẽ phải hứng chịu những đợt sóng
thịnh nộ từ phía các "chiến
binh cầm bút" của ĐCSVN. Nhưng may thay, trong buổi thảo luận của
Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vào sáng 23/10/2013, Tổng bí thư ĐCSVN
Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn khẳng định cái điều mà bao người vẫn nghĩ, nhưng
thường tránh nói ra:
Xin cảm ơn! Vậy là cả ngài
cũng đã thừa nhận, rằng hiện tại và nhiều chục năm nữa, không thể coi
"Tổ quốc" và "chế độ" này là "xã hội chủ nghĩa".
Nói cách khác, thực tế không tồn tại cái gọi là "Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa" và "chế độ xã hội chủ nghĩa" trên đất nước Việt
Nam!
Hóa ra, Hiến pháp 2013 quy
định
"Bảo vệ Tổ quốc
không tồn tại là sự nghiệp của toàn dân"
và
"Lực lượng vũ trang nhân
dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chế độ
không tồn tại."
Tại sao Quốc hội lại hiến
định loại nhiệm vụ "vu vơ" đến như vậy?
*
*
*
Vẫn còn rất nhiều điều đáng
bàn, song bài viết đã dài, và bằng ấy nội dung cũng đã đủ để cùng với hai bài "Hiến
pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?" và "Hiến
pháp vi hiến" khắc họa chất lượng tầm bản nháp của cái
văn bản mà 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhất trí tán thành chọn làm Hiến
pháp.
Tại sao lại bất chấp mọi
khuyên can, thông qua bằng được một bản dự thảo Hiến pháp với chất lượng như
thế?
Hiến pháp ấy có xứng đáng với
truyền thống ngàn năm văn hiến của Dân tộc, với trí tuệ của hơn 90 triệu khối
óc, với tầm tư duy của thời đại hay không?
Nhân dân ta có đáng phải chấp
nhận một bản Hiến pháp như vậy hay không?
Câu hỏi chất chồng câu hỏi,
băn khoăn quấn rối băn khoăn… Song buồn thay, những người đáng phải giải đáp
lại cứ làm thinh.
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điều
15 Hiến pháp 2013 là biến tướng của Điều 16 trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2/1/2013), viết rằng:
"Không được lợi
dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác."
Như đã phân tích trong bài "Teo
dần quyền con người trong Hiến pháp", đó là thủ đoạn lợi
dụng… từ "lợi dụng" để biến những hoạt động chính đáng và hợp
pháp của công dân thành tội lỗi, nhằm hạn chế trên lý thuyết và phủ định
trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Để tránh bị phê phán như vậy, họ
đã bỏ bớt từ "lợi dụng" trong mệnh đề
"Không được lợi dụng quyền
con người, quyền công dân để xâm phạm…"
và thay nó bằng
"Việc thực hiện quyền
con người, quyền công dân không được xâm phạm…"
Phụ lục II
Về quyền tự do ngôn luận, báo
chí và tiếp cận thông tin, Hiến
pháp Đức quy định:
(1) Mọi người có quyền tự do
phát biểu và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và
tự do tìm hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí
và tự do thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị hạn
chế bởi các quy định trong các luật phổ quát, bởi các quy định của Luật bảo vệ thanh
thiếu niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân.
(3) Nghệ thuật và khoa học,
nghiên cứu và giáo dục là tự do. Quyền tự do giáo dục không miễn trừ trách
nhiệm trung thành với Hiến pháp."
Về quyền tự do lập hội, Hiến
pháp Đức quy định:
(1) Mọi người Đức có quyền
lập hiệp hội và đoàn thể.
(2) Cấm các hội đoàn mà mục
đích và hoạt động của chúng trái với Bộ luật hình sự, hoặc chống lại trật tự
hiến định hay sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
(3) Quyền thành lập hội đoàn
nhằm bảo vệ và thúc đẩy điều kiện lao động và kinh tế được bảo đảm cho mỗi
người và mọi ngành nghề. Những thỏa thuận nhằm hạn chế hay cản trở quyền này
đều không có hiệu lực, các biện pháp nhằm vào chúng đều là phi pháp. Các biện
pháp theo Điều
12a, Điều
35 Khoản 2 và 3,Điều
87a Khoản 4 và Điều
91 không được chống lại các hoạt động đình công nhằm bảo vệ và thúc
đẩy điều kiện lao động và kinh tế của các hội đoàn được đề cập tại Khoản 1."
Phụ lục III
"Convention
on the Rights of the Child", thường được dịch ra tiếng Việt là "Công
ước về Quyền trẻ em", chỉ có điều sau đây là có vẻ gần nhất với nội
dung "trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em":
"Article 12
1. States Parties shall
assure to the child who is capable of forming his or her own views the
right to express those views freely in all matters affecting the
child, the views of the child being given due weight in accordance with the age
and maturity of the child.
2. For this purpose, the
child shall in particular be provided the opportunity to be heard in any
judicial and administrative proceedings affecting the child, either directly,
or through a representative or an appropriate body, in a manner consistent with
the procedural rules of national law."
Trong văn
bản tiếng Việt tại website
của tổ chức UNICEF (Quỹ
Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), điều này được dịch như sau:
"Điều 12
1. Các quốc gia thành
viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm
riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan
điểm đóvề tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan
điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và mức độ trưởng
thành của trẻ em.
2. Vì mục đích đó, trẻ
em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong
bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đếntrẻ em,
trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo
cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia."
Có lẽ ý "trẻ em
được… phát biểu… quan điểm… về tất cả các vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em" trong
đoạn dịch trên đã hóa thân thành cụm "trẻ em được tham gia vào các
vấn đề về trẻ em" trong Khoản 1 Điều
37 Hiến pháp 2013. Trước khi lý giải nguyên do hình thành, xin lưu ý ba
khía cạnh mà người đọc có thể hiểu lầm qua bản
dịch tiếng Việt của UNICEF.
Thứ nhất, từ "trẻ
em" bóng bẩy có thể khiến người đọc hiểu lầm rằng nó dành cho cả "giới
trẻ em", giống như từ "thanh niên" dành cho cả "giới
thanh niên" và từ "người cao tuổi" dành cho cả "cộng
đồng những người cao tuổi". Thực ra, "the child" (số
ít) chỉ là dành riêng cho cá nhân từng "đứa trẻ" cụ thể.
Thứ hai, người đọc có thể
hiểu lầm, rằng Điều 12 đòi hỏi "các quốc gia thành viên phải bảo đảm
cho trẻ em" hai thứ: Một là "có đủ khả năng hình thành quan
điểm riêng của mình"; hai là "được quyền tự do phát biểu những
quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em". Vì hiểu như thế, nên
trong văn
bản tiếng Việt tại website của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con
người và Quyền công dân (thuộc Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh),
người ta đã dùng thêm dấu phẩy để phân tách hai thứ đó:
"Các quốc gia thành viên
phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được
quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em…"
Nhưng không phải như vậy!
Điều 12 chỉ đòi hỏi "các quốc gia thành viên phải bảo đảm" một
thứ thôi, đó là "cho trẻ em… được quyền tự do phát biểu những quan
điểm…", và "quyền tự do phát biểu" đó chỉ cần được bảo
đảm cho loại "trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của
mình" mà thôi.
Thứ ba, cụm từ "mọi
vấn đề tác động đến trẻ em" dễ khiến người đọc hiểu lầm là"mọi
vấn đề tác động đến" cả giới "trẻ em" nói chung,
trong khi "all matters affecting the child" chỉ có nghĩa là "tất
cả các vấn đề ảnh hưởng đến đứa trẻ", tức là " ảnh hưởng
đến" chính bản thân cá nhân "đứa trẻ" (đang được
đề cập).
Thực ra, Điều 12 của "Công
ước về quyền trẻ em" chỉ quy định về trách nhiệmphải quan tâm đến
nguyện vọng của đứa trẻ khi quyết định những chuyện liên quan đến bản thân nó,
chứ không phải là quan điểm của trẻ em về những vấn đề chung, liên quan
đến cộng đồng trẻ em. Để tránh hiểu lầm, nên dịch Điều 12 của"Convention
on the Rights of the Child" một cách "trần trụi" như
sau:
"1. Các quốc gia thành
viên phải đảm bảo cho những đứa trẻ nào có đủ khả năng hình thành quan
điểm riêng được quyền tự do phát biểu quan điểm đóvề mọi chuyện ảnh hưởng
đến bản thân, và ý kiến của đứa trẻ phải được coi trọng thỏa đáng, tương ứng
với độ tuổi và mức độ trưởng thành của nó.
2. Đặc biệt, vì mục đích
đó, đứa trẻ phải được tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ
quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến nó, trực
tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách
thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của pháp luật quốc gia."
Sở dĩ ta dành thời gian để
bàn kỹ về đoạn dịch trên, là để tìm hiểu cái lô-gíc hình thành của một loại "chân
lý" sai lạc lưu truyền ở Việt Nam. Chúng vốn xuất hiện trong văn bản
ngoại ngữ nào đó, khi du nhập vào Việt Nam, được người dịch chọn những từ hoa
mỹ để chuyển ngữ một cách "hào phóng", thay cho cách thể hiện
chính xác nhưng bị coi là thiếu văn vẻ. Ví dụ, có thể dịch "the
child"thành "đứa trẻ", như vậy vẫn giữ nguyên được trạng
thái số ít. Nhưng có lẽ người dịch e rằng như vậy hơi thô thiển, nên đã dịch nó
một cách văn vẻ thành "trẻ em". Hậu quả là: Người đọc dễ hiểu
lầm sang số nhiều, không chỉ là một "đứa trẻ" cụ thể, mà có
thể là nhiều "đứa trẻ" chung chung, thậm chí là cả cộng
đồng các "đứa trẻ", tức là cả giới "trẻ em".
Tương tự như vậy, nếu dịch "all
matters" thành "mọi chuyện" hay "mọi
thứ" thì có vẻ mộc mạc quá, nên chọn cách chuyển ngữ là "các
vấn đề". Khi đã gọi là "các vấn đề", chứ không còn là "các
chuyện nhỏ", nếu viết rằng "phát biểu quan điểm về" chúng
thì chưa đủ phong độ chính trị, nên chọn cụm từ "tham gia vào".
Với tập quán tư duy văn vẻ theo định hướng chính trị như vậy, mệnh đề
"the child… the right to
express those views in all matters affecting the child"
không được dịch thành
"đứa trẻ… được quyền
phát biểu quan điểm đó về mọi chuyện ảnh hưởng đến bản thân."
Mà nó được dịch thành
"Trẻ em… được tham gia
vào các vấn đề về trẻ em."
Phải chăng đó là cách tư duy
đã đẻ ra cái cao kiến được hiến định tại Khoản 1Điều
37 Hiến pháp 2013?
Phụ lục IV
Ngoài những trường hợp đã
được đề cập trong hai phần 6 và 7, các tác giả của Hiến pháp
2013 còn "lạm phát" ra nhiều thứ "bảo đảm" khác.
Có những thứ không hề
được "bảo đảm" trên thực tế. Chẳng hạn:
"Thông tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luậtbảo đảm an
toàn." (Khoản 1 Điều
21)
"Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm." (Khoản
7 Điều
103)
"Chính quyền địa phương… bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương…" (Khoản
1 Điều
112)
Có những thứ "bảo
đảm" quá chung chung, không thể định lượng, hay xác định trạng thái, để
xem đã "bảo đảm" hay chưa. Ví dụ:
"Nhà nước… bảo đảm quyền
nghiên cứu khoa học và công nghệ…" (Khoản 2Điều
62)
"Nhà nước… bảo đảm trang
bị cho lực lượng vũ trang nhân dân…; bảo đảm đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức…" (Điều
68)
"Uỷ ban thường vụ Quốc
hội có những nhiệm vụ… hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của
đại biểu Quốc hội." (Khoản 5 Điều
74)
"Nhà nước bảo đảm kinh
phí hoạt động của đại biểu Quốc hội." (Khoản 3 Điều
82)
Có những thứ "bảo
đảm" mơ hồ:
"Ngân sách nhà nước… bảo
đảm nhiệm vụ chi của quốc gia." (Khoản 2 Điều
55)
Mọi chi tiêu của quốc gia đều
được tính vào ngân sách nhà nước, vậy chẳng nhẽ"ngân sách nhà nước…
bảo đảm" những thứ được tính vào ngân sách, hay sao? Còn nếu quan niệm "bảo
đảm nhiệm vụ chi của quốc gia" là "thỏa mãn nhu cầu
chi của quốc gia", thì mức độ "đại ngôn" còn tệ
hại hơn nữa.
"Tòa án nhân dân tối
cao… bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử." (Khoản
3 Điều
104)
"Áp dụng thống nhất pháp
luật" có nghĩa là gì? Vì tòa án áp dụng sai pháp luật là chuyện không
hiếm, nên "Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật" một cách sai trái hay sao?
Có những thứ "bảo
đảm" không kèm theo trách nhiệm, như:
"Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ… góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất." (Khoản 3 Điều
107)
Nghĩa là chỉ cần "góp
phần bảo đảm" thôi, còn có "bảo đảm" được hay
không thì còn phụ thuộc vào các đối tác và các yếu tố khác. Hay:
"Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới." (Khoản 1Điều
26)
"Quốc hội có những nhiệm
vụ… Quyết định… các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an
ninh quốc gia." (Khoản 13 Điều
70)
Có nhiệm vụ quyết định
các biện pháp, chính sách nhằm "bảo đảm…" không có nghĩa là phải
"bảo đảm…". Trong chế độ mà đường lối luôn được coi là đúng, mọi
sai lầm đều thuộc khâu thực hiện, thì bộ máy hoạch định chính sách chẳng
phải chịu trách nhiệm nào cả.
Có những thứ "bảo
đảm" vô thưởng vô phạt, chẳng kéo theo hệ quả cụ thể nào cả:
"Nhà nước xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế, … bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế
quốc dân." (Điều
52)
"Thủ tướng Chính phủ có
những nhiệm vụ… bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành
chính quốc gia. (Khoản 2 Điều
98)
"Chế độ xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm được bảo đảm." (Khoản 6 Điều
103)
Và có cả thứ "bảo
đảm" không phải… "bảo đảm", mà là được "bảo đảm":
"Trong trường hợp cần
thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan
nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
đó." (Khoản 3 Điều
112)
Tức là "chính quyền
địa phương" không phải "bảo đảm" điều gì, mà ngược lại, chỉ
cần "thực hiện một số nhiệm vụ… với các điều kiện bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ đó".
Đặc biệt, Khoản 1 Điều
14 quy định rằng:
"Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân… được… bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật."
Nếu chỉ đọc qua, thì dễ tưởng
rằng nội dung này trùng lặp với cái được "bảo đảm" ở Điều
3 Hiến pháp 2013. Song đây không phải là cam kết "bảo đảm",
mà là một thủ thuật để hạn chế quyền con người, quyền công dân, như đã
phân tích trong bài "Hiến
pháp vi hiến". "Bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" không
phải là "bảo đảm" theo nghĩa thông thường, như mọi người
vẫn hiểu, mà có nghĩa là chỉ "bảo đảm" ở mức độ cụ thể theo quy
định trong Hiến pháp và pháp luật mà thôi.
Ngày 10/9/2014
H.X.P.
(Tác giả gửi BVN)
Tiều đề bài viết nói lên tất cả
Trả lờiXóaCảm ơn GS Phú và bác Bồng.
Bái phục GS TS Phú.Đúng là trí tuệ của nhà khoa học tự nhiên.Cái đám cuốc hội kia chỉ là đám xôi thịt mà thôi,mỗi năm nhóm họp vài lần chỉ để ngáp vặt,ngủ gà và vỗ tay, bấm nút.Lúc nào mới sửa đổi được cách bầu quốc hội như lâu nay.Nhà văn Hoàng Tiến ở Hà nội đã có lần viết đơn xin trả lại thẻ cử tri cho ông Trọng lúc đó là trưởng ban bầu cử trung ương
Trả lờiXóaBài viết của viện sĩ Phú rõ ràng không chê vào đâu được ! Xin cảm ơn viện sĩ / xin cảm ơn Bùi đại tá // kính chúc sức khỏe !
Trả lờiXóaÔng phú ơi tôi là lãnh đạo thật nhưng tôi không viết không đọc cũng chăng xem mấy cậu thư ký họ viết sao tôi đọc vậy còn việc làm việc viết việc đọc nó không giống nhau ông soi tôi kỹ quá
Trả lờiXóaHoan hô GS Hoàng Xuân Phú! Hoan hô!
Trả lờiXóaBái phục GS HXP. Ngài là nhà toán học mà phân tích HP hơi bị giỏi. Tui làm nghề luật cũng phải kính nể ngài. Cái ông Ly chủ nghiệm uỷ ban PL của Quốc hội cũng nên găp ngài Phú để mà tham khảo, học hỏi.
Trả lờiXóaKhông biết ý kiến gì đối với một thứ thật ra là không có!
Trả lờiXóaXã hội rồi đi về đâu
Trả lờiXóaDonate for poor in India
Trả lờiXóa