Translate

Trang BVB1

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

NÓI THẬT RÕ...TỰ CỨU ĐƯỢC KHÔNG?


Sổ tay tham khảo
                             Để góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Nói thật rõ
Để an tâm sửa tận gốc
(Tập các bài viết chọn lọc)
Nhà xuất bản ......................... tháng 4 năm 2013
 VIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN (VIDS)
Lời nói đầu
Kính gửi các Quý Vị
            Tôi đã viết nhiều bài liên quan đến chủ đề cải cách thể chế chính trị của nước ta, phù hợp với các chủ trương và hướng dẫn của Đảng và Chính phủ. Số lớn các tài liệu này, tôi đã lần lượt gửi đến các Đ/C: Chủ tịch nước, TBT, Chủ tịch QH, Thủ tướng CP và Bộ Chính trị, đồng kính gửi cho Hội đồng lý luận TƯ và Đ/C Đinh Thế Huynh, tới rất nhiều địa chỉ khác trong hệ thống Đảng và Nhà nước.
           Theo dõi không thấy cấp cao phản hồi gì, nhưng rất nhiều độc giả còn lại thì tán thành, một số bạn đọc còn khen ngợi và hoặc góp ý sửa chữa cho tốt hơn. Có một ý kiến thận trọng nói rằng, chưa nên đề xuất “Đ/C TBT nên nghỉ giữa nhiệm kỳ”, nhưng nhiều ý kiến không chỉ đồng tình, còn góp thêm nội dung đề cập cho đủ hơn và thôi thúc gửi đi sớm vì thời thế không chờ đợi chúng ta.
             Sau khi nhận được nhiều phản hồi đồng tình, sự tự tin của tôi tăng lên, cùng với góp ý của một số bạn bè, tôi đã chọn một số bài ngắn gọn bám sát chủ đề đổi mới nhất để nhân bản gửi đến đông đảo cán bộ các cấp còn lại và quan trong hơn nữa là đến tận tay đông đảo cán bộ và nhân dân. Bởi vì Muốn góp ý kiến thật sâu sắc, thì cần hiểu vấn đề thật rõ. Hiểu thật rõ vấn đề, thì mới an tâm sửa tận gốc.
             Sau đây là mấy bài gần đây nhất tương đối đạt yêu cầu nói trên.
            Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đã đến lúc Dân ta rất muốn thực sự giúp Đảng tự cứu lấy mình để có thể tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên. Nhưng giúp thế nào đây ? Tập tài liệu này hy vọng góp một phần nhỏ làm sảng tỏ vấn đề trên với tâm niệm rằng:.. Dân làm chủ thì Dân cần thấu hiểu ngọn ngành vấn đề để có thể làm chủ nhân đích thực. Theo tôi, đó cũng là đường lối và tâm huyết của toàn Đảng.
Vận nước đã đến rồi !
Kính chúc sức khoẻ và thành công!
Một đảng viên
(51 năm tuổi Đảng)
---------------------------------
Kính gửi các Đồng chí: Chủ tịch nước, Tổng Bí thư;
Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ;
Cùng toàn thể Bộ Chính trị;
Đồng kính gửi TƯ Đảng và Quốc hội.
Nhân dân rất muốn giúp Đảng tự cứu lấy mình 
để tiếp tục lãnh đạo đất nước! 
Muốn giúp thì cần cùng Đảng hiểu rõ vấn đề
A.   Bài I

Nói thật rõ để yên tâm sửa tận gốc
            Để sửa đổi một cách cơ bản HP, cần rà lại có hệ thống “cuộc cách mạng vô sản” của loài người, và cuộc cách mạng của nước ta.
                I- Đôi điều cực kỳ ngắn gọn, cốt lõi nhất toàn cảnh lịch sử cách mạng vô sản thế giới:
             1.1 - Chúng ta nên nhớ lại cho rõ:
            + Khái niệm Chủ nghĩa Xã hội (lấy quyền lợi chung của xã hội làm mục tiêu), và Chủ nghĩa Cộng đồng (lấy quyền lợi chung của cộng đồng làm mục tiêu) đã có từ trước khi Mác ra đời. Người ta đã dịch sai từ cộng đồng (community) thành từ cộng sản và do đó khái niệm và bản chất của CN CS đã bị hiểu sai đi (cộng tất cả tài sản xã hội lại), và cũng hiểu lầm rằng, CNCS là do Mác sáng tạo ra ! Đó là những nhầm lẫn đầu tiên
             + Số công trình do Mác viết ra đã được xuất bản là khoảng 50 tập dày, bao gồm triết học, kinh tế, văn hoá, xã hội , trong đó có “Phép biện chứng” và những tư tưởng sâu sắc về “Quyền tự do của con người” là nổi bật nhất. Người “đã cống hiến cả cuộc đời của mình để làm rõ nội dung và đấu tranh cho quyền Tự do của Con người”.
             + Bản chất của tư duy vĩ đại nhất của Mác về Tự do là như sau: Mác thừa nhận: Xã hội Tư bản là xã hội tự do theo cách hiểu thông thường, vì ở đó “không ai phải chịu sự can thiệp cố ý của người khác”. Thời của Mác, “Mác đã thừa nhận xã hội tư bản là xã hội tự do dân chủ nhất”. Nhưng theo cách hiểu mới của Mác thì: “Xã hội Tư bản vẫn là xã hội chưa được Tự do đúng với từ này, vì “Con người vẫn không kiểm soát điều khiển được xã hội của mình”. (không kiểm soát được nạn người bóc lột người, không tránh được khủng hoảng, chưa loại bỏ được chiến tranh, vẫn còn suy thoái đạo đức mà Mác gọi là Sự tha hoá.. . .)
              + Theo nghiên cứu của Mác, CNTB đã dùng quy luật cạnh tranh để điều khiển xã hội . . .thì nó chỉ có được Tự do dân chủ như nó đã có. Còn muốn có được Tự do Dân chủ thực sự, triệt để theo cách hiểu của Mác, thì phải từ bỏ chế độ tư hữu, và phải kế hoạch hoá toàn nền kinh tế và phải  thực hiện chuyên chính để điều khiển xã hội.
              + Cơ sở đạo đức để Mác tin rằng có thể thực hiện được điều đó (Tự do thực sự cho toàn xã hội) là: Một khi đã có Chế độ công hữu, tổ chức xã hội theo Kế hoạch tập trung, sẽ tránh được khủng hoảng, tránh được nạn đối đầu “giàu nghèo”, “Của cải sẽ tuôn ra như nước”, thì mọi người sẽ “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. “Ý thức do hoàn cảnh quyết định”, nên lúc đó “Bản tính con người sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp”, “Mỗi người đều muốn điều tốt không chỉ cho riêng mình, mà cho tất cả”khi những điều đó diễn ra, là lúc chúng ta có Chủ nghĩa Cộng đồng một cách đích thực. Trong xã hội Xã hội cộng đồng, sẽ không còn sản xuất riêng lẻ và không còn phân phối theo thị trường cạnh tranh, mà sẽ là xã hội sản xuất tập trung theo kế hoạch và phân phối tập trung theo nhu cầu . Lúc đó Tự do mới thực sự là Tự do cho cả Cộng đồng! Những điều trên thật là một lý tưởng tốt đẹp, song hiện nay vẫn được cho là ảo tưởng bởi nó quá xa với điều kiện thực tế của xã hội loài người.  
             + Một phát kiến cực kỳ quan trọng nữa của Mác là: Từ Hegel và những nhà XHCN và CSCN trước Mác chỉ nêu các vấn đề triết học và đạo đức của Con người ra trên phương diện lý thuyết. Còn Mác nhận định rằng, muốn thực hiện được ý tưởng của Chủ nghĩa cộng đồng, những người XHCN và CSCN phải có Lực lượng vật chất để thực hiện. Và theo Mác, không ai tốt hơn là “Giai cấp vô sản”. Từ “sáng kiến” vĩ đại đó của Mác đã xuất hiện khái niệm “Cách mạng vô sản” – Cách mạng do những người vô sản khởi xướng và lãnh đạo!
              +Trên cơ sở lập luận triết học đó, Mác và cộng sự, đã đi đến kết luận, cần phải thủ tiêu chế độ tư hữu, phải loại bỏ giai cấp tư sản, phải lật đổ chính quyền tư bản, đưa giai cấp công nhân lên lãnh đạo cuộc cách mạng, để thực hiện chính quyền Chuyên chính vô sản. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại này chỉ có giai cấp công nhân mới làm được!
            + Quốc tế Cộng sản I đã được thành lập ở Trung tâm Châu Âu từ CN Cộng đồng của Mác là như vậy. và “Tuyên ngôn Đảng vì Cộng đồng” (Tuyên ngôn Cộng sản) do Mác đích thân chấp bút, được diễn tả trung thực trong “Quốc tế ca”, có những đoạn viết: “Đấu tranh này là trận cuối cùng”, “chế độ xưa ta mau phá  tan tành”, “Bao nhiêu quyền lợi ắt qua tay mình” Những điều trên thực là cách mạng, song cho đến nay vẫn được cho là ảo tưởng, Cụ thể là:
               Khoảng thế kỷ 18, 19, chủ trương này đã kích thích mạnh mẽ giai cấp vô sản Châu Âu, đã dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt “một mất một còn”. Các cuộc đấu tranh này tuy không thành công, nhưng đã đạt được 2 hiệu quả quan trọng, là: 1/ Giai cấp tư sản đã phải giảm cường độ bóc lột, từng bước cải cách chế độ chính trị TBCN, tự do dân chủ hơn và công bằng xã hội hơn (mặc dù chính Mác đã thừa nhận là xã hội tư bản đã tự do nhất thời bấy giờ!) ; 2/ Các lãnh tụ cộng sản nhận ra một điều là: Hiện tượng phân chia giai cấp là kết quả hình thành một cách tự nhiên trong cuộc sống cạnh tranh: Giai cấp tư sản chính là tầng lớp dân cư có học, có trí tuệ hơn, năng động cạnh tranh sáng tạo hơn đã trở thành người tổ chức lao động tìm kiếm lợi nhuận, từ đó phát triển xã hội, đồng thời cũng đã tạo ra và duy trì công ăn việc làm liên tục cho giai cấp công nhân (như ở nước ta và ở TQ bắt đầu từ thời kỳ cải cách kinh tế mở cửa hội nhập). Người công nhân Châu Âu dần dần nhận thức được rằng: Họ chỉ có lao động chân tay, nhà tư bản có lao động trí óc để tổ chức lao động, đã tạo ra công nghệ và cung cấp vốn, hai bên cần có nhau và cần chung sống hoà bình. Chính những thất bại của QTCS I  đã dẫn đến sự chín mùi một tư duy mới của Mác khi ông đã già: Với sự cộng tác chặt chẽ của Ănghen, một nhà tư bản giàu có, hai ông đã “tự vượt qua tư duy cũ – về tiêu diệt g/c tư sản - của chính mình”, tự nhận thức được rằng cái chủ trương “đấu tranh giai cấp một mất một còn”, tiêu diệt giai cấp tư sản, giao toàn quyền cho giai cấp công nhân lãnh đạo xây dựng đất nước là sai lầm, trái quy luật về: Sự “cạnh tranh chọn lọc tự nhiên”, sự “Tồn tại và thống nhất giữa các mặt đối lập” (không có g/c tư sản thì cũng không có g/c công nhân và ngược lại – như ở VN và ở TQ hiện nay: Giai cấp tư sản cũ bị tiêu diệt thì lại xuất hiện giai cấp tư sản mới; Giai cấp vô sản cũ mất đi thì lại xuất hiện tầng lớp dân nghèo  mới). Từ đó đã hình thành tư duy không lật đổ giai cấp tư sản nữa, không phá cả chế độ xưa nữa, mà chủ trương chung sống hoà bình cùng xây dựng một nhà nước pháp quyền và liên kết hợp tác có đấu tranh theo con đường nghị trường, thông qua pháp luật. Từ nhân thức thực tế đó đã hình thành QTCS II.
(Mác đã trưởng thành nhờ hoà vào phong trào triết học dân chủ xuất sứ và bắt đầu từ Hegel, đến phái Hegel trẻ , mà đỉnh điểm là Phơ – bách (Feuerbach), từ “Hiện tượng học tinh thần” đến “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”, v .v ., Mác đã có công làm rõ vấn đề rằng, những mâu thuẫn của triết học chính là đã phản ánh những mâu thuẫn của số phận con người, và ông đã chuyển công việc giải thích thế giới kéo dài lâu nay sang công việc tìm cách biến đổi thế giới để thực sự, bằng hoạt động cụ thể của con người nhằm giải quyết trọn vẹn số phận của họ. Đó chính là ý tưởng khái quát nhất của CN cách mạng Mác.Đó chính là bước chuyển từ CNXH lý tưởng đơn thuần sang CN CS của Mác bao gồm cả lý tưởng lẫn hành động cụ thể. Rất tiếc, trong cái phần hành động của CN Mác, Mác đã mở đầu cho một sai lầm kéo dài của cả Nhân loại, đó là phân chia Loài người ra làm hai trận tuyến: Người nghèo, nòng cốt là giai cấp công nhân, sẽ vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản (những người giàu),  lật đổ chính quyền tư bản, xây dựng CN CS. Từ đó đã tạo ra một cuộc đối đầu gay gắt bất tận giữa hai trận tuyến giàu – nghèo trên thế giới cho đến ngày nay.
                 QTCS I theo đường lối Mác lúc ông còn trẻ đã mau chóng thất bại, rồi tự tan rã. Ngoài lý do đã nói ở trên, còn cần nêu thêm:
-   Mác chưa tính đến, sự ham muốn của Con người rất đa dạng, không bao giờ cạn và dừng lại, còn Trái Đất thì lại hữu hạn.
-   Mác đã không hình dung hết, ngay thời đại điện tử tin học thế kỷ XXI cũng không thể kế hoạch hoá từ Trung ương toàn bộ nền sản xuất và phân phối từ một trung tâm mọi nhu cầu xã hội . . .
-   Giai cấp công nhân chỉ có đủ sức mạnh và dũng khí, cùng lòng căm hận để có thể phá hủy chế độ cũ, nhưng không đủ trí thức và kinh nghiệm để xây dựng và quản lý một chế độ mới khác hẳn về bản chất. Và do đó, giai cấp công nhân lại phải tạo dựng lên một giai cấp tư sản mới thay vào !
-   “Quan niệm tự do – công hữu, kế hoạch hoá, và chuyên chính vô sản - của Mác đã là chỗ dựa rất tốt cho các thế lực quyền lực mới, các“quyền lợi nhóm” mới và các chế độ độc tài mới hình thành và hoành hành”, (Điều này về sau này ngày càng rõ)
- Mác đã không hình dung ra và không lường được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự thay đổi của môi trường, yếu tố đã làm cho quan niệm và nội hàm về sự tha hoá của CNTB đã từng ngày thay đổi, làm cho những tiên đoán xấu về CNTB của Mác đã trở nên không đúng
             Tóm lại: Sự vĩ đại nhất của Mác là ở chỗ: Một là, Mác là người đầu tiên trên thế giới chỉ rõ chỗ hạn chế của chế độ Tự do Dân chủ Nhân quyền tư sản (chỉ xoay quanh Tự do cá nhân Con người) để nêu ra nội dung của chế độ Tự do Dân chủ Nhân quyền cho cả cộng đồng; Hai là, Mác là người đầu tiên trên thế giới đưa ra giải pháp để thực hiện, biến lý tưởng (lý thuyết) Tự do Dân chủ Nhân quyền cộng đồng thành hiện thực, đó là sử dụng  giai cấp công nhân làm lãnh đạo cách mạng vô sản. Sự nghiệp vĩ đại này chỉ có giai cấp công nhân mới làm được (Vì giai cấp công nhân là cách mạng nhất, lại được trang bị CN khoa học Mác – Lê ! ) (Đây là những nhận định sai lầm mang tính áp đặt rất chủ quan siêu hình của Mác !)
               Sai lầm quan trọng nhất của Mác là vi phạm quy luật “Sự thống nhất giữa các mặt đối lập:Không có giai cấp tư sản, thì cũng không tồn tại giai cấp công nhân, và ngược lại”Loại bỏ giai cấp tư sản xanh, thì lại xuất hiện một cách tự nhiên giai cấp tư sản đỏ ! Do đó, khi tất cả mọi  người chưa trở thành Thánh, hay Phật, thì điều khiển xã hội bằng cạnh tranh Tự do Dân chủ,công khai, minh bạch có điều tiết và kiểm soát , tức là đấu tranh cải cách hoàn thiện tiếp CNTB (thêm có sự lựa chọn, điều tiết, kiểm soát của nhân dân), vẫn đang là thể chế chính trị phù hợp hơn cả.
                 1.2 - Lênin đã tiếp thu đầy đủ tư tưởng vĩ đại của Mác (QTCS I ) nói trên, bất chấp thực tế thất bại của giai cấp công nhân tại Trung Âu, và đã thành lập QTCS III,
              a) Tại sao Phong trào CS của QT CS I ở trung tâm Châu Âu (gồm Anh, Pháp, Đức, Hà Lan . . .) thì thất bại, còn QT CS I , tức QT CS III lại thắng lợi ở nước Nga ? Tại vì, cũng như CM tháng 8 ở Việt Nam sau này, thực chất cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga là cuộc cách mạng toàn dân đấu tranh chống chế độ Nga hoàng phong kiến là chính trên một đất nước nông nghiệp là chủ yếu với 70-80% dân số là nông dân,trong khi giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đều còn khá nhỏ bé.(là mắt xích yếu nhất). Kết quả là CM tháng 10 Nga đã đè bẹp giai cấp tư sản còn non yếu, lật đổ được chính quyền nửa phong kiến - tư sản của Nga hoàng và đưa giai cấp công nhân Nga lên độc quyền lãnh đạo. Chủ trương của chính quyền vô sản Nga là: Xây dựng nhà nước độc quyền của giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo tập trung độc quyền của Đảng CS Nga (mọi quyết sách từ quan trọng nhất của đất nước đến đời thường nhất đều do các cấp uỷ Đảng tương ứng quyết định – Cấp TƯ là Bộ Chính trị, cơ sở là cấp uỷ của các chi bộ đảng); quốc hữu hoá toàn bộ tài sản quốc gia (cộng sản), bãi bỏ sở hữu tư nhân; xoá bỏ cơ chế thị trường thay bằng cơ chế kinh tế theo kế hoạch hoá tập trung bao cấp từ TƯ; xoá bỏ “xã hội dân sự”, thay vào là các đoàn thể quân chúng do Đảng CS lập ra, thực chất là “cánh tay kéo dài răm rắp làm theo các nghị quyết của Đảng”; bộ máy nhà nước đã trở nên rất cồng kềnh và rất lãng phí (Hai hệ thống nhà nước song song). Tầng lớp trí thức cũ của đất nước (trước đó đã đi theo cách mang), do phản ứng mạnh mẽ đường lối mất dân chủ và độc quyền của đảng , nên họ đã  bị Lênin tìm mọi cách loại trừ (đuổi ra nước ngoài, tù đầy, kể cả thủ tiêu; từ đó cũng xuất hiện tại VN cụm từ tương ứng: Trí Phú Đại Hào: Đào tận gốc, trốc tận rẽ). Một bộ máy nhà nước cồng kềnh, với đường lối và cơ chế rất không tưởng, lại do những công nhân cốt cán học lực cấp I, cấp hai và những cán bộ cách mạng kiên cường dũng cảm có lý lịch “trong sạch”, nhưng thiếu tri thức quản lý lãnh đạo, nên đã rất mau chóng sa vào bi kịch lúng túng hỗn độn; đứng trước sự tan rã,. Lênin rất thông minh, thấy vậy, ông đã rất nhậy bén, quyết liệt đưa ra ngay “Chính sách kinh tế mới”, trong đó, ngoài việc nới lỏng sự tự do tổ chức sản xuẩt, tiêu thụ (bỏ phần lớn sản xuất và phân phối theo kế hoạch tập trung), đã mời rất nhiều chuyên gia ở các nước tư bản vào (thay vào vị trí số trí thức và công chức nội quốc đã bị vùi dập, làm tan nát) để họ giúp tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất. Nhà nước Nga nhờ có cuộc cải cách đó đã không bị sụp đổ và thậm chí còn phát triển nhanh do chính sách KT mới này (giống nước ta từ sau cải cách kinh tế 1986 cho đến gần đây).
                b)Chúng ta còn nhớ, trong nửa sau của thế kỷ XX, chính quyền ở mấy nước “5 con Rồng” Châu Á, khi nền kinh tế xã hội của mấy nước này còn non yếu, rệu rã sau chiến tranh, thì một sự lãnh đạo tập trung trên tinh thần yêu nước, dân chủ và “phục quốc” đều tỏ ra có sức mạnh tập hợp tài lực của dân. Nước Nga dưới sự lãnh đạo của Lênin và đảng CS Nga thời chính sách kinh tế mới cũng có tính chất tương tự. Chính vì vậy nước Nga mới đủ sức chống đỡ sự bao vây của TBCN và cuộc tấn công của phát xít Đức hùng mạnh, hơn thế còn đại thắng, dẫn đầu thế giới cứu cả Loài người khỏi ách phát xít, và góp sức quyết định hình thành phe XHCN (thoát khỏi chiếm đóng phát xít, và tiến hành thành công cách mạng dân tộc dân chủ ở VN và TQ . . , đưa giai cấp công nhân của những nước này lên lãnh đạo). Phe XHCN đi theo mô hình một đảng độc quyền lãnh đạo kiểu Liên Xô do Stalin đứng đầu được hình thành như vậy. Stalin đã đúc kết lý luận cách mạng của Mác (QTCS I), kết hợp với những sáng kiến phát triển (QTCS III cộng với CS kinh tế mới) của Lênin, bổ sung vào những kinh nghiệm thực tiễn độc tài toàn trị quyết liệt của chính mình, Stalin đã hoàn chỉnh một học thuyết hỗn tạp, được ông gọi là CN Mác – Lênin. QTCS II được coi là “xét lại”, là “pản bội”.
                 c) Chế độ độc đảng tập quyền lãnh đạo Liên Xô không chỉ là ngôi sao sáng lấp lánh trong thế chiến II, mà còn tiếp tục toả sáng trên bầu trời toàn cầu cả trong giai đoạn phục hồi, phát triển nền kinh tế Liên Xô sau đại chiến II (như hiện tượng nhẩy vọt của kinh tế TQ gần đây), đến mức, đã có lúc các nước TBCN giật mình xem xét lại đường lối tự do cạnh tranh tư hữu TBCN của mình (Nên tại Anh, Pháp, Ý . . .đã có những đợt “bắt chước”công hữu hoá các xí nghiệp lớn . . .sau đó chính họ lại nhanh chóng dẹp bỏ quốc doanh vì không hiệu quả và tiêu cực, giống như căn bệnh “quốc doanh chủ đạo” ở ta hiện nay). Tại Liên Xô, khi cuộc sống đã bắt đầu trở nên giầu có, hoạt động và tâm lý xã hội đã trở nên bình thường , mọi vấn đề của đất nước trong đối nội và đối ngoài đã trở nên cực kỳ phong phú và phức tạp . . .mà đảng CS LX vẫn giữ nguyên đường lối lãnh đạo độc quyền, chuyên chính vô sản mất tự do dân chủ, cơ chế quản lý kinh tế xã hội vẫn tập trung, quốc doanh vẫn là chủ đạo, ý kiến xây dựng trái ý kiến lãnh đạo của đảng vẫn bị xử lý ngặt nghèo trù dập như trước. . .thì xã hội LX bắt đầu mau chóng lộn xộn, tốc độ phát triển giảm dần, tiếp đến suy thoái nghiêm trọng đạo đức xã hội, kinh tế sụt giảm thảm hại, đôi khi đã phát triển âm, rồi tự sụp đổ.
d)Nhưng tại sao khi các nước “5 con rồng” châu Á bỏ tập quyền độc đảng toàn trị thì họ lại cải cách thắng lợi thể chế chính trị sang chế độ tự do dân chủ cạnh tranh đa nguyên để tồn tại và tiếp tục phát triển, còn LX thì không ? Đó là vì tại 5 “Con Rồng”, họ đã không coi quyền lợi của đảng cầm quyền cao hơn quyền lợi dân tộc để kiên trì đường lối độc quyền cũ. Trong khi đó, LX đã không coi sự tiến bộ, phát triển và hạnh phúc của nhân dân, của đất nước là quan trọng nhất, trái lại, khi đã qua thời kỳ chiến tranh và khôi phục, họ đã quay trở lại Mác – Lê nguyên gốc và bị Stalin hoá, coi sự kiên trì (bảo thủ) không từ bỏ “ý thức hệ” Cộng sản “đấu tranh giai cấp một mất, một còn” theo QT CS I và III. của Lênin và Stalin là sống còn, tiếp tục kiên trì coi chế độ TBCN tự do dân chủ cạnh tranh đa nguyên là thù địch . . .Tiếp tục “kiên trì đối đầu, đấu tranh giai cấp một mất, một còn và chuyên chính vô sản” theo CN Mác – Lêsai lầm cốt tử nhất của LX !
              Tóm lại: Xuất phát từ Ông Mác (QTCS I), trải qua quá trình tiến hoá trong cuộc đấu tranh, đường lối cách mạng của những người vô sản trên thế giới đã phân hoá ra làm 2: Đường lối đấu tranh giai cấp hoà bình theo QT CS II  (Chủ nghĩa XH Dân chủ) do các nước Bắc Âu đại diện đã chứng tỏ đúng đắn, thắng lợi và đã tồn tại vững vàng cho đến ngày hôm nay. Đường lối đấu tranh giai cấp “đối đầu, một mất, một còn” chuyên chính độc đảng lãnh đạo do Liên Xô dẫn đầu đã được chứng minh là sai lầm và đã tan rã.
              Sở dĩ có sự tranh luận liên tục và “xét lại” về “ý thức hệ” CN Mác – Lê trong nội bộ phong trào CS thế giới chính là kết quả của những nhận thức mơ hồ lầm lẫn giữa 2 con đường (QTCS II với QTCS III) như vậy (mơ hồ giữa lý tưởng và ảo tưởng, giữa lý thuyết và thực tiễn).
             Lý tưởng “cao đẹp”, và lý thuyết “rất hay”, mà điều kiện thực tế không thể cho phép  mà vẫn cố ý ép buộc, thậm chí cưỡng bức thực hiện tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.

II - Đôi điều ngắn gọn xúc tích nhất về “cách mạng vô sản” Việt Nam:
            2.1 - Giai đoạn trước CM tháng 8.
           Các nhà cách mạng Việt Nam từ thế kỷ XX trở đi đều chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giải phóng dân tộc dành lại độc lập từ tay thực dân Pháp. Đường lối cách mạng thì khác nhau. Có xu hướng dựa vào Nhật. Có nhóm cách mạng muốn đi theo cách của Tôn Trung Sơn, (Trung quốc). Riêng Hồ Chí Minh, theo hiểu biết và tư duy chiến lược khác biệt, Người đã quyết tâm đi “tìm đường cứu nước” từ chính những nước tư bản tiến bộ nhất thời đó ở phương Tây. Từ tâm huyết chủ yếu là “giải phóng dân tộc”, “giải phóng những người cùng khổ”, Hồ Chí Minh đã tham gia thành lập đảng Cộng sản Pháp, mặc dù lúc đó Người còn rất trẻ, cũng chưa rõ lắm về mục tiêu và đương lối toàn cục của QT CS I của Các Mác. Sau đó Hồ Chí Minh đã bị hút ngay vào QTCS III do Lênin thành lập, bởi Người thấy trong cương lĩnh mục tiêu của QTCS III có nêu mục tiêu thành phần“giải phóng các dân tộc thuộc địa”, đáp ứng đúng mục đích “đi tìm đường cứu nước “ của Người...Đó là lý do vì sao Hồ Chí Minh rời Pari đi Moscou (chứ không sang Thuỵ Điển), là lý do vì sao con đường cách mạng của Hồ Chí Minh, cũng là của CM hiện đại Việt Nam có dính đến CN Mác – Lê, đến QTCS III.do Liên Xô dẫn đầu.
            Không đi sâu chi tiết, sau đây chỉ nêu tư tưỏng đường lối cuối cùng của Hồ Chí Minh, tư tưởng đã dẫn đến tinh thần bản Tuyên ngôn lập nước năm 1945 và bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946, không có bóng dáng Mác – Lê một tý nào. Chúng ta biết rằng, Hồ Chí Minh đã từng sống nhiều năm và trực tiếp nhận thức được tinh thần tự do, dân chủ, nhân quyền, cạnh tranh tư sản ở rất nhiều trung tâm TBCN, thông qua sự giao tiếp với rất nhiều loại người thuộc nhiều giai cấp trong thế giới tư bản. Sau đó khi sang Moscou, Người lại qua đào tạo, nghiên cứu, công tác, trải nghiệm tường tận trực tiếp thực tế những gì đã xẩy ra tại nước Nga dưới chính quyền Xô viết. Rõ ràng, cùng với những bài viết, câu nói chứ danh của Người về tác phẩm của Mác (ví dụ “sự chưa toàn diện và bao quát tình hình vô sản và nội dung đấu tranh giai cấp trên thế giới”, hay “muốn đoàn kết tập hợp lực lượng giành độc lập tư do mà đấu tranh giai cấp là một điều ngu ngốc”), cùng với hiện tượng QTCS III (Stalin) đã cử người tịch thu “đề cương cách mạng dân tộc dân chủ” của Hồ Chí Minh (vì không nghiêm chỉnh tuân theo đường lối “đấu tranh giai cấp một mất một còn”, không chủ trương “xây dựng nhà nước Xô viết chuyên chính vô sản”, không tuân theo đường lối độc đảng vô sản duy nhất lãnh đạo . . . như ở Nga, (QT CS III)).Hơn thế, chính phủ đầu tiên do Hồ Chí Minh thành lập 1945 bao gồm hơn một nửa là nhân sĩ trí thức yêu nước không “cộng sản” với Hiến pháp 46 theo mô hình Mỹ, Pháp. Vậy bản chất tư tưởng đường lối gốc rễ của Hồ Chí Minh là gì ? “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân”, “không phân biệt giầu nghèo, giai cấp, tôn giáo, dân tộc, chính kiến”, chủ trương thành lập “Đảng toàn dân- Đảng Việt Nam”, “chính quyền và chính phủ liên hiệp đoàn kết toàn dân để dành độc lập và lãnh đạo xây dựng đất nước Việt nam. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy nhân đạo, tự do, dân chủ giống như tư duy của Mác, nhưng đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh hoàn toàn không phải đường lối Mác – Lê phân chia và đối đầu đấu tranh giai cấp theo mô hình Liên Xô, mà là đường lối lấy dân làm gốc. !
            2.2 - Giai đoạn sau cách mạng tháng 8:
              Bị đuổi khỏi Đông dương, thực dân Pháp điên đầu, lại chưa có đủ thông tin tình báo và không còn đủ sáng suốt để nhận ra tư tưởng đường lối gốc rễ “phi đấu tranh giai cấp một mất một còn” của Hồ Chí minh. Nước Pháp đã bỏ lỡ lời đặt vấn đề của Hồ Chí Minh để nước VN độc lập tham gia Liên hiệp Pháp. Bị Pháp phản bội hiệp định 6 tháng 3, nổ súng khởi động cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất để chiếm lại VN. Dù “Việt Minh đã dũng cảm tham gia với đồng minh, với quân Mỹ, chống quân phiệt Nhật”, Mỹ vẫn đinh ninh chính phủ Hồ Chí Minh là chính phủ cộng sản mô hình Stalin. Đây là nhận định sai lầm chiến lược quan trọng nhất của Mỹ về CM Việt Nam. Vì vậy, cái thế cờ đó bắt buộc Hồ Chí Minh không thể không dựa hẳn vào Liên Xô và sau 1949 là dựa vào cả TQ, để kháng chiến chống Pháp  bảo vệ độc lập, và sau đó là chiến tranh chống can thiệp Mỹ dành lại sự thống nhất đất nước.
                Trong cái thế cờ bị động chia ra hai trận tuyến đấu tranh “ý thức hệ’ như vậy (một bên là Miền Bắc bị buộc phải dựa vào phe XHCN, bên kia là Miền Nam dựa vào phe TBCN), Hồ chí Minh không còn có thể thực thi tư tưởng đường lối gốc rễ ban đầu của mình (như đã tuyên bố trịnh trọng trong Tuyên ngôn lập nước và Hiến pháp 46). Từ đó, hầu như toàn bộ việc đào tạo cán bộ cốt cán cho chiến tranh, đã đành, và hầu như toàn bộ đội ngũ cốt cán của đảng, quản lý hành chính nhà nước và phát triển kinh tế- xã hội đã được Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ lên “khuôn” y như mô hình XHCN kiểu Liên Xô và kiểu “Mao Trạch Đông”của TQ, trong đó đầu tiên là tinh thần, tư tưởng đối đầu giai cấp “ý thức hệ”,“kiên định” CNXH kiểu LX. Bây giờ có thể nói, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình rất có hiệu quả của LX và TQ cho thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ và thống nhất đất nước ta, thì đã kèm theo hậu quả lại là VN, Hồ Chí Minh không thể thoát ra được cái “vòng kim cô” “kiên định” thể chế chuyên chính vô sản đấu tranh giai cấp một mất một còn QT CS III do Lênin và Stalin đạo diễn và xây dựng. Hồ Chí Minh thực tế đã phải dựa vững chắc vào bộ máy “chuyên chính vô sản” đang tồn tại, nhất là khi Người đã có tuổi, để thực hiện mục tiêu chính yếu, đến mức, đôi khi người ta đã hiểu nhầm Người qua một số biểu hiện trong thực tế diễn biến cách mạng VN ,khi nào mà CM Việt Nam xa rời đường lối tư tưởng thật sự của Hồ Chí Minh đều phạm phải sai lầm (ví dụ sai lầm trong CCRĐ và triệt phá công thương nghiệp tư nhân, nhân văn giai phẩm, chống “diễn biến hoà bình”, dẹp và bắt người biểu tình chống TQ xâm lược . . .)
              Tóm lại đoạn này: Do cuộc đấu tranh “ý thức hệ” Mác – Lê trên thế giới lên cao trào đúng lúc cách mạng VN phải có chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và thống nhất đất nước rất chênh lệch về lực lượng, Hồ Chí Minh đã bị động phải dựa vào và buộc phải chấp nhận sự thâm nhập và tiêm nhiễm nặng cả về “ý thức hệ” lẫn thể chế chính trị chuyên chính vô sản kiểu Stalin (CN Mác – Lê) mà Người không hề mong muốn. Hậu quả việc bị động phải vận dụng thể chế mất dân chủ độc đảng toàn trị theo mô hình LX kéo dài cho đến nay đã tạo ra những sai lầm khuyết điểm và tình trạng suy thoái đạo đức xã hội nghiêm trọng (giống như LX trước khi sụp đổ) mà toàn dân, toàn đảng ta đang phải gò mình ra khắc phục hiện nay..
                   2.3 - Thực chất của khái niệm “diễn biến hoà bình” là gì?
Biết rằng, CN TB có nhiều ưu việt so với CN Phong kiến và CNXH kiểu Liên Xô cũ, nhưng CNTB cũng có rất nhiều những khuyết tật, như Mác đã phân tích.  Khi QT CS II được triển khai ở các nước Bắc Âu thì những người theo QTCS I và III , tức là theo Liên Xô, Trung Quốc khi đó đã cho QTCS II là xét lại, là phản bội, thậm chí còn nguy hiểm hơn cả “kẻ thù giai cấp” !. Vì vậy, đối với các đảng CS, như ĐảngCS Việt nam đã theo mô hình Liên Xô thì đương nhiên cũng rất căm ghét những tư tưởng và hành đồng muốn “Diễn biến hoà bình” sang TBCN hay sang mô hình các nước theo QTCS II Bắc Âu. Đấy là nguồn gốc của “chống diễn biến hoà bình” về mặt lý luận, về “ý thức hệ”..Trên thực tế vấn đề diễn ra ở nước ta có hai khuynh hướng: Một bên, Đảng và Chính pủ rất muốn chống sự lây nhiễm những gì được coi là khuyết tật có thật của TBCN , mà nay bên TBCN vẫn còn đang phải đấu tranh để lọai bỏ. Một bên khác trong dân chúng, lại rất muốn ngay hiện nay cần du nhập (diễn biến hoà bình) những ưu điểm của CNTB, mà chính ông Mác cũng đã thừa nhận. Đó là chỗ chưa gặp nhau giữa Đảng và Chính phủ với những người Việt chân chính muốn đấu tranh cho tự do dân chủ. Vì theo thể chế độc đảng toàn trị, cứ “khác ta là địch” nên khắp nơi, bất cứ đâu, hễ thấy ai nói khác đường lối chủ trương và những quan niệm của Đảng và Chính phủ, là bị coi là địch. Đấy là nội dung chính yếu của cuộc đấu tranh ”chống diễn biến hoà bình”. Phần không chính yếu nhưng cần thiết trong “chống diễn biến hoà bình” là đấu tranh chống sự lan toả những khuyết tật thực có của CNTB vào Việt nam do sự kém hiểu biết, do lợi ích của các phần từ và các nhóm lợi ích bất chính khác nhau trên đất nước ta. Dịp góp ý kiến cho sửa đổi Hiến pháp lần này chính là dịp rất tốt để Đảng, Chính phủ và Nhân dân cùng nhau làm rõ bản chất những mặt đúng, và những mặt chưa đúng của nội dung “chống diễn biến hoà bình” hiện nay.
            Tóm lại, ta không nên vơ đũa cả nắm rằng, hễ cứ “Diến biến hoà bình”, cứ chính trị, xã hội “tư bản” là đều sai lầm , đều xấu và phải chống lại.
               2.4 - Tại sao hiện nay đảng ta vẫn chỉ nhấn mạnh học tập đạo đức Hô Chí Minh, mà không nhấn mạnh cả học tập tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh.
             Rõ ràng, CN Mác – Lê đã mất tín nhiệm trước cộng đồng thế giới.Tuy nhiên, vì mấy lý do sau đây đảng ta còn dụt dè trong việc nêu ra và tuyên truyền có mức độ tư tưởng Hồ Chí Minh, và chưa mạnh dạn gác bỏ CN Mác – Lê sang một bên:
              1/Sự lựa chọn khó khăn giữa dân chủ đa nguyên và tập trung độc quyền trong xây dựng hoà bình với điều kiện tình hình dân trí, quan trí còn khá thấp, kể cả trình độ non kém (tất yếu) trong bộ máy lãnh đạo quản lý cấp cao, (những công dân chân chính, yêu nước thương nòi mà chưa được cung cấp đủ tri thức và thông tin thì vẫn có thể sai lầm trong lá phiếu lựa chọn), lại trong điều kiện khách quan của thế giới rất phức tạp (nhiều thế lực chống đối trong và ngoài nước có thể dùng tiền và các áp lực khác làm méo mó kết quả đúng đắn tự do dân chủ đa nguyên nghiêm chỉnh)., Thực tế đó chưa cho phép đảng ta vội vã thực hiện đầy đủ tư tưỏng đường lối Dân chủ đa nguyên Hồ Chí Minh trong điều kiện tuy đã hoà bình hiện nay
               2/  Do vẫn chưa từ bỏ được lý luận CN Mác - Lê: Giai cấp công nhân – do bị bóc lột thậm tệ nhất – nên là giai cấp cách mạng nhất, lại là giai cấp có lý luận khoa học nhất, sáng suốt nhất (vì là có CN Mác – Lê) dẫn đường! Điều đó cho đến nay có đúng hay không ? Rõ ràng là không còn đúng. Bởi trên thế giới, tại những nước tư bản tiên tiến, giai cấp công nhân đã yên tậm sống với chế độ đa nguyên, đa đảng, yên tâm tham gia đấu tranh trên nghị trường và các phương thức dân chủ khác cho quyền lợi tương xứng với sự đóng góp của giai cấp mình. Còn ở ta, qua nghiên cứu thống kê vừa công bố, thì giai cấp có số lượng đông nhất và mức sống cũng thấp nhất nước hiện nay vẫn là nông dân, đồng thời họ - nông dân – vẫn tiếp tục là lực lượng cách mạng đông đảo nhất nước ngay hiện nay. Như vậy, 2 yếu tố quan trọng nhất mà Đảng ta vẫn coi giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam là không có cơ sở khoa học. Nhưng nếu đề cao tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh lại không theo học thuyết phân chia và đối đầu giai cấp, không coi giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng, thì cái đường lối đấu tranh chống đa nguyên đa đảng sẽ sụp đổ hay sao ? Đây là chỗ vướng nhất mà bộ phận lãnh đạo cao nhất của Đảng ta – vừa vì quán tính, vừa vì sự hạn hẹp về trí tuệ, lại sai lầm cho rằng bỏ Mác Lê sẽ mất vị trí lãnh đạo – nên chưa vượt lên được.;
                3/ Dư âm quá khứ còn rất nặng nề, còn vương vấn sâu nặng công ơn sự giúp đỡ của LX và TQ trước đây – tức là còn nhớ “công ơn bắt nguồn từ CN Mác Lê” (mà không biết rằng, sự giúp đỡ đó cũng là có đi, có lại.)
Thông qua cuộc góp ý kiến cho dự thảo HP lần này là dịp tốt để toàn Dân, toàn Đảng ta thúc đẩy việc làm rõ, chuẩn bị điều kiện và sẽ nhất trí chính thức từ bỏ hẳn CN hỗn tạp Mác –Lê, chỉ lấy tư tưởng đường lối sáng suốt của Hồ Chí Minh và những tinh hoa của nhân loại làm nền tảng tư tửơng và kim chỉ nam cho cách mạng VN..Lúc đó, cùng với chủ trương làm trong sạch Đảng hiện nay, thì vị trí lãnh đạo của Đảng sẽ được củng cố vững chắc hơn.
              Tóm lại: Khi mọi người, kể cả các đảng viên Cộng sản, tất cả chưa trở thành Thánh, hay Phật hết, thì điều khiển xã hội bằng cạnh tranh Tự do Dân chủ, công khai, minh bạch – như xã hội tư bản vẫn thực hiện - nhưng lấy Dân làm gốc, coi Dân là chủ, chứ không phải các nhà tư sản là chủ - , có sự chọn lọc, điều tiết và giám sát  chặt chẽ của nhân dân là phù hợp hơn cả. Đó là kết luận chung quan trọng nhất khi rà lại cuộc cách mạng vô sản trên thế giới và trong nước ta từ xưa cho đến nay. Từ đó rút ra những kết luận sau:

              1/ Cần khẳng định: Chủ nghĩa Mác – Lê chưa thắng lợi ở đâu cả, nay đã lạc hậu, cần dứt khoát từ bỏ. Tư tưởng đường lối cách mạng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, đã thắng lợi ở Việt Nam và đang là xu thế của thời đại,
               2/ Trước đây, trên phạm vi toàn quốc, thông qua tự do “cạnh tranh yêu nước” ngay từ thời kỳ hoạt động bí mật còn thuộc Pháp và các thời kỳ chiến tranh gian khổ bảo vệ tổ quốc. . . đảng Cộng sản VN đã chứng tỏ là một tổ chức chính trị mạnh nhất, có tổ chức nhất, đã cống hiến lớn nhất cho thắng lợi của CM Việt Nam. Vì vậy, Đảng CS đã được toàn dân tin cậy chọn lọc giao phó, và đến nay tuy “một bộ phân đáng kể” hậu duệ của Đảng mắc nhiều sai lầm khuyết tật, nhưng nếu sáng suốt thay đổi đường lối và làm trong sạch đảng, thì Đảng CS VN hiện nay vẫn còn tạm đủ tín nhiệm để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Dân tộc.
               3/ Cách mạng XHCN của VN và trào lưu tiến hoá của thế giới văn minh đòi hỏi Đảng CS VN phải từ bỏ tận gốc CN Mác – Lê nhiều sai lầm, từ bỏ chế độ độc đảng toàn trị mất dân chủ hiện nay, để tự lột xác thành một đảng Dân chủ, Tự do, văn minh tiến bộ - Đảng toàn Dân - , lấy Nhà nước pháp quyền đầy đủ “của Dân, do Dân và vì Dân” làm mục tiêu cải cách.
                4/ Đảng CS Việt nam cần nhận trọng trách cao quý và duy nhất là lãnh đạo cuộc cạnh tranh tự do dân chủ chọn lựa công khai minh bạch có điều tiết và có kiểm soát trong xã hội Việt Nam vì mục tiêu Dân giầu Nước mạnh, Tự do, Dân chủ,Công bằng, Văn minh (XHCN chân chính). Để làm việc đó kết quả, cần tuân theo tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc, thực thà biến Đảng CS VN hoàn toàn thành đảng của toàn dân tộc, trực tiếp đứng ra cầm quyền dưới sự lựa chọn và kiểm soát của Nhân dân cả về chính sách và nhân sự theo Hiến pháp và luật về Đảng.
            5/Để quá trình phát triển của Đất nước được ổn định và tiếp tục thu được những thắng lợi mới to lớn, chúng ta không cần nhấn mạnh ngay cải cách trực tiếp bộ máy và nhân sự trước (vì nếu nóng vội, hấp tấp sẽ dễ lộn xộn và nhầm lẫn, dễ tạo nên một sự bất công, thiệt thòi  mới trong xã hội), mà bắt đầu ngay cải cách triệt để tư tưởng đường lối, lấy tư tưỏng đường lối Hồ Chí Minh và Hiến pháp năm 46 làm cơ sở nền tảng của cải cách. Điều quan trọng trong đường lối Hồ Chí Minh là Đảng CS VN không độc quyền lãnh đạo, Đảng có thể trực tiếp cầm quyền, từ đó, lấy phiếu tín nhiệm nhân sự bộ máy chính quyền, tức cũng là lấy phiếu tín nhiệm cán bộ cầm quyền của Đảng để thực hiện chọn lọc tự nhiên, và phải có cơ chế kiểm soát quyền lực của Đảng và Nhà nước bằng luật của Nhân dân, chứ không quy định chung chung như Hiến pháp 92, và dự thảo Hiến pháp 2013 đã đưa ra. Điều cốt yếu là cần có Toà án Hiến pháp do Dân trực tiếp chủ trì.
6/ Bộ Chính trị TƯ Đảng vừa qua đã đứng bên bờ sự mất tín nhiệm, vì vậy cần phải dũng cảm cương quyết kiện toàn để có thể tiếp tục đảm nhiệm tốt chức năng nhiệm vụ nặng nề mà toàn Dân và toàn Đảng trao cho.
               7/ Chúng ta đã nhiều lần phải “chờ” Trung Quốc rồi. Hiện nay điều kiện trong nước và thế giới đã chín muồi, đừng để lần này lại vẫn phải chạy theo sau người anh em láng giềng lắm mưu nhiều mẹo.
                8/ Đảng ta hãy cương quyết và dũng cảm từ bỏ trạng thái lập lờ “đầu Ngô, mình Sở” (Đầu CN Mác – Lê, mình CNTB). Hãy hợp tác liên kết chặt chẽ hữu nghị chân thành theo tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh với các nước TB tiên tiến, cùng nước Nga bạn bè thắm thiết, kể cả bộ phận văn minh tiến bộ của Trung Quốc vĩ đại . . .để cùng họ phấn đấu hoà bình tiến lên Chủ nghiã Cộng đồng như Mác đã hình dung sau đây vài ba thế kỷ !

                  III - Những sự nhầm lẫn đáng tiếc
            Trong cuộc cách mạng hơn nửa thế kỷ của nhân dân ta, cũng như trong dịp góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp hiện nay, ngoài những mặt được, những thành tích to lớn, chúng ta thường gặp những nhầm lẫn, làm cho khó nhất trí, tạo sự mất đoàn kết , thậm chí quy chụp găy gắt không cần thiết trong nội bộ nhân dân và nội bộ Đảng. Nhẹ thì là mơ hồ nhầm lẫn trong ngôn từ, ví như đã từng xẩy ra, chẳng hạn “khu phố” và “phường”, “công an” và “cảnh sát”, “thất nghiệp” và “không có việc làm”, “công chức” và “cán bộ”, “Tổng thống” và “Chủ tịch nước”, “Nghị viện” và “Quốc hội”    . . Bây giờ đến những khái niệm chính trị, xã hội, luật pháp phức tạp hơn, sự tranh luận hầu như cũng thường chỉ loanh quanh về hình thức hoặc nội dung phụ của ngôn từ. Ví dụ khái niệm “xã hội dân sự” và các “Đoàn thể xã hội”; “tam quyền phân lập”, và khái niệm “có phân công và kiểm soát của ba quyền”, thì thực tế bản chất nó đều nói về cùng một nội dung. Cái khác căn bản là chúng phụ thuộc và phục vụ ai ? Nhân dân nói chung hay chỉ một vài nhóm quyền lực và lợi ích nào ! Nếu trong đầu chúng ta lúc nào cũng nghĩ rằng XHCN là tươi đẹp, hơn hẳn TBCN, thì hễ cứ thấy cái gì của TBCN là ta không muốn “chung đụng”, thậm chí còn tìm cách giải thích khác đi,“moi móc” kỳ được những khiếm khuyết của chúng ra để bài bác, tìm kỳ được những chi tiết khác biệt , thậm chí bịa đặt ra nhằm chứng minh rằng ”ta” là đúng hơn, hay hơn, vì dân, vì nước hơn ! Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chúng là nói và viết không đi đôi với nghĩ và làm !
            Vì đã đề cập đến sự hơn - kém, thì ta nên xét một cách tổng thể, đầy đủ. Sự hơn hẳn của các nước tư bản so với các nước “XHCN”, trong đó có chúng ta, về mặt năng suất lao động (tiêu chuẩn để Lênin đánh giá, khi nào thì XHCN hơn tư bản), rồi thu nhập bình quân đầu người, khoa học công nghệ (đã rõ), giáo dục đào tạo (vì ai có điều kiện, kể cả lãnh đạo ta và TQ, đều muốn cho con em sang tư bản học (nay cần gộp cả Nga vào “phạm trù” phương Tây ). Chỉ cơn đấy thứ thôi, đã đủ chứng tỏ xã hội tư bản hơn hẳn XHCN hiện nay rồi. Còn những gì xấu xa đang xẩy ra ở một số nước tư bản, cũng như ở chúng ta, nên coi đấy là những trở ngại và khuyết tật nẩy sinh trong quá trình phát triển của họ, và của chúng ta. Nhưng có phải ngay từ đầu, người dân bên các nước tư bản đã có kỷ luật, thông minh và giỏi hơn nhân dân chúng ta ? Có phải người dân và công chức bên các nước tư bản ngay từ đầu đã không ích kỷ, không tham lam, tham nhũng ?  Hoàn toàn không phải. Điều quan trọng là bởi họ đã đấu tranh để thoát khỏi chế độ phong kiến độc quyền vua quan toàn trị trước chúng ta hàng mấy thế kỷ để phát triển TBCN, là bởi họ khi tiến lên tư bản chủ nghĩa, họ đã đấu tranh chọn lọc đúng thể chế chính trị tự do, dân chủ,cạnh tranh đa nguyên, thị trường công khai, minh bạch trước chúng ta. Họ cũng đã qua những thời kỳ rất đen tối trong mò mẫm, tìm tòi, thậm chí cũng chiến tranh tàn khốc tranh giành đất đai, tài nguyên, quyền lực, cũng có cả nội chiến thống nhất đất nước, dần dần họ đã nhận ra cần phải làm gì cho tốt hơn (không tự trói buộc vào một “định hướng” mắy móc nào). Thêm nữa: Ngày Quốc tế lao động và ngày Phụ nữ quốc tế mồng 8 tháng 3, và nhiều sáng kiến cộng đồng khác. . .đều xuất sứ từ phương Tây TBCN; Hiến chương LH quốc, Tuyên ngôn nhân quyền cũng đến 70-80 % sáng lập viên là từ thế giới tư bản . . .Hồ Chí Minh đã đi tìm đường cứu nước và đã ưng chọn thể chế tự do dân chủ đa nguyên phương Tây. Ông Mác ông Lênin, dù đúng sai thế nào,cũng là từ phương Tây mà ra và đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển lịch sử. . . Trong khi đó, cuối thế kỷ trước, nếu không có sự cản trở của ông bạn vàng XHCN bên cạnh, thì thắng lợi của Việt nam đã diễn ra thuận lợi hơn, và gần đây, nếu không có áp lực của Mỹ, Nga và các nước tư bản khác (đừng phủ nhận thực tế này), thì không hiểu anh bạn vàng XHCN có để chúng ta yên như hiện nay ? !
            Nay ta tiến sau, không nên tiếp tục nhầm lẫn, u mê, “kiêu ngạo cộng sản”, tiếp tục “đối đầu”, tranh hơn, tranh kém với các nước tư bản tiên tiến nữa. Nên chân thành, xây dựng học hỏi những cái hay, cái tốt đi trước của họ. Điều đó không chỉ là thiết thực làm tốt cho mình, đỡ tranh luận lý luận nhầm lẫn, mà còn tránh được mâu thuẫn nội bộ, đoàn kết được dễ dàng hơn với thế giới văn minh, theo đúng tư tưởng đoàn kết, hợp tác vĩ đại của Hồ Chí Minh.
            Bây giờ xin nói thêm một chút.. Ví dụ, đang có sự tranh luận rôm rả, thậm chí quyết liệt về “Điều 4” và có cần ghi “Quân đội trung thành với đảng” hay không. Thực ra, bản chất vấn đề nằm ở chỗ khác:Ở chỗ là đảng CS có tiếp tục giữ được tín nhiệm, tiếp tục xứng đáng lãnh đạo nhân dân và xứng đáng được quân đội nhân dân bảo vệ hay không ! Muốn vậy thì, một mặt, HP phải ghi rõ những điều có thể giúp đảng không độc quyền toàn trị mất dân chủ để dễ vi phạm sai trái, đứng trên nhân dân, trên HP, mặt khác, trong thực tế, tổ chức đảng phải trở nên trong sạch, vững mạnh để luôn luôn giữ vững tín nhiệm trong Dân.(Xin xem chủ đề này tại bài III)
IV - Quá trình chuyển đổi từ cũ sang mới nên thế nào ?
             4.1 - Nên nhớ: Ngay giờ phút này, nhân dân ta vẫn thừa nhận đảng CS VN là lực lượng chủ yếu đủ sức mạnh vật chất và tư tưởng để tập hợp nhân dân xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi cần thấy rõ, nắm chắc điều đó để đừng hoảng hốt, lo ngại mà lại sai phạm thêm ! Hiện nay trên đất nước ta đang có bốn nhóm tư duy chính: 
            1/Nhóm kiên định đường lối Mác - Lê, phương pháp cũ là chuyên chính vô sản; 
           2/ Nhóm hai, quan tâm rất nhiều đến sai lầm khuyết tật nặng nề của CNXH cũ, không tin đảng có thể khắc phục được đường lối sai lầm và làm trong sạch nội bộ trở lại, nên muốn nhân dịp này “cách mạng lật đổ” luôn, dứt điểm ngay; 
            3/ Nhóm ba: Ta đang có đủ điều kiện và thời cơ để cải cách mạnh mẽ, khẩn trương , tự giác ngộ từ trên xuống, theo tư tưởng đường lối và đạo đức Hồ Chí Minh nhằm làm cách mạng thực sự, Đảng CS vẫn lãnh đạo, nhưng vẫn giữ được ổn định xã hội , như vậy ta mới bảo toàn đủ lực lượng để bảo vệ đất nước, sẽ không chậm bước so với các nước khác và trào lưu quốc tế; 4/ Cuối cùng là nhóm khá đông , tuy cũng có thể thấy vấn đề, nhưng “trung lập”, vì lợi ích cá nhân, sợ mất chức quyền và lợi ích kinh tế nên cố thủ , “bảo hoàng hơn vua”   
              Tôi tự cho mình là thuộc nhóm thứ ba (nên bị một số bạn bè coi là cải lương !?) Để thực hiện được định hướng của Nhóm này, chúng tôi đã chọn chủ trương giải pháp hoạt động như sau: Cần nhanh chóng nâng cao dân trí, quan trí, đảng trí. Ba mũi giáp công tác động vào đại chúng, vào lãnh đạo cao nhất, và vào những người có quyền dơ tay bỏ phiếu chọn chủ trương đường lối chính sách và nhân sự trong lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tức là các TƯ uỷ viên và Đại biểu QH..
4.2 - Đ/C Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch QH cũng đã phải nói, đại ý “nếu kỷ luật tất cả thì lấy ai làm việc ? ”. nghĩa là nếu thay ngay tất cả những cán bộ đảng viên sai lầm khuyết tật thì không có đủ người thay, như thời Lênin mới lật đổ được chính quyền của Nga Hoàng. Hơn nữa, ta không nên đẩy cả “một số lớn” cán bộ của Đảng và chính quyền sang phía đối lập với tiến bộ và xu thế của thời đại, mà cần làm sao để chính họ nhận ra và cùng toàn dân tự tiến hành cách mạng, có như thế mới đảm bảo thắng lợi chắc chắn, an toàn cho cả Dân tộc.
Hà Nội, ngày 10,3,2013
------------------------------------
            B. Bài II
Dân rất muốn giúp Đảng tự cứu lấy mình,
để tiếp tục lãnh đạo đất nước!
            Xin kính gửi các Đ/C lời chào rất kính trọng. Sau đây, tôi xin tự giới thiệu, nêu nhận thức của tôi và nội dung kiến nghị TƯ.
1. Tự giới thiệu (đã lược bỏ).
2. Nhận thức về tình hình:
               2.1 - Nhân dân ta không chỉ nổi tiếng anh hùng, cháy bỏng khát vọng độc lập tự do, mà là rất đặc biệt: Khi có đường lối lãnh đạo đúng, có thể làm nên những sự nghiệp thật vĩ đại, không chịu khuất phục trước bất cứ khó khăn, kẻ thù nào, đã đóng góp rất xứng đáng với lịch sử tiến hoá nhân loại và đã trở thành một đất nước rất nổi tiếng, được thế giới một thời hết lời ca ngợi và tôn trọng. Bởi vì: VN đã chặn đứng và làm phá sản làn sóng xâm lược tàn bạo của Quân Mông tràn khắp hai châu lục Á - ÂU; Dù bị phong kiến phương Bắc xâm lược đô hộ hàng ngàn năm, vẫn nhiều lần kiên cường bất khuất chống lại và cuối cùng đã đứng lên tự dành lại độc lập và bản sắc dân tộc; Đã dẫn đầu phong trào đấu tranh tự giải phóng và làm tan rã hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới; Đã giữ vững biên giới.phe XHCN trong đụng đầu găy gắt quyết liệt giữa 2 phe ý thức hệ trong chiến tranh lạnh thế kỷ XX, và đã vượt qua mọi ý đồ ngăn chặn của một số nước lớn, không chịu “trở về thời kỳ đồ đá” để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại thống nhất nước nhà; Từ bùn lầy nghèo khó, lạc hậu, từ tan hoang đổ nát do bị tàn phá nặng nề trong mấy chục năm chiến tranh, đã hiên ngang đứng lên, hội nhập thành công với thế giới văn minh, bước đầu rất tự tin gia nhập hàng ngũ đoàn thuyền trưởng của con tầu toàn cầu ! Trong sự nghiệp vĩ đại đó, từ giữa thế kỷ XX, có công lao rất to lớn của Đảng Lao động (sau này là đảng CS) VN.
                2.2 - Chính sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta, của đảng ta, cùng với những nhận thức còn rất mơ hồ về thời đại mới, đã làm cho một bộ phận không nhỏ đảng viên đã quá say sưa với thành tích, đã quá tự tin, thậm chí có những biểu hiện tự mãn, tự kiêu cộng sản: Vì vậy, mặc cho phần chủ yếu của phe XHCN, đặc biệt là ngay cái nôi của CM tháng 10 Nga vĩ đại, cũng đã nhận ra sai lầm nặng nề của CN hỗn tạp Mác – Lênin - Stalin, của thể chế chính trị theo mô hình Liên Xô cũ sai lầm. Nếu chỉ là sai lầm nhất thời trong đổi mới cải cách của ban lãnh đạo LX cũ, đứng đầu là Goorbachốp như người ta từng hiểu nhầm, thì chắc chắn nhân dân Liên Xô và nhân dân các nước nguyên XHCN Đông Âu họ đã không chịu hoà bình hoà vào trào lưu tự do, dân chủ, nhân quyền trên thế giới như đã và đang xẩy ra ! Nếu CN Mác – Lênin do Lênin và Stalin tạo dựng ra mà đúng đắn, thì phong trào CS theo QT III của Lênin trên thế giới đã không suy tàn thảm hại đến mức như hiện nay, còn phong trào XH Dân chủ trên thế giới đã không phát triển vượt bậc, và CN TB thế giới đã “rẫy chết” từ lâu, không còn để mà đấu tranh mạnh mẽ chống “Chủ nghĩa tự do mới” như đang diễn ra !. Sự thiếu tri thức sâu rộng và đúng đắn của nhiều lớp cán bộ lãnh đạo, tuy anh dũng, kiên cường bất khuất, của đảng ta, đã để cho đất nước ta,, nhân dân ta, đảng ta bỏ qua biết bao thời cơ vàng (sau chiến thắng 1954, 1975, 1968, 1989 . . .) để đưa dân tộc ta đi lên văn minh hiện đại hơn hiện nay rất nhiều. Không phải dân tộc nào cũng có được một lãnh tụ tư tưởng vĩ đại anh minh, thiên tài của chính mình, như Hồ Chí Minh của chúng ta, Người đã có hẳn một chủ thuyết, khác hẳn chủ thuyết “đấu tranh giai cấp đối đầu một mất một còn, khác ta là địch”, lấy “chuyên chính vô sản” làm công cụ đàn áp nhân dân ngày càng quyết liệt để giữ quyền lực sai lầm cho đến giờ phút chót trước khi tan giã như CN Mác – Lê. Có thể nói vắn tắt: CN Mác – Lê chỉ có sức mạnh thực tế giúp giai cấp công nhân liên minh với lao động nghèo khổ một số nơi trên thế giới lật đổ được giai cấp tư sản ở những “mắt xích” còn rất non yếu của giai cấp này. 
             Giai cấp công nhân rõ ràng không đủ tri thức để tự một mình tổ chức một xã hội văn minh tiên tiến như Mác và Lênin mong muốn. “Thiên chức” xoá bỏ mọi thể chế lạc hậu hơn, xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ hơn luôn  thuộc về tầng lớp ưu tú của mọi giai cấp, mọi thành phần xã hội,mọi chính kiến, những người có trí tuệ thật sự, biết đoàn kết, đại đoàn kết, liên hợp lại thành sức mạnh vô địch của toàn cộng đồng, như bản chất đường lối tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã từng vinh dự và xứng đáng đại diện. Đây có thể là quy luật phổ biến nhất trên thế giới từ xưa cho đến nay, chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh được hầu hết những người thông thái và đại đa số các dân tộc trên thế giới kính trọng, yêu mến, đã và đang làm theo.
                CN Mác – Lê chưa từng thắng lợi ở đâu, trái lạị đã bị thế giới từ bỏ, kể cả Nga, Trung Quốc và Cu ba.Với tư tưởng, đường lối đúng đắn Hồ Chí Minh, nhân dân ta, đảng ta đã giành hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, trái lại, cứ mỗi khi đảng ta vì giáo điều, xa rời tư tưởng đường lối HCM, là chúng ta lại phạm ngay sai lầm, thậm chí rất nặng nề (Cải cách RĐ, nhân văn giai phẩm, xoá bỏ công thương nghiệp tư nhân, hợp tác hoá và công hữu hoá triệt để đất đai, và . . .bây giờ là suy thoái đạo đức xã hội, là đàn áp ý kiến của cả những cán bộ cách mạng lão thành và một bộ phân tinh tuý nhất trong giới ưu tú của đất nước, mà phần lớn trong họ lại là do cách mạng, do đảng ta đào tạo ra !)
              Có thể nói, Hồ Chí Minh đã bị buộc phải dựa vào thời thế để đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước, trong khi, một mặt thì Pháp và Mỹ không thấy được bản chất tư tưởng đường lối tân tiến (tự do dân chủ cộng hoà và nhân quyền;”Đoàn kết xây dựng đời mới mà đấu tranh giai cấp là một điều ngu ngốc”) của Hồ Chí Minh, mặt khác Người đã bị mắc vào thế kẹt trong cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu tư tưởng ý thức hệ trên thế giới, tình thế chớ trêu đã bị buộc phải dựa hẳn vào Liên Xô và Trung Quốc (cả về chật chất lẫn bị động, không kiểm soát được trong giáo dục đào tạo ý thức hệ), trong đó, cho đến tận ngày hôm nay, đến tận giờ phút này, phần lớn cán bộ đảng viên của đảng ta không hề nhận thức ra tính sách lược lịch sử bị bắt buộc đó của Hồ Chí Minh. Biểu hiện rõ nhất của sự nhầm lẫn này là , tuy đã buộc phải chấp nhận cải cách căn bản về kinh tế, về hội nhập quốc tế (có mình Sở), nhưng vẫn “kiên định” CN Mác – Lê (với đầu Ngô), cố gắng hạ thấp vị trí tư tưởng đường lối cách mạng Hồ Chí Minh, vùi dập những tư tưởng văn minh, tiến bộ của Dân tộc. Đó là sai lầm căn bản về đường lối trong thực hiện cách mạng XHCN đích thực của chúng ta hiện nay, đi ngược lại trào lưu tiến hoá của Nhân loại...Nếu chúng ta không khắc phục cho nhanh những sai lầm từ gốc hiện có, thì , một mặt, sẽ tiếp tục làm hoang mang, nản lòng, chia rẽ trong nhân dân, rất khó tạo được sức mạnh đoàn kết rộng lớn và nhiệt tình xây dựng đất nước với tràn đầy tâm huyết của toàn dân tộc như xưa, mặt khác lại tạo nguy cơ bị lạc lõng, bị biệt lập không chỉ về tư tưởng chính trị, mà sự suy thoái khá nặng về văn hoá đạo đức xã hội và kỷ cương phép nước cũng sẽ gây e ngại, thậm chí làm xa lánh, thất vọng đối với những nước văn minh muốn đoàn kết ủng hộ chúng ta, mặt khác, bằng cách đó lại vô tình tạo thêm cớ cho tư tưởng hành động chống phá chế độ, khuyến khích mưu đồ thâm hiểm của kẻ thù dân tộc ! Khi thời cơ đến mà cố tình bỏ lỡ là tội rất nặng đối với Nhân dân.
3. Kiến nghị lên Quốc hội, Trung ương Đảng, Chính phủ:
            3.1 - Trong tình hình trong nước và thế giới hiện nay, chúng ta càng cần nhanh chóng nghiêm chỉnh quay trở lại về bản chất tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh, vì đó là tâm tư nguyện vọng cháy bỏng của toàn dân và gần như là xu thế tất yếu của Thời đại: Đoàn kết, đại đoàn kết, không phân chia giai cấp, tôn giáo, giầu nghèo, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kể cả các yếu tố khác biệt với đường lối cũ của đảng, miễn là nhất trí với mục tiêu sự nghiệp các mạng, xây dựng đất nước giầu mạnh, văn minh của Dân, do Dân và vì Dân;
            3.2 - Quay trở lại tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh trong hoà bình (không cần chuyên chính, đàn áp) , ổn định và giữ vững phát triển kinh tế và hội nhập có kết quả với thế giới văn minh, dẫn đầu là Mỹ, Nga, Nhật, Ấn độ, với bộ phận Trung Quốc văn minh, tiến bộ, và với các nước tư bản phát triển khác, cùng tât cả các lực lượng văn minh tiến bộ còn lại trên thế giới.. .
            3.3 - Quay trở về tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh trong một quá trình được tính toán cẩn thận, làm sao không làm đảo lộn tổ chức và xã hội, không làm mất ổn định chính trị, tránh gây ra sự thất thiệt không cần thiết (không đáng có) của bất kỳ tầng lớp nhân dân cán bộ nào, bởi “sai lầm tích tụ lâu nay không phải của riêng ai, không do riêng ai”, và “Bộ Chính trị hiện nay cũng là nạn nhân của những sai lầm quá khứ tích tụ lại” (VDP)
            3.4 - Muốn vậy, sự quay về tư tưởng đường lối HCM cần và nhất thiết phải bắt đầu từ cấp cao nhất của đảng và Chính phủ, vì đây là những người đã tự nguyện nhận lấy và đang quyết tâm giữ lấy trọng trách cao nhất đất nước. Lấy lại niềm tin của nhân dân và của đảng viên vào sự lãnh đạo của đảng phải bắt đầu từ những tiêu chí và chỉ dấu tiêu biểu nhất của Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc, Liêm khiết, Khiêm tốn, Dũng cảm, Hy sinh, biết “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, “Lấy Trí nhân thắng cường bạo”, và phải bắt đầu từ Bộ Chính trị, TƯ Đảng.. Trên cơ sở đó Đảng và Chính phủ nghiên cứu sửa đổi HP, và nhanh chóng đi đến những chính sách cụ thể , sáng suốt trên tinh thần dựa vào “Thiên chức” của Dân.
               3.5 - Chừng nào TQ không tôn trọng những điều như TƯ hai bên đã giao kèo với nhau, thì ta buộc phải cương quyết, dũng cảm “Quốc tế hoá” vấn đề Biển Đông và phần lớn các biển đảo mà chúng ta đang sở hữu, nhưng chưa đủ sức quản lý, khai thác. Chúng ta nên nhìn chiều hướng toàn cục tất yếu của sự phát triển xã hội Loài người mà dũng cảm đi trước, dẫn đầu ! Đây cũng là “thời thế tạo anh hùng” , “biến nguy cơ to thành cơ hội lớn” cho Dân tộc Việt Nam chúng ta lại một lần nữa sẽ lập kỳ tích mới trên thế giới ! Thế hệ trẻ và Quân đội VN anh hùng đang sẵn sàng chờ đón quyết tâm dũng cảm của Đảng ! Vận nước đã đến rồi !
            3.6 - Một số gợi ý cụ thể:
1/ Hãy thực sự, thực lòng lấy ý kiến nhân dân xây dựng Hiến pháp mới, phù hợp thời đại mới của nước ta (tôn trọng nhân dân, đặc biệt là đối với tầng lớp ưu tú của nhân dân, của đảng; tránh chụp mũ, phê phán đao to, búa lớn với những ý kiến khác đường lối tư tưởng cũ của đảng và chính phủ, và hết sức tránh mưu mẹo, dối trá với nhân dân, hoặc làm câu chuyện hình thức đã rồi trong sửa đôi HP);
                     2/ Thời Hồ Chí Minh còn lãnh đạo trực tiếp, dù không có Điều 4, không có quy định “Quân đội phải bảo vệ Đảng” trong Hiến pháp, cách mạng ta vẫn đi từ hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vậy có ghi hay không ghi không phải là vấn đề gì lớn mà cần gay gắt tranh luận, đánh giá, quy kết nặng nề, hoặc thậm chí cho rằng “Bỏ Điều 4 là tự sát” (!)    Trái lại, ghi như vậy trong Hiến pháp lại dễ tạo chỗ dựa pháp lý cho những thế lực xấu xa núp dưới danh nghĩa quang minh của toàn Đảng để làm hại dân. Còn chừng nào Đảng ta nói chung đã phải dựa vào những điều này mới tồn tại an toàn, thì lúc đó, chúng ta cũng không nên mơ hồ, thiếu nhậy bén để hiểu ra rằng: Chúng ta đã hết vai trò lịch sử rồi ! Vì vậy, thay vì đấu tranh kỳ được , thậm chí mạt sát người có ý kiến khác ta để có Điều 4 và cụm từ “Quân đội nhân dân phải bảo vệ đảng” trong Hiến pháp, thì nên tập trung vào việc làm cho nhân dân tôn trọng, thừa nhận thật sự vai trò lãnh đạo của đảng như khi lãnh tụ Hồ Chí Minh còn sống,và quân đội một lòng tin theo và bảo vệ đảng mà họ không cần biết có ghi điều đó trong HP hay không ! Khi Dân đã “nổi can qua” thì cái HP không được lòng Dân sẽ chẳng còn sức mạnh để bảo vệ chế độ CS đã suy thoái (Như LX cũ, như Rumani, Ly Bi trước đây, và như Syry hiện nay);
                   3/ Là nước đi sau, hãy khiêm tốn học tập những cái hay của các nước tiên bộ đi trước. Đó là nhà nước pháp quyền đầy đủ, thị trường tự do có điều tiết và kiểm soát (như các nước phát triển đang làm), và xã hội dân sự lành mạnh (giúp nhà nước điều tiết và quản lý thị trường và đất nước nói chung có kết quả); Chúng ta cũng không câu nệ hình thức, nhưng vì đảng ta luôn muốn để Tổng bí thư lên trên Chủ tịch nước, cờ đảng để đứng trước cờ quốc gia, các khẩu hiệu vị Đảng ra mặt, như “Mừng Đảng, mừng Xuân”, mà quên vế Mừng Tổ Quốc, mừng Nhân dân anh hùng, . . . , mặt khác, về thực chất không thể giao quyền lãnh đạo toàn diện, trao quyền quyết định cuối cùng cho mọi loại cấp uỷ đảng như hiện nay, v.v…vì đó là những dấu hiệu không thuận lòng người, là sự phạm thượng của Đảng trước cha ông, trước toàn dân tộc (mà ít ai dám nói công khai) và ngược với lẽ thường trên thế giới văn minh!! Sửa ngay những cái chi tiết nhưng mang ý nghĩa biểu trưng này sẽ có thể ngay lập tức lấy lại sự tin tưởng mạnh mẽ trong lòng dân và thổi một luồng khí thế mới cho sự nghiệp đổi mới thật lòng của Đảng.
                    4/ Công hữu đất đai tràn lan như hiện nay khi luật pháp và cơ chế chưa hoàn chỉnh và nghiêm minh, thì chỉ làm mồi cho những thế lực tham nhũng tiêu cực hoành hành, dễ vi phạm nghiêm trọng quyền lợi cơ bản của người Dân.Tại sao các nước tiên tiến họ giữ được trong sạch lành mạnh hơn chúng ta ? Điều đó rất cần công khai thảo luận trên các diễn đàn của tất cả mọi giới trong nước.
                  5/ Nên nhất trí với kiến nghị của các tầng lớp ưu tú là cần có Toà án Hiến pháp. Nếu đảng mình mà công minh, chính đại, thì mình sợ gì ?! Chỉ các thế lực tham nhũng, tiêu cực, nối giáo cho giặc thì  mới sợ toà án, luật pháp và công an từ dân mà ra mà thôi.
6/ Cuối cùng, Đảng ta cần dẫn đầu, bằng hành động cụ thể, nung nấu lại nhiệt tình, tâm huyết và sự trong sáng thực sự của mọi tầng lớp nhân dân trong xây dựng đất nước như đã từng hiện hữu ở mọi lứa tuổi trên mọi miền Tổ Quốc ta trước đây.
               Tất cả những điều trên, nếu thực hiện đúng, Đất nước ta sẽ TỪNG BƯỚC, CÓ TRẬT TỰ, nhưng khẩn trương chuyển hoá đến một xã hội tốt đẹp hơn, không gây đảo lộn gì lớn như “cách mạng hoa hồng”, hay “diễn biến hoà bình” theo nghĩa xấu mà chúng ta sợ. Không những thế, nhân dân ta thậm chí lại có thể an tâm tung hô lớn Đảng CS VN, đứng đầu là Bộ Chính trị, muôn năm !
             Tóm lại, nếu toàn Đảng, TƯ đảng, và Bộ Chính trị muốn tồn tại hoà bình và được nhân dân tiếp tục tín nhiệm, ủng hộ, tôn trọng sự lãnh đạo, và bảo vệ thì phải trong sạch, thông minh, sáng suốt, nhậy bén, bớt kiêu ngạo cộng sản, bớt chủ quan, thuận theo nguyên vọng của nhân dân và xu thế tất yếu của thời đại.
Sơ lược để kịp thời mấy điều nói trên, mong các Đ/C xem xét.

Xin tham khảo thêm các tài liệu giải trình trong trang web: vids.org.vn, đặc biệt là hai bài của cùng tác giả: “Nội dung thời sự của những vấn đề thời đại” và “Nói thật rõ để an tâm sửa tận gốc”.
-------------------------
C – Bài III.
Bàn về bản chất
Điều 4 và Quân đội phải bảo vệ Đảng
(Nội dung đang được tranh luận nhiều nhất)
Về Điều 4:
            Trước đây, Đảng ta, từ lãnh đạo đến đảng viên, luôn dẫn đầu, hy sinh gương mẫu, chí công, vô tư, sẵn sàng vào sinh ra tử vì Dân vì Nước. Số đảng viên suy thoái đạo đức trước kia là rất hiếm, nói theo cách diễn tả của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, thì chỉ có khoảng một phần vạn con sâu trong một nồi canh. Vì vậy, nhân dân cũng chẳng mấy ai biết, và cần biết, có Điều 4 trong HP hay không, nhưng nghiễm nhiên hầu như toàn dân không ai bảo ai, đều thừa nhận không mảy may băn khoăn thắc mắc, rằng Đảng Cộng sản VN, là người lãnh đạo tối cao và duy nhất của mình. Ở đây cần nói thêm một chút về trí tuệ của Đảng, điều cũng dẫn đến lòng tin của Dân. Nói vắn tắt, trước đây có lãnh tụ Hồ Chí Minh, rồi có một loạt cán bộ lão thành cách mạng, được chọn lọc tự nhiên cả về ý chí kiên cường yêu nước lẫn chọn lọc về tài năng tổ chức lãnh đạo. Nếu có ai tranh chấp, tranh dành quyền lực mà không có ý chí, không đủ tài năng, thì sự chọn lọc tự nhiên khắc nghiệt của cuộc trường kỳ chiến đấu gian khổ họ cũng đã bị/ tự loại dần ra khỏi đảng và hàng ngũ lãnh đạo. Vì vậy, khi Đảng chỉ đạo toàn Dân bầu những người đại diện cho Dân vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, rồi những đại biểu nhân dân này lại cử ra Chính phủ và chính quyền các cấp, là Dân tin và làm theo ngay. Thực ra, câu chuyện “Đảng cử, Dân bầu” (thực chất là không thật dân chủ) đã có từ rất lâu, song do Nhân dân tin tưởng ở Đảng, nên dù biết vậy, Dân vẫn chấp nhận, vì trước đây “Đảng bảo đi, là đi; đảng bảo đúng, là đúng”,(đảng bảo xoá tên ai, thì an tâm xoá), vì như trên đã nói, lòng tin của Dân thông qua sự gương mẫu hy sinh và tài năng của hầu hết các đảng viên.
            Hiện nay thì sao? Chúng ta không cần nói dài, sự “suy thoái đạo đức, suy thái chính trị” trong đảng đã được các hội nghị Trung ương Đảng và ngay Đ/C TBT Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhiều lần đề cập. Nói một cách hình tượng, hiện nay “trong nồi canh của chúng ta, không chỉ có một con sâu, mà là một bầy sâu !” Hơn nữa, trong điều kiện phát triển kinh tế tại thế kỷ XXI, lại đang hội nhập vào thế giới văn minh hiện đại cực kỳ phong phú và phức tạp, tốc độ tiến hoá một ngày bằng cả năm trước kia, thì một mình những tài năng của riêng Đảng, mà lại lấy tiêu chuẩn Chính trị ra làm đầu, thì không thể đại diện, hàm chứa được tất cả những tri thức mà một đất nước đang phát triển, lại đang đứng ở “đầu sóng, ngọn gió” như nước ta, đang rất cần có. Hiện nay tình hình nước ta đang có chút gì đó “ngàn cân treo sợi tóc”giống như thời 1945 – 1946 thế kỷ trước, vì vậy lắng nghe và tập hợp rộng rãi ý chí và tài năng trong Dân là vô cùng cần thiết.
Vì vậy, sự độc quyền lãnh đạo của đảng chỉ của giai cấp công nhân là rõ ràng không còn phù hợp ! Vậy trong tình hình như thế, làm thế nào để vừa giữ vững vị trí lãnh đạo vững chắc của Đảng, vừa dân chủ phát huy tối đa tài lực của Dân, phù hợp thời đại để thực hiện được mục tiêu vươn lên của Đất nước. Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Sự lãnh đạo độc quyền của đảng ta hiện nay chính là sự độc quyền ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của mọi loại cấp uỷ Đảng, từ Bộ Chính trị, Đảng đoàn, Ban cán sự đảng ở Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, các Tỉnh . . .đến các cấp uỷ đảng ở mọi cơ sở. . . ., từ các cấp uỷ tử tế, đứng đắn, còn hết lòng vì dân, vì nước đến những cấp uỷ không còn quan tâm đến mục tiêu chính trị (XHCN đích thực), sau đó , là những cấp uỷ đã “suy thoái đạo đức và chính trị !” chỉ đại diện cho “quyền lợi nhóm”, cuối cùng đến những cấp uỷ gồm đa số các cấp uỷ viên là những con sâu !Cho nên, trong tình hình thực tế hiện nay, đảng ta không nên máy móc, giáo điều, kiên trì xử lý theo kiểu CN Mác – Lê cũ, yêu cầu nhân dân phải nghiêm túc chấp hành mọi nghị quyết của mọi loại cấp uỷ Đảng, vấn kiên trì quan điểm:  khác ta là địch , mà phải chấp nhận vận dụng sự  “quá độ” cần thiết!
Hãy tìm cách xử lý trạng thái nửa vời này. Nếu theo hoàn toàn mô hình đa nguyên, đa đảng của Hồ Chí Minh năm 1946 thì cũng chưa ổn, vì luật pháp, dân chí và quan trí, cũng như trên thực tế chưa có sự chuẩn bị những điều kiện khác cần thiết cho một xã hội đa nguyên, chưa thích hợp với điều kiện chủ quan và khách quan hiện đại và rất phức tạp hiện nay. Theo tôi, có thể chọn một trong 2 cách “quá độ” sau đây :
1/ Đảng tự quyết định dứt khoát rằng (như đã từng nói, từng viết), đảng chỉ lãnh đạo bằng đường lối chung, tổ chức nhân sự và sự gương mẫu của các đảng viên. (Chú ý: Không bao gồm vào đây những chính sách cụ thể, rất dễ bị lợi dụng hoặc sai lầm, nếu chỉ do tổ chức Đảng quyết định) Bây giờ cần quy định rõ lãnh đạo đường lối và nhân sự chỉ đến cấp nào, ví dụ chỉ đến cấp trung ương, chính phủ thôi, nơi có trí tuệ tập trung cao, trong khi, với kết quả đổi mới như đang tiến hành, thì mọi sai lầm, các tiêu cực, lợi ích nhóm rất khó qua mắt toàn dân, toàn quốc, toàn Đảng. Còn từ các cấp Bộ và Tỉnh trở xuống, thì Hội đồng Nhân dân và các cấp lãnh đạo chính quyền phải tự chịu trách nhiệm, có quyền quyết định cuối cùng, sau khi tham khảo ý kiến tư vấn của bên cấp uỷ. Nói khác đi là, nếu ghi như dự thảo, là muốn rằng, nếu Đảng lãnh đạo (qua nghị quyết Đảng) mà sai (trên thực tế điều đó đã có) thì nhân dân vẫn phải làm theo, nếu không nghe là vi phạm Hiến pháp ? !
2/ Phương án hai:Vì Đảng thực chất đã là đảng toàn dân rồi, thì nên để cho nhân dân bầu chọn toàn bộ các cấp uỷ một cách công khai, dân chủ, đảm bảo những đảng viên đó đã được nhân dân lựa chọn chính thức, và cũng được hủy bỏ chính thức quyết định bầu chọn của mình, nếu có cấp uỷ viên nào sai trái, hoặc không còn đủ tiêu chuẩn. Sau đó, khi đó Đảng lại có thể thực hiện bước hai là “Đảng cử, Dân bầu” đối với các cơ quan nhà nước, cách đó, khi đó  cũng tạm chấp nhận được, không có gì sai trái với đường lối tự do dân chủ lắm, trên tinh thần đảng đã là đảng toàn dân rồi, lúc này, nếu đảng sai, là toàn Dân cùng chịu trách nhiệm.

Về Quân đội phải bảo vệ đảng:
            Tôi rất thông cảm với những đ/c nào chân thành lo lắng về sự an toàn của chế độ và của đảng. Ở đây có 2 khía cạnh khác nhau: Một là về luật pháp, Hai là về đạo lý.
             1/ Về luật pháp, Ghi điều đó vào HP là chúng ta mới chỉ lo lắng một chiều: Xủ lý vấn đề phức tạp nẩy sinh trong khi đường lối và hành động của các tổ chức đảng và của toàn đảng vẫn là đúng đắn. Tức là để trong trường hợp có thế lực thù địch nào của cách mạng muốn lợi dụng quyền tự do dân chủ mà làm hại dân, hại nước, hại đảng, thì quân đội phải đứng ra bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước và bảo vệ luôn cả Đảng. Nhưng chúng ta nên chú ý trường hợp ngược lai: Nếu tổ chức đảng của một huyện, hay một tỉnh nào đó có nhiều sai lầm, mà nhân dân phản ứng quyết liệt (như đối với đảng bộ Thái Bình trước đây, hay huyện Tiên lãng vừa qua), liệu tổ chức của đảng ở đó có được quyền – theo Hiến pháp - huy động quân đội đóng ở địa phương để đàn áp nhân dân như Hiến pháp sẽ ghi hay không ? Lại nữa, tại sao chúng ta không cần ghi Quân đội phải bảo vệ cả Mặt trận tổ quốc, hay bảo vệ cả Chính phủ nữa ? Vì những tổ chức này hiển nhiên cũng không kém phần quan trọng ! Đã nói đến luật pháp, thì chính trị nhất phải có tính đúng đắn, khách quan, trung thực. Vậy chúng ta có nghĩ đến trường hợp bộ phận thiểu số trong đảng ta là đúng (tình huống đã từng có), vậy bộ phận này có nên bị quân đội cách mạng đàn áp để bảo vệ phe đa số sai lầm hay không ?
                2/ Về đạo lý: Tôi rất tự ái thay cho Đảng mình, vì đến giờ phút này, do “suy thoái đạo đức và chính trị” đến mức “đe doạ cả chế độ và sinh mạng của Đảng” hiện nay, Đảng ta lại phải “cầu cứu” đến Hiến pháp để nhờ hộ mệnh hay sao ! ? Hoàn toàn có giải pháp khác vinh quang dũng cảm hơn: Là cương quyết xây dựng đường lối chính sách đúng đắn, làm trong sạch lại Đảng , đoàn kết nội bộ hơn, vì Dân, vì Nước hơn thì quân đội luôn luôn đứng ra bảo vệ đảng, dù không cần ghi thành nhệm vụ bảo vệ riêng đối với đảng.
            Tôi nghĩ rằng, đảng ta đã từ tay không , chẳng nề hy sinh xương máu và của cải, đã vùng lên làm nên sự nghiệp vĩ đại như hiện nay; ngay như trong lúc sự nghiệp Cách mạng tháng 8 đang như “ngàn cân treo sợi tóc” mà Đảng ta cũng không cần nhờ đến sự “ghi nhận” và “bảo hộ” sự lãnh đạo của Đảng ở trong Hiến pháp, mà bây giờ thì tại sao chúng ta lại lo lắng (đến hèn nhát) như vậy ?  Tôi còn nhớ, và chắc rất nhiều người còn nhớ, khi Chị Cao Kỳ Duyên, dip 30 tháng 9  năm 2010 đã (đã nghe ai sui dại ? ) đã gửi đi khắp nơi “Lời kêu gọi tổng nổi dậy lật đổ chế độ CS” hiện nay, ngay hôm sau, tôi đã trả lòi chị rằng, nếu chị hỏi bất kỳ người dân VN nào trên đường phố, rằng có muốn tiêu diệt nạn tham nhũng tiêu cực hiện nay không, thì xác xuất 100% ngươì dân nói có , nhưng nếu chị hỏi có muốn lật đổ chế độ hiện nay hay không, tôi tin rằng chỉ có vài phần trăm người tán thành. Còn lực lượng “Tự do dân chủ” nào nổi lên thì sao ? Liêụ họ có mạnh hơn trên một triệu quân Mỹ - Thiệu trang bị đến tận răng và đã chiếm được một nửa đất nước này trước đây hay không ? Do đó, tôi tin rằng, bất cứ một lực lượng chính trị mới nào đó mà nhân dân ta chưa được tận tay kiểm chứng đường lối, chính sách và đạo đức của họ, mà nổi dậy chống chế độ này, thì sẽ chắc chắn bị chính quyền ta dẹp tan ngay. Vì vậy, tôi đã khuyên chị Duyên hãy về nước cộng tác với đồng bào mình, cùng hoà bình, đoàn kết đấu tranh cho một nước VN giầu mạnh, của Dân, do Dân, và vì Dân với chúng ta dưới sự lãnh đạo của Đảng CS hiện nay – dù đảng này đang có nhiều khuyêt tật, nhưng vẫn còn đủ sáng suốt và còn được sự tín nhiệm nhất định của nhân dân -
             Tóm lại, theo tôi, Đảng ta trước kia chưa bao giờ cần, và ngay hiện nay, cũng không cần thuyết phục để  xin , hoặc ép dư luận để được ghi sự cam kết cao nhất “Điều 4” (quyền lãnh đạo đất nước của Đảng) và “Quân đội phải bảo vệ Đảng” vào Hiến pháp. Có thể ghi nhận như thế nào đó, song không phải là một sự ép buộc hoặc xin sỏ của Đảng. Vì vậy, trên tinh thần vững tin vào sức mạnh thực có hiện nay của Đảng, vào khả năng khắc phục tồn tại, và thực tế cũng đang diễn ra, để Đảng tiếp tục làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình với Dân tộc, nhất là cũng vì danh dự của Đảng, tôi đề nghị Đảng ta chủ động đề nghị nhân dân cho rút bỏ những ý không thích hợp, mà dư  luận còn nhiều băn khoăn trong “Điều 4” và “Quân đội phải bảo vệ đảng” ra khỏi dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này
------------------------ 
D –Bài IV

 Thư ngỏ kính gửi Đ/C Nguyễn Phú Trọng
           Vừa qua, Bộ Chính trị đã chính thức nhận khuyết điểm trước toàn thể TƯ Đảng. Vì trong Điều 4 của Hiến pháp 1992 của nước ta có ghi, đảng CS VN là đảng lãnh đạo đất nước, nên điều đó cũng có nghĩa là Bộ Chính trị đã chính thức công khai nhận lỗi trước nhân dân. Vì đảng ta theo đường lối lãnh đạo tập thể, nên những tồn tại, sai lầm, khuyết tật hiện nay lại là do cả cái thể chế chuyên chính vô sản theo mô hình Liên Xô (*) kéo dài tích tụ lại. Vì vậy, đây không phải là khuyết điểm của riêng Bộ Chính trị nhiệm kỳ này.
Cái sai tích tụ này không của riêng ai
Từ anh công nhân đến ông Mác thiên tài
Nói thì dễ,nhưng làm đâu có dễ
Toàn nhân loại nhọc nhằn nhích lên từng thế kỷ
            Đấy là mấy câu trong bài thơ chúc Tết đầu năm 2011 của tôi, nói lên rằng, ta không thể quy kết sai lầm vào cho riêng Bộ Chính trị, hay một Đ/C Tổng Bí thư, hơn thế, đã hơn một lần, tôi viết, “ngoài những đóng góp thành tích và thiếu sót riêng của mình, Bộ Chính trị hiện nay cũng là “nạn nhân” của những sai lầm quá khứ của chế độ ta tích tụ để lại”.
            Điều thứ hai, từ khi có chủ trương đổi mới, thì nội dung trọng tâm của đổi mới của Đảng là đổi mới cơ chế, thể chế cũ là nguyên nhân chủ yếu tạo ra những sai lầm khuyết tật nặng nề đã qua và hiện nay. Xét trong sai lầm chung của Bộ Chính trị, xem ra ta thấy có hai nhóm sai lầm lớn nhất, sai lầm về lãnh đạo thể chế chính trị và sai lầm về lãnh đạo quản lý kinh tế. Qua kết quả kỳ kiểm điểm của Bộ Chính trị, ta thấy mức độ nghiêm trọng của hai nhóm sai lầm được nhận thức là ngang nhau, nên cuối cùng dẫn đến không có Đ/C Ủy viên Bộ Chính trị nào phải một mình gánh chịu. Tuy nhiên, về sai lầm thứ hai (lãnh đạo chính trị) dù không nói ra, ai cũng đoán trọng trách phải thuộc về Đ/C TBT.
            Qua quá trình học tập, công tác và kinh qua thực tế còn rất ít của TBT, ta thấy, giống hệt Các Mác, Đ/C Nguyễn Phú Trọng cũng tiến lên từ công tác biên tập và viết báo cho Tạp chí Cộng sản, lại chỉ được rèn luyện từng trải trong các công việc chuẩn bị lý luận và các văn kiện quan trọng nhất của đảng, lại được đi nghiên cứu rất sâu, đã bảo vệ luận văn tiến sỹ về lý luận xây dựng đảng cộng sản kiểu Mácxítlêninit ở Liên Xô cũ. Vì vậy, có thể nói, hiện nay Đ/C TBT của ta đương nhiên là người nắm vững lý luận CN Mác – Lê nhất trong Bộ Chính trị, thậm chí trong toàn thể ban CH TƯ.  Vấn đề khó khăn cho Đ/C là ở chỗ, sẽ lãnh đạo đổi mới thể chế chính trị, để hoàn toàn thoát khỏi ràng buộc và khắc phục di sản to lớn của CN Mác – Lê trong đảng và trong xã hội như thế nào, trong khi Điều lệ và Cương lĩnh cũ đảng CS VN vẫn còn ghi nhận vị trí quan trọng quyết đinh của CN Mác Lê, ngay cả Hiến pháp 2013 của cả nước bây giờ vẫn còn đang bàn có nên bỏ hay không CN Mác – Lê, vì vậy ta cần hêt sức thông cảm với Bộ Chính trị và đặc biệt là với người đứng mũi chịu sào về chủ đề hết sức quan trọng này, Đ/C TBT của ta chắc chắn là đang trong trạng thái khó khăn đó 
            Tôi thì từ lâu, cùng với bạn bè đ/c của mình đã tự tin chứng minh được rằng CN Mác Lê là một CN pha tạp giữa CN Mác lúc ông còn trẻ (QT CS I ), với CN Lênin đi hai chân (giữa QTCS III và Chính sách kinh tế mới) với CN độc tài toàn trị thiếu tri thức của vị nguyên soái quân sự Stalin, chỉ còn tác dụng tiếp tục gây mâu thuẫn chia rẽ trong lòng nhân loại, nên đa phần thế giới đã từ bỏ CN Mác - Lê, kể cả Nga, TQ, Cu ba và nhiều đảng CS khác trên thế giới. Người ta chỉ còn trân trọng vận dụng những nội dung tinh tuý nhất trong học thuyết Mác về kinh tế, triết học và văn hoá, trong đó có phép biện chứng và duy vật lịch sử. Thế giới đã dứt khoát từ bỏ đường lối đấu tranh giai cấp đối đầu vô lý, phân chia thế giới làm 2 phe đối địch tàn phá lẫn nhau !
              Điều đáng tiếc nhất đối với Đ/C TBT của ta là rất chủ quan, “kiêu ngạo cộng sản” y hệt Lênin và Stalin, đã từng cho rằng mình “đã thuộc bài” rồi (mọi đảng viên và trí thức trước con mắt của Đ/C là đều “dưới tầm” tham khảo, nếu có nghe thì chỉ để tỏ sự tôn trọng hình thức); Là một trí thức, đáng lẽ Đ/C cần gần gũi hoà đồng với đội ngũ trí thức tinh túy nhất của đất nước, trái lại, lại tẩy chay, thậm chí trù dập anh em đồng chí “đồng môn” của mình. Đôi khi Đ/C đã băn khoăn thật thà đặt câu hỏi: “Nhân dân là ai? “ (để Đ/C tôn trọng?). Băn khoăn đó là có lý đối với một cốt cán vững vàng lý luận của CN Mác – Lê: Nhân dân mà đồng chí cần gần gũi “ba cùng”, là công nhân và nông dân lao động, là những người cùng khổ, nên càng nhuần nhuyễn CN Lênin và đường lối Stalin, thì càng cảnh giác với đội ngũ trí thức mà Đ/C cho là thiếu “vững vàng”, nhưng lại rất tích cực góp ý, “phản biện” !
                Nhưng nếu chỉ như vậy thì cũng không có vấn đề gì quá lớn. Tập thể Trung ương Đảng và Bộ Chính trị sẽ cùng nhau sáng suốt hỗ trợ Đ/C lãnh đạo chèo lái con thuyền Dân tộc.Nhưng gần đây, Đ/C đã tỏ ra có “nhầm lẫn” thật, bởi Đ/C phát biểu với tư cách người lãnh đạo cao nhất có nhiều ý lớn mâu thuẫn với chính chỉ đạo của Bộ Chính trị, với chỉ đạo của ngay Đ/C ở nơi khác, lúc khác.(Xin hãy đọc các bài góp ý rất thẳng thắn chân thành của rất nhiều người, ví dụ của GS Tương Lai, của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh). Chưa nói đến sự kiện Đ/C đi rao giảng CN Mác Lê ở Cu Ba và định làm như vậy ở Brazin, cùng sự chỉ đạo sai lầm của Đ/C đối với ngày 17 tháng 2 vừa rồi ! 
           Theo kết quả góp ý của nhiều đảng viên với dự thảo bức thư này, thì số đông cho rằng: 1/ Hiện nay Đ/C TBT vẫn kiên trì CN Mác – Lê, (chứng tỏ Đ/C không thể tự “vượt qua chính mình” như Các Mác và Lênin, nên đã không đại diện cho xu thế cách mạng thực sự của Đất nước và thời đại, 2/ Qua những thể hiện vội vàng vừa rồi, Đ/C đã tỏ ra chưa từng trải, chưa vững vàng trong lãnh đạo xử lý những vấn đề phức tạp cụ thể nẩy sinh trong công cuộc cải cách chính trị xã hội; 3/ Việc Đ/C không giữ được bình tĩnh, thiếu kiềm chế khi phát biểu về hoạt động phản biện của một bộ phận  nhân dân gần đây chứng tỏ sức khoẻ của Đ/C đã bị hạn chế . . . Vì vậy, chừng nào Đ/C TBT còn tiếp tục giữ trọng trách cao nhất trước toàn Dân, toàn Đảng thì sẽ tiếp tục làm cho cách mạng nước ta tiếp tục bỏ lỡ những cơ hội lớn mới. Vì vậy, vì Tổ quốc, vì mục đích góp phần giữ vững vị trí lãnh đạo của Đảng, và vì cả danh dự, sức khoẻ và sự an toàn của Đ/C, đồng thời để tôn trọng niềm tin của đông đảo đồng bào đồng chí mình, trong khi vẫn giữ được niềm tin của riêng Đ/C, tôi xin chân thành góp ý với Đ/C như sau:
Đ/C nên thuyết phục Bộ Chính trị và TƯ tổ chức ngay Đại hội giữa nhiệm kỳ để kịp thời tập trung làm 2 việc:
            1/ Thay đổi mấy nội dung rất quan trọng trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng  nhằm làm cho Đảng thoát khỏi vướng mắc với những nguyên tắc của CN Mác - Lênin, từ đó có thể thuận lợi cho đảng chấp nhận những ý kiến góp chân thành sáng suốt của nhân dân về sửa đổi Hiên pháp hiện nay, hơn thế , tạo cơ sở nền tảng cho cách mạng VN tiến tới;
            2/ Tạo điều kiện để cho Đ/C được từ nhiệm trong danh dự (dũng cảm không kém gì Giáo hoàng Vatican vừa từ chức). Để không có thể gây xáo trộn gì lớn, nên sớm có hai phương án thay thế đưa ra ngay cho TƯ và Bộ Chính trị bàn:
              Phương án Một là: Đ/C Trương Tấn Sang sẽ kiêm luôn nhiệm vụ TBT đảng, điều mà Trung ương ta đã có chủ trương từ lâu, song do lực cản của tư duy trì trệ nên vẫn chưa thực hiện được
              Phương án Hai là: Để Đại hội bầu một Đ/C khác làm TBT.
                                                            Xin chân thành cám ơn Đ/C vì đã lắng nghe
Hà Nội, ngày 1 tháng 3, năm 2013
From: TS. Vũ Duy Phú -VIDS
(Viện những vấn đề phát triển)
-------------------

10 nhận xét:

  1. Hy vọng đảng tự sửa chữa? Khác nào hy vọng tự túm tóc mà nhấc mình khỏi mặt đất? Hão huyền.
    Chỉ có thiết chế đa nguyên, giám sát quyền lực, mới có xã hội dân chủ, văn minh, phát huy trí tuệ toàn dân. Độc đảng (thực tế núp dưới chiêu bài độc đảng, chứ tuyệt đại bộ phận đảng viên cấp thấp có đặc quyền đặc lợi gì đâu? Chỉ có nhúm chóp bu thôi) thường dẫn đến sa đọa, tồi tệ.

    Trả lờiXóa
  2. Hay quá bác Bồng ơi. Tuyệt vời!

    Trả lờiXóa
  3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN vậy đa đảng định hướng XHCN có được không
    thưa bác B?

    Trả lờiXóa
  4. Ai chẳng muốn, người lãnh đạo mình, tài giỏi, ở đấy là đảng cộng sản VN. Muốn vậy, chỉ cần "xóa điều 4 hiến pháp", cho đảng cộng sản, cạnh tranh với người khác, để cầm quyền. Với điều 4, sống theo luật pháp,thì người tài cầm quyền, cũng phải NGHE đảng cộng sản điều khiển.

    Trả lờiXóa
  5. Tuyệt vời một bài viết hợp lí hợp tình hợp lòng dân !

    Trả lờiXóa
  6. Đảng ham quyền, Đảng tham chức
    Chống lập đảng, Đảng thành băng đảng

    Trả lờiXóa
  7. Định đúc chuông đeo cổ mèo hay sao bác Bồng ơi? Chẳng ai muốn từ bỏ quyền ăn trên ngồi trốc cả mà mơ!

    Trả lờiXóa
  8. Người dân tin ở Đảng nhất vào giai đoạn Việt Minh chống pháp . Nhưng từ năm 54 trở đi , những lỗi lầm của Đảng vì duy lý theo Mác Lênin đã mang đến cho dân nhiều giai đoạn khổ đau , nhiều gia đình tan nát , niềm tin ở người dân đối với Đảng hoàn toàn sút giảm .

    Một lực lượng Đảng viên hùng hậu , một chế độ quản lý chặt chẻ gần như kềm kẹp , một đường lối giáo dục tuyên truyền bịt miệng bịt mắt , giúp Đảng nắm vững chính quyền đến ngày hôm nay . Thật tình mà nói dân sợ Đảng hơn là tin Đảng .

    Nhìn lại suốt quá trình lãnh đạo từ ngày có Đảng , những thắng lợi to lớn chính là do sự đóng góp , hy sinh xương máu của nhân dân . Thắng lợi thuộc về nhân dân , không thể nói thắng lợi nhờ Đảng . Chính vì ôm đồm tất cả mọi Công trạng nên vô tình tạo nên tính kiêu căng CS , quên mất đi tất cả những lỗi lầm to lớn gây khổ đau , đói nghèo cho dân tộc , do chính sách và đường lối của Đảng gây nên vì năng nổ nhưng không sáng suốt .

    Quyền lãnh đạo nhà nước thuộc về Đảng , phải do dân quyết định , Đảng tự mình quyết định tức là tước đoạt quyền dân chủ , là độc Tài . Đảng muốn lãnh đạo , nhưng mất tự tin , sợ nhân dân không ủng hộ đưa đến Nguỵ biện và xảo trá trong các sinh hoạt xã hội , chính đây mới là nguyên nhân gây nên suy yếu uy tín của Đảng .

    Nếu Bác Hồ có sống lại cũng khó mà cứu vãn cho cái cây trăm năm mà Bác đã vun trồng . Cái rễ đã chết , tưới bao nhiêu chất bón Minh Triết của Bác vào đấy cũng vô dụng . Một nền Văn hoá thực dụng từ ngày Bác mất đã tạo nên loài vi khuẩn ăn nát nguồn gốc nhân ,lễ , nghĩa , trí ,tín của dân tộc . Nó tạo nên một tầng lớp Đảng viên vì Đảng , vì mình không vì dân tộc .

    Chính tầng lớp Đảng viên vi khuẩn mối mọt kêu gọi còn Đảng còn mình , quân đội phải phục vụ cho Đảng !!!

    Một cuộc cách mạng dân tộc đòi hỏi phải có ý thức về dân tộc . Nền giáo dục XHCN đã tạo nên những nhân tố thực dụng và hoang tưởng , lại ảnh hưởng bởi dã tâm Bắc thuộc lâu đời , khiến cho xã hội trở thành vô cảm trước vận mệnh của đất nước .

    Điều cơ bản mà các nhà trí thức còn chút tình dân tộc sót đọng trăn trở , Cần nên chú trọng đến xây dựng một ý thức hệ dân tộc trên tinh tthần cơ bản tự do , dân chủ , Công bằng , Bác ái .

    Từ ngày có Đảng , hai tiếng đấu tranh , đấu tố đã thay thế và gần như hủy diệt tinh thần Bác ái của dân tộc . Liều thuốc Bác ái để tạo nên tinh thần đoàn kết trong thời Bình đã bị lãng quên khiến cho xã hội kỳ Thị , phân chia giai cấp , suy đồi đạo Đức .

    Độc Đảng dẫn đến độc Tài nhưng vẫn không nguy hiểm khi Văn hoá của một dân tộc bị mê tín lạc lối , không còn nhận thức được sự tiến bộ của thế giới xung quanh , tự bế môn tự kiêu căng đi dần đến tự kìm hãm dân tộc , tụt hậu đi theo đuôi của thế giới Văn Minh tiến bộ .

    Bắc Triều Tiên là một tấm gương lịch sử ví đại , mà tất cả các Đảng viên CS cũng như nhân dân Việt , nên nhìn vào đấy để soi lại bản thân của chính mình , để tự sửa chửa lại dung nhan nhà nước CHXHCNVN mà chúng ta đang sinh sống .

    Trả lờiXóa
  9. Em muốn nghe nhiều hơn nữa...Anh nói tiếp đi ...

    Trả lờiXóa