Không
phải đến tận những năm 2012-2013 này cuộc tranh cãi về Hiến pháp và pháp luật
nói chung mới bung ra trầm trọng như ta đang thấy. Thật ra, trong quỹ đạo
chuyên chính vô sản, Hiến pháp và pháp luật luôn là lĩnh vực điển hình chất
chứa những mâu thuẫn nội tại, chỉ chờ dịp để bung ra, bởi cốt lõi vẫn là mâu
thuẫn giữa một nền độc tài đảng trị trước những đòi hỏi dân chủ pháp trị.
Xin gợi nhớ lại
cuộc tranh luận lịch sử về quan hệ giữa Tư pháp và Hành pháp nổ ra khoảng năm
1948 giữa một bên là báo chí chính thống, lý luận chính thống của Đảng mà đại
diện là nhà báo Quang Đạm, cây đại thụ lý luận của Đảng trên báo Sự Thật (và
báo Nhân dân sau này), còn phía bên kia là các Luật sư Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình
Hòe…, cả hai đều từng là Bộ Trưởng Tư pháp, là chức của cựu Bộ trưởng Nguyễn
Đình Lộc ngày nay. Riêng LS Vũ Trọng Khánh (1912-1996) chính là người chủ chốt
cùng với GS Đặng Thai Mai thảo ra bản Hiền pháp 1946 mà nay đang nhắc tới
nhiều.
Nói về Tam quyền phân lập, cuối
cùng, Quang
Đạm kết luận “Mong rằng Tư pháp nên nhận định sự phân phối quyền hạn
giữa kháng chiến hành chính (tức Hành pháp) và tư pháp chỉ là sự phân
công phụ trách để làm cho khoa học, chứ không thể là một sự phân
quyền theo quan niệm lấy quyền ngăn quyền mà đấu tranh giữa quyền này
với quyền khác”.
Luận điểm “chỉ
do Đảng phân công chứ không phân quyền” này của ông Quang Đạm vẫn được Đảng ta
cố thủ cho đến ngày nay, và tất nhiên bị các Luật sư Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình
Hòe chống lại. Như thế, về nội dung luận điểm cơ bản của hai phái “pháp trị” và
“Đảng trị” trước và nay cơ bản là không đổi. Tuy vậy cục diện đấu tranh quan
điểm vào năm 1948 ấy và cuộc đấu tranh hiện nay (sau hơn 60 năm) thì khác nhau
nhiều:
-
Năm 1948 cuộc tranh luận diễn ra bình đẳng, đều cùng đăng trên các báo công
khai như báo Sự thật của Đảng CS hoặc báo Độc lập của đảng Dân chủ. Chính tờ Sự
thật của ông Quang Đạm cũng đăng bài của ông Vũ Trọng Khánh. Nhưng ngày nay thế
nào?
- Năm 1948, sau
8 tháng tranh luận không đi tới một kết luận áp đặt nào từ phía đảng và nhà
nước. Mọi ý kiến mặc nhiên được công khai bảo lưu, không bị khẳng định cộc lốc
một câu “chế độ ta không chấp nhận Tam quyền phân lập”, miễn bàn, không bị Tổng
Bí thư hay Phó thủ tướng lên án là bọn suy thoái tư tưởng, suy thoái đạo đức và
cần phải nghiêm trị như bây giờ.
- Cảm động nhất
là lời sám hối của phía quyền lực: Chính ông Quang Đạm bốn chục năm sau đã
thừa nhận rằng quan điểm pháp lý của ông lúc ấy về lý thuyết “có phần giản đơn
và siêu hình” còn trên thực tế phát triển cách mạng đã dẫn đến tình trạng “quyền
lực của tư pháp cũng như lập pháp xét cho cùng là hữu danh vô thực” và “bên
trên của cả ba quyền lực (tức kể cả trên quyền hành pháp - VĐH) mọi người
nghĩ đến một “siêu quyền lực” quyết định tất cả, là cấp ủy đảng lãnh đạo”. Bài
viết của ông có người trong giới chuyên môn tư pháp cho là “sám hối”. Ngày
nay những kẻ lý sự cùn nói bậy rất nhiều, chẳng thấy một lời sám hối. Chỉ thấy
người phản biện, cũng một cựu Bộ trưởng Tư pháp, bị gây sức ép đến mất chủ động
, phải nói phản lại ý kiến của mình và bè bạn.
Sau hơn 60 năm,
với bao nhiêu xương máu, nền dân chủ lại thụt lùi, cả lý và tình còn thua xa
cái thời ấu trĩ chập chững của chính mình, hỏi không buồn sao được?
Hà Sĩ Phu
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
-------------------
Bài 2. Ý KIẾN BẠN ĐỌC: TRANH LUẬN
VỚI ÔNG QUANG ĐẠM
* VŨ TRỌNG KHÁNH
/Đăng trên báo Sự thật các số 114
(20.6.1949),
115 (10.7.1949), 116 (1.8.1949)
* Báo Sự Thật số 114, ngày 20/06/1949/
VẤN ĐỀ TƯ PHÁP
I/Tư pháp là
một khí cụ riêng của tập đoàn chính trị
L.T.S – Dưới
đây là nguyên văn bài của Ông Vũ Trọng Khánh gửi đến góp thêm vào cuộc tranh
luận về vấn đề tư pháp.
Ông Quang Đạm
trình bày lý thuyết của Các Mác về Nhà nước là một khí cụ của tập đoàn thống
trị, phụng sự tập đoàn ấy, đối lập với giai cấp bị trị và mang tính chất của
tập đoàn cầm quyền.
Tôi tưởng thuyết này bây giờ không còn ai phản đối
nữa, vì nó nhận rõ một điều dĩ nhiên: một chính phủ phát-xít lấy sức mạnh lên
cầm quyền hay một chính phủ dân chủ được đa số dân bầu lên cầm quyền thì tất
nhiên sẽ cai trị và tổ chức Nhà nước theo chính kiến và quyền lợi của đảng minh
hay của đa số đã bầu mình, không lẽ phản lại. Những chính kiến ấy phát biểu
thành những đạo luật mà các cơ quan Hành chính, Tư pháp, Công an, Quân đội… có
nhiệm vụ áp dụng. Kẻ bị trị cho rằng Tư pháp là khí cụ đối lập và áp bức nhất,
vì chỉ thấy cơ quan ấy tuyên án mà không nhìn thấy rằng sức mạnh đều ở cả trong
tay Hành chính, Công an, Quân đội; không nhìn thấy là vì Hành chính lúc nào
cũng hòa hoãn, phủ dụ, Công an thì hành động bí mật và Quân đội chỉ can thiệp
khi nguy kịch đặc biệt.
Cái quan niệm ấy về Nhà nước đã giúp cho người cách
mạng biết rằng một khi đã lập chính quyền thì phải phá tất cả các khí cụ Quân
đội, Công an, Hành chính, Tư pháp và đào hết rễ cả cái “hệ thống tư tưởng cũ”
(luật pháp, đạo đức, tôn giáo, triết học). Vì thế nến khi vừa thành lập, chính
phủ ta đã hủy bỏ ngay tất cả các tổ chức quan lại, liêm phóng, linh khổ xanh,
khố đỏ cũ.
Nhưng
đến khi kiến thiết lại những khí cụ mới thì quan niệm ấy không đủ nữa vì nó chỉ
nhìn rõ “điều căn bản xã hội của toàn thể chế độ” mà không bao quát được tất cả
các mục đích khác của mỗi khí cụ Nhà nước.
Cho nên, có thể trả lời ông Quang Đạm rằng nếu như chỉ
xét tính chất nền tư pháp một nước hay một thời đại, để mưu đồ một cuộc cách
mạng chiếm chính quyền mà thôi, thì chỉ cần “nhìn rõ nội dung toàn thể, và căn
bản xã hội của nền tư pháp ấy” là đủ, bởi vì khi ấy chỉ phá hủy cái cũ thì chỉ
cần nhằm cho đúng đường lối đại cương mà đi tới, không cần để ý đến những cái
đổ vỡ về chi tiết. Nhưng đến khi – như chúng ta hiện giờ – kiến thiết một xã
hội mới lên trên cái cũ thì chỉ nhìn có thế không đủ nữa, còn đồng thời phải
xem cả “hình thức, bộ phận” vào mọi mục đích thiết thực khác của nền tư pháp,
mới nắm được đủ yếu tố để xây dựng một bộ máy thỏa mãn được nhu cầu của xã hội
mới. Bởi vì trong lúc kiến thiết, chế độ mình đặt ra không những phải có xu
hướng đại cương là đi đến chủ nghĩa xã hội mà còn phải xếp đặt được cái đời
sống hàng ngày rất phiền phức, tỉ mỉ của một quần chúng đông đảo còn chứa nhiều
cái cũ chưa biến mất lẫn cái cũ chưa thành hình. Trong bài trước (Sự thật số
96) tôi đưa ra hai điều luật riêng biệt, là cố ý để tỏ rằng lý luận của ông
Quang Đạm đúng một mặt, còn thiếu sót một mặt.
Muốn tới mục đích kiến thiết vừa nói, ta phải nhận
định bao quát nhiều mặt rằng pháp luật là những thể lệ đặt ra để giữ trật tự
trong xã hội thì xã hội mới sống được. Trật tự ấy có xu hướng chính là bênh vực
quyền lợi cho tập đoàn thống trị (đúng ý ông Quang Đạm) cũng có chỗ vô tư và có
chỗ bênh vực kẻ yếu chống kẻ mạnh (ông Quang Đạm thiếu hai chỗ này) như một
trọng tài có uy lực – vô tư nghĩa là không phân biệt phe thống trị hay bị trị,
giàu hay nghèo.
Xin dẫn giải:
Ở trong một xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa có mâu
thuẫn lớn giữa hai giai cấp, nhưng cũng có mâu thuẫn nhỏ giữa những người cùng
một giai cấp như hai hạng tư bản cạnh tranh nhau hay hai người nghèo đánh nhau,
hoặc những xung đột hàng ngày giữa một người giàu với một người nghèo. Khi ấy
ai có lỗi, dù là giai cấp nào, cũng phải phạt hay bồi thường. Ở trước tòa án, những
kẻ có quyền thế hay giàu có mà thua kiện không phải là hiếm, những vụ mà người
lao động thắng ông chủ cũng không phải là không có bao giờ. Có thể trả lời ông
Quang Đạm rằng “trong một xã hội phong kiến hay tư bản mà Nhà nước để cho ai
muốn giết ai cũng được, thì những kẻ ngày thường bóc lột bằng kinh tế và áp bức
về chính trị “sẵn có trong tay tiền tài và vũ lực sẽ đánh giết người vô sản như
đời thượng cổ bọn quý tộc hành hạ đám nô lệ (esclaves)”. “Nếu tưởng tượng trong
một xã hội như thế mà người làm thiệt hại kẻ khác không phải bồi thường” thì
chính dân nghèo khổ bị thiệt hại trước tiên. Thí dụ người thợ bị chủ đánh gãy
tay, người nghèo bị ô-tô đâm mà không được bồi thường.
Vậy thì xin nhắc lại, đứng về phía phương diện tổ chức
một xã hội chứ không phải phương diện cách mạng chính trị trong một xã hội có
giai cấp đấu tranh vẫn có đượcnhững điều luật vô tư, vẫn có được khái niệm
“công lý ngoài đảng phái”. Một là vì những điều luật và khái niệm ấy cần thiết
để thu xếp giữa những người cùng một giai cấp mà có xung đột chi tiết tuy có
đoàn kết đại cương để che chở những người có sức mạnh khi đứng trong giai cấp
mà yếu hèn khi đứng một mình. Thí dụ hai người nông dân tranh nhau một bờ
ruộng, thí dụ đạo luật bênh vực người đàn bà có con mà bị tình nhân bỏ, bênh
vực đứa trẻ mồ côi hay vị thành niên khi bị người lớn lừa dối. Hai là vì khái
niệm “vô tư” và “công lý” đều là tương đối như mọi sự ở đời: điều mà ta cho
rằng không vô tư, không công bằng khi ta nhìn đại cương trong một thời gian xa
để lý luận cách mạng, điều ấy có thể coi là vô tư và công bằng khi ta nhìn chi
tiết trong một thời gian ngắn mà lý luận để kiến thiết.
Một đằng, tin một cách tuyệt đối rằng có một thứ luật
pháp và một thứ công lý chung cho cả mọi người không bao giờ thay đổi và ở trên
hết mọi mọi tầng lớp đấu tranh là sai, bởi vì luật pháp và ý thức công lý trong
một xã hội là phản ánh của đời sống, tất nhiên cùng một khuynh hướng, một tính
chất với xã hội ấy. Một đằng khác, nói rằng tất cả luật pháp và công lý đều
hoàn toàn thiên vị về giai cấp thống trị thì cũng không đúng vì trong sự sống
hàng ngày không phải chỉ có cuộc tranh đấu giai cấp mà thôi, còn có những xung
đột nhỏ khác nữa. Thực ra hai đằng bổ khuyết cho nhau tựa như nước sông lớn đều
chảy xuôi xuống bể, nhưng trong từng quãng có những giòng chảy ngang, chảy
ngược, hay đọng lại. Có quan niệm được cùng một lúc các mâu thuẫn nhỏ nằm trong
cái xu hướng chung thì mới hình dung được sự sống hàng ngày và kiến thiết được
hợp với thực tế. Ngay trong một nước xã hội chủ nghĩa tương lai mà “không còn
giai cấp đấu tranh nữa, kinh tế dồi dào thừa thãi” cũng còn cần phải có luật
pháp. Nếu không thì sao? Thì ô tô chạy đường, muốn đi bên phải, bên trái, ban
đêm không đèn cũng được, rồi đâm vào nhau xảy ra tai nạn tha hồ, thì ghen nhau
hay tức khí nhau không phải vì kinh tế mà vì tình, hay vì đánh ván cờ rồi tha
hồ ẩu đả.
Ông Quang Đạm tin rằng về tương lai, luật pháp sẽ “hóa
ra vô dụng”. Nhưng thôi, hãy quay về hiện tại thì tóm lại, luật pháp Việt Nam phái có xu
hướng chung là bênh vực quyền lợi của nhân dân, mà trong bộ phận và hình thức
sẽ vô tư và công bằng.
VŨ TRỌNG KHÁNH
(còn nữa)
-------------------------
* Báo Sự Thật số 115, ngày 10/07/1949
(tiếp theo số 114)
II/ Phân quyền và độc lập
Về vấn đề phân quyền, tôi không thấy rõ được ý kiến
của ông Quang Đạm. Ông vừa nói rằng thời Pháp thuộc có phân quyền vừa nhận rằng
đó chỉ là nhãn hiệu trái hẳn thực tế. Ông vừa nói rằng phân quyền giúp cho bọn
tư sản thống trị dễ phản động, dễ chuyên chính thêm, vừa nhận rằng phải thi
hành quyền tư pháp phân lập…
Nhưng cứ cách đặt vấn đề của ông thì thấy rằng:
1- Ông
công nhận sự phân lập của tư pháp. Chúng tôi đồng ý, vì trong quan niệm của
chúng tôi: phân lập, phân quyền hay biệt lập cũng chỉ có nghĩa là giao việc xử
án, việc hành chính, công an, quân đội vân vân… mỗi việc cho một cơ quan riêng
biệt.
2- Ông
muốn rằng Tư pháp phải phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân và thẳng
tay tiêu diệt mọi hành động có hại cho cuộc giải phóng dân tộc. Thực ra thì dù
muốn hay không muốn thế cũng không được, là vì tập đoàn thống trị hiện nay là
nhân dân kháng chiến diệt giặc và diệt gián, thì Tư pháp cũng theo khuynh hướng
ấy một cách tất nhiên và chưa hề có một thẩm phán nào lại nghĩ trái lại, tôi
không biết tại sao ông Quang Đạm lại đặt thành vấn đề, và về sau ông cứ nhắc đi
nhắc lại vấn đề, hình như các thẩm phán đều là người Pháp hay Việt gian cả!
Độc Lập và Độc Lập – Ông Quang Đạm xét vấn đề theo
quan điểm đại cương và chính trị. Thì cố nhiên, triết học thường thức cho ta
biết rằng quan niệm và ý thức con người là “sản phẩm chung của giai cấp, hoàn
cảnh vật chất, quyền lợi kinh tế và điều kiện giáo dục”. Nhưng đến lúc tổ chức
trong thực tế là một bộ máy xử án hàng trăm nghìn việc xảy ra trong sự sống
hàng ngày khi những tư tưởng đại cương và chính trị không đủ, bởi vì mọi việc
phức tạp không phải đều là chính trị cả và không cần phải có triết học đại
cương hay thuộc vào một đảng mới xét được điều phải trái.
Điều 112 của hiến pháp Xít-ta-lin nói rằng: “Quan tòa
đều độc lập và chỉ biết có pháp luật”. Hiến pháp Việt-nam điều 69: “Trong khi
xét xử các thẩm phán chỉ theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”
và điều 50 của sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 tổ chức các tòa án Việt-nam định
rằng: “Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm mình. Không quyền
lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”.
Quan
niệm độc lập ở đây không có gì là triết lý chính trị cao xa. Các thẩm phán
không hề tưởng rằng mình là hạng người độc lập bất khả xâm phạm và ở trên các
đảng phái, trên các cơ quan như một số anh em chính trị hiểu lầm hóa ra mất cảm
tình dân.
Chữ độc lập chỉ có một ý nghĩa hết sức thiết thực như
sau này:
Tìm
sự thật trong một vụ kiện khó và mất thì giờ cũng như bất cứ một việc chuyên
môn nào. Cần phải giao cho một hạng người chuyên trí nào đấy gọi là thẩm phán.
Thẩm phán ngồi đọc từng tờ giấy trong hồ sơ, cân nhắc từng dòng trong biên bản,
hỏi bị can, người chứng, căn vặn, đối chất người nọ với người kia, so sánh lời
khai với tang vật… đoán sự thực trên nét mặt hay trong lời nói với cả kinh
nghiệm của mình như thầy thuốc đoán bệnh, xét hoàn cảnh bị can, ảnh hưởng trong
xã hội… Rồi nghiên cứu luật lệ của Nhà nước xem việc xảy ra, có bị phạt hay
được bênh vực không? Rồi tổng kết cả một thời gian điều tra , cả một cuộc thẩm
cứu trước tòa và một cuộc bàn bạc trong phòng luận tội với các thẩm phán khác
và các phụ thẩm nhân dân, ông Chánh án tuyên án.
Nếu ông Chánh án nghĩ rằng anh Mỗ đòi gia tài là trái
hay anh Ích đã phạm lỗi thật mà một người hay một cơ quan khác hay công chúng
không hề nghiên cứu hồ sơ, không hề nghe bên nguyên, bị, lại nghĩ trái lại thì
tất nhiên phải cho ông Chánh án có quyền xử theo ý mình, nếu bắt theo mệnh lệnh
người ngoài hay cơ quan kia thì thà giao ngay quyền xử án cho người ấy hay cơ
quan ấy. Người thẩm phán xử án phải gánh một trách nhiệm, nhiều khi ghê gớm,
trước lương tâm mình, trước dư luận, trước cấp trên và Chính phủ thì cũng phải
được quyền xử theo trí phán đoán của mình, chứ không bắt buộc phải nghe người
khác. Vì thế nên người ngoài hay cơ quan khác không thể can thiệp vào. Ngay
trong nội bộ Tư pháp, mỗi thẩm phán phát biểu ý kiến riêng của mình chứ không
chịu ảnh hưởng của một người thẩm phán khác dù cao cấp hơn.
Trong vụ án Ta-na-da-ri-vơ xử các nhà cách mạng Mã-đảo
cũng như trong các vụ án chính trị xử tại Hội đồng đề hình ở nước ta xưa kia,
quan tòa không được độc lập là vì đã chịu mệnh lệnh ngầm của cơ quan hành chính
hay chính trị. Trong các trường hợp ấy, Tòa án đã bị một sức mạnh biến thành
cái máy đàn áp. Ở nước ta, chắc hẳn nhân dân sẽ che chở cho tòa án khỏi bị uy
hiếp như thế. Dù sao ta cũng không thể căn cứ vào những vụ án chính trị để mà
kết luận rằng không thể để cho thẩm phán độc lập được. Bởi vì các vụ chính trị
là một loại án bất thường, biểu lộ cuộc tranh đấu giai cấp, ngoài ra còn các vụ
án dân sự, thương sự, thường phạm, chiếm đa số mà các tòa xử xa những cơn khủng
hoảng chính trị. Bởi vì hiện nay ở nước ta, tất cả các vụ án chính trị đều giao
độc quyền cho Tòa án quân sự; vậy tôi muốn hỏi: các ý kiến của ông Quang Đạm có
áp dụng cho các Tòa án quân sự không?
Tập đoàn chỉ đạo - Ông Quang Đạm đã giảng chữ tập
đoàn chỉ đạo một cách bất ngờ; tôi cố lĩnh hội để xem có áp dụng được trong
việc tổ chức tư pháp không, mà thấy khó hiểu lắm.
Theo ông Quang Đạm thì "tập đoàn" là mọi
tầng lớp nhân dân đang đuổi giặc dựng nước, "chịu sự chỉ đạo", là
nghe theo ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, mà nhân dân ở khắp nơi trong nước
chứ không phải chỉ ở cạnh Chính phủ trung ương. Tôi đang tìm một phương pháp để
biết rõ ý kiến của nhân dân toàn quốc mà theo, đang nghĩ đến Quốc hội hay Chính
phủ trung ương là hai cơ quan đại diện cho toàn quốc thì ông Quang Đạm bảo rằng
chính quyến địa phương mới gần dân nhất. Thế thì có lẽ phải đến hỏi từng Ủy ban
xã từ Nam chí Bắc và, nếu một nửa bảo rẽ bên phải, một nửa bảo rẽ bên trái, thì
ta cứ đứng giữa!
Ông Quang Đạm nói mỗi khi có vấn đề lớn thì bao giờ
nhân dân cũng tỏ rõ ý kiến và thái độ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Tôi đang
nghĩ rằng nhân dân tỏ bằng khẩu hiệu dán ở các nơi hay bằng mít tinh thì ông
Quang Đạm bảo phải theo đường lối do những người thông minh nhất, anh dũng nhất
của nhân dân vạch ra. Tất nhiên những người ấy đã vạch ra sau khi "theo
đúng ý kiến và thái độ nhân dân, vì ai không theo nhất định sẽ lầm đường lạc
lối", như ông Quang Đạm nói. Tôi phân vân vì nghĩ đến cái ngày mà Hồ Chủ
tịch đứng trên bao lơn nhà Hát lớn Hà Nội hỏi dân chúng nên đánh hay nên ký
hiệp định. Dân chúng đều hô "đánh", nhưng hiệp định sơ bộ
6-3-1946 vẫn được ký và Hồ Chủ tịch vẫn đi đúng đường.
Nói thế không phải là khinh nhờn đại chúng, khinh nhờn
dư luận đâu. Nhưng theo kinh nghiệm về tâm lý quần chúng của tôi thì đại chúng
chỉ có một ý niệm đại khái về các vấn đề chung, cho nên các cơ quan thăm dò dư
luận như Ga-lớp (Institut Gallup) chỉ đặt những câu hỏi rất giản dị để công
chúng giả lời cũng rất giản dị mà thôi. Đại chúng không tính toán xa xôi được,
chỉ cảm thấy được những quyền lợi đang trực tiếp chạm đến mình mà thôi, quyền
lợi ấy đang hưởng thì hoan hô, đang bị giày xéo thì phản kháng. Tính toán trước
cơ sự là nhiệm vụ của kẻ lãnh đạo vì là người thông minh nhất và đủ tài liệu
nhất để xét đoán. Kẻ lãnh đạo có khi phải giữ kín bài tính của mình nên có khi
không được dư luận hiểu ngay; về sau, nếu cách giải quyết của mình đúng thì giữ
vững được địa vị, nếu nhầm thì bị đổ không thương xót. Vậy tôn trọng đại chúng chỉ là hành dộng cho hợp quyền lợi
của nhân dân. Còn đối với dư luận thì cần nhất là phải biết giải thích để khỏi
bị chết như Ga-li-lê (Gallilée) vì đã bảo quả đất tròn khi quần chúng tin rằng
quả đất vuông!
Nhưng đây là toàn bàn về chính trị đại cương! Về tư
pháp, ông Quang Đạm chỉ đặt một nguyên tắc rõ ràng là "quan tòa phải chú
trọng đến dư luận chung quanh và không chịu theo ý chí của quần chúng thì nhất
định quan tòa không thể làm việc có lợi cho nhân dân"! Ông Quang Đạm không
bảo cho các thẩm phán biết cách trưng cầu ý kiến của dư luận địa phương và cách
xử trí khi "óc địa phương" muốn đi trái với đạo luật do Quốc hội là
đại biểu của toàn quốc làm ra, hoặc khi dư luận một nửa bảo phải, một nửa bảo
trái thì phải xử thế nào hay không xử nữa? Tôi còn nhớ một vụ án quan trọng ở
Hà Nội: Chưởng lý buộc tội xong thì công chúng thì thào là bị can đáng tội, khi
luật sư cãi xong thì công chúng lại thấy bị can bị oan, đến khi tuyên án xong
thì một phần cho là xử nhẹ, một phần cho là xử nặng, một phần cho là xử vừa
đúng.
(Còn nữa)
VŨ TRỌNG KHÁNH
----------------
*Đính chính
Vì nhà in sơ xuất, nên lời nói đầu của ông Vũ Trọng
Khánh trong bài Tư pháp không đăng trong số trước: Chúng tôi xin đăng nguyên
văn những lời đó như sau:
VẤN ĐỀ TƯ PHÁP
Các anh em Tư pháp lấy làm cảm ơn báo Sự thật đã đăng
các bài trả lời ông Quang Đạm, để dư luận có thể nghe được nhiều tiếng chuông.
Tiếp theo bài của ông Quang Đạm trong Sự thật số
102, 103 ,104, ở đây tôi sẽ trình bày lý lẽ một cách điềm đạm và cụ thể, cố
tránh lối văn hùng hồn và trừu tượng nó chỉ khêu gợi cảm tình mà không làm cho
người ta hiểu được rõ, cũng cố tránh những lời châm biếm, nó chỉ sướng mồm kẻ
nói, mất lòng người nghe mà chẳng giúp thêm lý lẽ cho trí phán đoán của độc
giả.
Trước tiên, hãy bàn đến hai thành kiến nghe đã nhiều.
Ông Quang Đạm than rằng "đến năm Dân chủ cộng hòa thứ IV mà vẫn còn nhiều
ảnh hưởng của lý luận thực dân trước kia" và chê rằng "những
người do chính phủ bổ nhiệm chính là cán bộ Tư pháp do thực dân Pháp
đào tạo ra trước kia". Thực ra, lý luận thực dân Pháp có cái dở đáng
bỏ, cũng có cái hay đáng theo; quanh ta nhiều nơi vẫn theo lề lối cũ của bọn
Pháp mà không phải là thoái bộ. Các anh em Tư pháp ngày nay đúng là những người
do thực dân Pháp đào tạo ra cũng như ở những ngành chuyên môn khác và một số
đông các anh em chính trị đã qua học các trường của Pháp; cũng như là tất cả
dân tộc Việt Nam đã bị bọn Pháp uốn nắn, đào tạo trong 80 năm trời nô lệ. Nhưng
đám dân ấy đã biết đứng dậy, các người chuyên môn và chính trị kia đã biết phá
xiềng xích vật chất và tư tưởng cũ, thì ta cũng chớ tách anh em Tư pháp ra khỏi
khối dân tộc như những quái vật. Những thành kiến kia đã đè chĩu vào chúng tôi
từ ngày Khởi nghĩa, đã theo đuổi chúng tôi một thời gian sau khi tác chiến. Tôi
tưởng thái độ và hoạt động kháng chiến của tất cả các nhân viên Tư pháp từ bấy
đến nay đã đủ để người ta đừng nhắc đến những thành kiến ấy. Nếu chúng tôi có
điều đáng chỉ trích thì ông Quang Đạm cứ mang từng việc cụ thể ra và cứ tranh
đấu với chúng tôi bằng lý luận - đúng như tư cách một người Mác xít chân chính
- để mà khuất phục chúng tôi bằng lẽ phải thì hơn.
------------------------
Sau đây tôi bàn luận theo các
mục mà ông Quang Đạm chia ra:
* Báo sự thật số 116 ngày 1/8/1949 (tiếp
theo số 116)
III / Nhiệm vụ tư pháp Việt Nam
Ông Quang Đạm trình bày “ một vài nguyện vọng của nhân
dân rất thiết tha chính đáng mà đến nay vẫn chưa được thỏa mãn”.
Tôi
không biết ông Quang Đạm đã tìm thấy những nguyện vọng ấy bằng cách nào.
Về phần các anh em Tư pháp, trái với ý nghĩ của một số
người, chúng tôi cũng lo lắng đến dư luận và cũng biết sống giữa đại chúng luôn
luôn: vừa thăm hỏi ý kiến của nhân sĩ và các giới, nhất là trong chính giới
(ngay từ năm đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hòa chứ không phải chờ đến năm
nay) vừa có thẩm phán trò chuyện với các dân quê, tiếp xúc với các xã, cơ quan,
đoàn thể… Chúng tôi cũng được biết những lời phê bình đúng hay không đúng về
chúng tôi và cả những điều mà riêng chúng tôi được nghe thổ lộ.
Tiếc rằng ở nước ta chưa có một tổ chức trưng cầu ý
kiến nhân dân một cách khoa học như Ga–lớp (Gallup ) để xem những ý chí nhân dân mà chúng
tôi và ông Quang Đạm cùng ghi nhớ có giống nhau không?
Những
nhiệm vụ mà ông Quang Đạm vạch ra cho Tư pháp Việt Nam chia ra hai loại: chính trị và
chuyên môn.
1/ Loại chính trị: - “Tuyệt đối trung thành với nhân
dân, phụng sự ý chí nhân dân, tập trung mũi dùi tranh đấu vào bọn thực dân và
lũ Việt gian, lấy quyền lợi của chế độ dân chủ và của nhân dân làm tiêu chuẩn
để xét xử, hiểu thấu tinh thần chế độ dân chủ cộng hòa, lý luận của bộ phận Tư
pháp phải phối hợp với lý luận chung của toàn bộ chính quyền”.
Tôi tưởng không một thẩm phán nào đang thi hành phận
sự trong hàng ngũ kháng chiến lúc này lại phủ nhận những điều thông thường ấy,
mà người công dân nào cũng biết, mà các thẩm phán thực hiện hàng ngày bằng cách
hiểu thấu và áp dụng khiến cho mọi người đều phải tôn trọng tất cả các luật
pháp của chính thể dân chủ cộng hòa, vì mọi quyền lợi của nhân dân, mọi lý
luận, mọi phương pháp chống giặc trừ gian (không thuộc về binh bị) đều đúc lại
trong các sắc lệnh của Nội vụ, Tài chính, Kinh tế, Tư pháp, v.v.
Một điều khuyên của ông Quang Đạm không thuộc phạm vi
các thẩm phán là “tích cực nâng cao quyền lợi kinh tế và xã hội dân chủ của
nhân dân”. Và một điều đáng chú ý và đáng tán thành là “ góp sức vào công cuộc
giáo dục nhân dân vì một đặc điểm của Tư pháp nhân dân là có tính cách giáo
dục”, điều này các thẩm phán vẫn thực hiện bằng cách giảng trong các lớp huấn
luyện hay giải thích luật pháp trước công chúng.
2/
Loại chuyên môn. Phải có một lý luận về Tư pháp hoàn toàn Việt Nam (xem
Sự thật số 104, trang 12). Đồng ý rằng Việt Nam
không phải là Nga, Anh, Mỹ cho nên ta phải có những lý thuyết pháp lý, những tổ
chức Tư pháp hoàn toàn Việt Nam
chứ không nhắm mắt bắt chước. Nhưng Việt Nam cũng là một phần tử của nhân loại,
cũng cùng một loài người như Anh, Mỹ, Pháp, cũng có một xu hướng xã hội như
Nga, Tiệp, Nam - tư hay Ba – lan nên cũng có chỗ giống các nước Âu (thí dụ
về nguyên tắc tư pháp đại cương như ông Lưu Anh đã trình bày), và có chỗ hay
của nước khác mà ta bắt chước được. Trả lời ông Quang Đạm: dưỡng khí vừa giống
cả lửa lẫn nước vì nó cháy thành lửa mà nó hợp với khinh khí thì thành ra nước
(H2O). Ta không bưng được cả gốc cây tư pháp Liên Xô về trồng ở nước ta nhưng
cũng có thể chiết một cành nào nếu hợp với kiến trúc và khí hậu nước ta. Tôi
tưởng nhiều cây chính trị mọc ở trong vườn ta thuộc cùng một loại với các cây ở
vườn nước khác, bởi vì không có lý nào ta lại gạt bỏ những kinh nghiệm của các nước
bạn, nó là kho tàng chung của nhân loại chứ không riêng gì của một nước. Chỗ
khó là hiểu được cái gì hợp, cái gì không hợp với hoàn cảnh nước ta.
Có các bộ luật Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa - Đây là
sự mong mỏi của tất cả mọi người và sự cầu ước thiết tha của riêng giới Tư
pháp. Một điều nhầm thông thường là tưởng rằng làm các bộ luật ấy là trách
nhiệm của Tư pháp.
Không
phải. Các bộ luật là ý chí của nhân dân toàn quốc, những nguyên tắc lớn phải
được bàn cãi thăm dò ở khắp ba Kỳ. Nộp những thuế gì? Kinh tế chỉ huy hay tự
do? Có tổ chức lại quyền tư hữu tài sản không? Vẫn giữ hay bỏ chế độ đa thê?
Chế độ lao tù sửa đổi thế nào cho nhân đạo và giáo hóa được phạm nhân? Các
quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do hội họp, bãi công
phải sử dụng thế nào? v .v.
Vậy nhiệm vụ trước tiên thuộc về các nhà chính trị của
ba Kỳ phải suy nghĩ mà định rõ xu hướng chung của pho luật, những nét lớn của
các tổ chức để thực hiện được xu hướng ấy. Các nhà chính trị phải dò hỏi nhân
dân rồi khi họp thành Quốc hội thì biểu quyết các bộ luật.
Quyền làm thành luật như thế, quốc dân giao riêng cho
Quốc hội là đại biểu của toàn quốc. Chính phủ cũng không có quyền ấy, huống chi
các Tòa án. Quan niệm tách quyền “lập quyền” và quyền “hành pháp” có một căn cứ
chính trị thiết yếu như thế chứ không phải là sai.
Trong việc làm luật, các Tòa án và các nhà luật học
tất nhiên sẽ trình bày những kinh nghiệm, những nhận xét của mình đã lượm trong
bài thi hành và nghiên cứu pháp luật. Nhưng chỉ là giúp ý kiến mà thôi. Nói thế
không phải là giảm sự quan trọng của những nhà chuyên môn về luật trong công
cuộc làm luật. Họ có ngòi bút tả rõ và ngắn những điều luật họ quen nhìn thấy
những kết quả hợp lý và xã hội (conséquences logi - ques) mà người khác không
ngờ của một điều luật, họ kinh nghiệm để nghĩ ra những tổ chức có thể thực hiện
trong thực tế những nguyên tắc đã được Quốc hội biểu quyết (xin lỗi, nếu hơi
chủ quản).
Ta thấy rõ rằng luật pháp là phía mặt chuyên môn của
chính trị cho nên sự kết hợp giữa những nhà chính trị và luật gia là một điều
càng trở về hòa bình càng thấy cần thiết.
Về cán bộ tư pháp, ông Quang Đạm muốn cho thẩm phán quyền
sửa đổi cả luật pháp.
Ông nói rằng quan tòa phải đứng vào lập trường nhân
dân mà phân biệt màu sắc trắng đen của luật pháp. Tôi thấy bị giam trong một
vòng luẩn quẩn. Quốc hội là đại biểu trực tiếp của nhân dân, đã đứng vào lập
trường nhân dân mà định trong pháp luật rằng việc này thì đen việc kia thì
trắng. Quan tòa sử dụng như luật định là tôn trọng ý trí của nhân dân rồi còn
gì nữa; quan tòa lại còn xét lại điều luật như thế nào nữa?
Xử đúng luật pháp không phải lả bỏ rơi thực tế, bởi vì
luật pháp không máy móc chật hẹp, luật pháp định một giới hạn rộng rãi (thí dụ
phạt từ 1 năm đến 5 năm), trong ấy quan tòa có thể định liệu để áp dụng điều
luật cho đúng thực tế phức tạp và linh động (thí dụ cũng một tội ấy mà người
này thì bị phạt 3 năm, người kia thì một năm hay cho án treo). Một khi điều
luật đã lạc hậu hay trái ngược với thực tế thì quan tòa chỉ có thể trình lên
Quốc hội để xin thay đổi mà thôi. Nếu Quốc hội không đồng ý hay sửa đổi quá
chậm thì sẽ chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Ông Quang Đạm viện giáo sư Lơ Bờ-ra, nói rằng : “Tòa
án Liên Xô hoàn thành sự nghiệp cách mạng, nghĩa là chú trọng về việc tìm hiểu
tinh thần chung của chế độ hơn việc giải thích luật pháp theo mặt chữ, nhìn
nhận nghĩa đen của luật pháp”, “Quan tòa Liên Xô thường theo từng điều kiện
thực tế mà áp dụng luật pháp cho mềm dẻo. Có khi phạt nhẹ một việc mà luật định
phạt nặng, có khi không xử phạt một việc mà luật có định phạt…”.
Ông Quang Đạm quả quyết rằng “nhân dân Việt Nam chỉ mong có
nhiều quan tòa như thế mà thôi”. Tôi e rằng ông đang muốn bê một gốc cây Liên
Xô về nhà, mà lại gán cho nhân dân. Bởi vì đây là một vấn đề kỹ thuật pháp lý
tế nhị (problème de technique juridique délicat) mà nhân dân chắc cũng chưa xét
đến.
Tôi không được đọc Lơ Bờ-ra , còn quyển “Luật pháp và
tư pháp” của Giăng Phông – tên mà tôi có trong tay thì quá sơ sài, nên tôi chưa
nghiên cứu được hẳn hoi vấn đề và sẽ không hấp tấp kết luận. Tôi chỉ vạch qua
mấy điểm sau này về Tư pháp của ta:
Khi áp dụng một đạo luật tối nghĩa, Tòa án nào cũng
phải tìm hiểu tinh thần đạo luật nghĩa là ý tứ của cơ quan lập pháp.
Đời sống biến chuyển nên khi áp dụng luật pháp tất
nhiên phải mềm dẻo. Nhưng sự mềm dẻo này không phải là được tự do muốn bác đạo
luật đi cũng được, mà chỉ là có thể định liệu lên xuống trong một giới hạn mà
luật cho phép, nghĩa là vẫn ở trong vòng pháp luật. Khi sắc lệnh số 168 phạt cờ
bạc từ một năm đến ba năm và không cho hưởng án treo thì Tòa án dù gặp trường
hợp đáng khoan hồng đến đâu cũng chịu không thể tha hay phạt dưới một năm được.
Nguyên tắc tổ chức Tư pháp này dựa vào một căn bản
chính trị thiết yếu. Luật pháp có thể phạm tới tính mệnh, tài sản, quyền tự do
của người công dân, cho nên chỉ có Quốc hội là 400 đại biểu của toàn quốc mới
có quyền làm ra luật mà thôi. Khi luật pháp đã ban hành thì mọi người đều phải
tôn trọng, không thể lấy một cớ gì để bác đi.
Xem quyển của Giăng Phông-tên : “ Chỉ có kẻ thù của
nhân dân, lời của nghị sĩ Bu-ka-nốp nói, mới viện những lẽ tùy cơ mềm dẻo gì ấy
để đối chọi với luật pháp. Luật pháp của Nhà nước là ý chí của nhân dân…”.
Ông
Xit-ta-lin nói: “Sự vững vàng của luật pháp, bây giờ cần hơn bao giờ hết”.
(Seuls les ennemis du peuple, dit le député Boukanov, pourraient opposer à la
loi, je ne sais
quelles considérations d’ opportunité ! Les lois adoptées par l’ Etat
socialiste expriment la volonté du peuple de l’ Union soviétique… La stabilit é
des lois est nécessaire maintenant plus que jamais , dit Staline).
Ai không theo pháp luật thì phải mang ra tòa án. Nhiệm
vụ chính yếu của tòa án là làm cho mọi người phải tuân theo pháp luật. Khi Quốc
hội xét thấy một việc có hại cho quyền lợi nhân dân mà ra một đạo luật phạt
nặng, nếu quan tòa lại không xử phạt thì tức là chính mình không tôn trọng pháp
luật, đã đi trái với 400 đại biểu nhân dân, cản trở ý chí của Quốc hội là cơ
quan cao nhất trong nước.
Nếu quan tòa Liên Xô có thể “không xử phạt một việc mà
luật pháp định, nếu xét ra làm thế là có lợi cho nhân dân Liên – Xô, và phụng
sự lý tưởng cách mạng”, thì chắc có một đạo luật nào của Liên Xô cho phép như
thế với những điều kiện rõ ràng. Đứng trước trường hợp như thế, tổ chức Tư pháp
của ta dùng một kỹ thuật pháp lý khác là cho quyền Công tố viên được xếp bỏ
không truy tố.
Câu chuyện trừng phạt những kẻ bắt người trái
phép – Ông Quang Đạm biện bạch cho những người “có lòng vì nước đã sốt
sắng bắt bọn Việt gian xảo trá, mà vì không hiểu thể lệ hay hoàn cảnh kháng
chiến đã không làm được hoàn toàn đúng phép”.
Tôi chưa thấy Tòa án đã khép tội một người nào ở trong
trường hợp mà ông Quang Đạm đã nêu ra. Nếu ông Quang Đạm ở trong chính quyền
thì ông sẽ biết Công tố viên và án lệ đã nhân nhượng đến thế nào về những vi
phạm đã do sự không biết luật hay sự luật pháp không công bồ được đầy đủ mà gây
ra. Ông sẽ lại biết nhiều vụ bắt giam mà không vì công tâm hay vì trừ gian tý
nào và cái tình trạng bắt người bừa bãi lúc đầu đã được chấm rứt vì Tòa án đã
cương quyết truy tố. Nhất là ông sẽ thấy rằng không phải chỉ bên Tư pháp mà cả
những cấp chỉ đạo bên Kháng chiến, Công an cũng đống ý đối phó cương quyết, và
áp dụng cho được sắc lệnh số 40 về bảo đảm tự do cá nhân là hợp với ý nguyện
của nhân dân.
Ai lại không sốt sắng trừ khử lũ Việt gian nhưng tất
cả vấn đề là làm thế nào để kẻ vô tội khỏi bị bắt nhầm, nhất là bị giam giữ kín
đáo trong một thời gian... Vấn đề ấy đã được giải quyết bằng những sắc lệnh đặt
một thủ tục phải theo khi muốn bắt một người công dân. Tòa án và các U.B.K.C
H.C đòi áp dụng các sắc lệnh ấy chỉ là tuân theo Chính phủ kháng chiến và bênh
vực quyền lợi của người dân. Tôi không biết ông đã có dịp nào được nghe người
dân thổ ra những ý kiến về vấn đề này chưa?
Sự cộng tác chặt chẽ giữa Tư pháp và Kháng chiến Hành
chính: Đọc ông Quang Đạm ở quãng này, tôi tưởng như Tư Pháp là một bọn giặc
đang giao chiến với Kháng chiến Hành chính và sắp đưa ra trước búa rìu của quốc
dân.
May thay, Chính phủ không hiểu như thế và sự thực cũng
không thể. Lúc đầu tiên, khi Hành chính kiêm cả Tư pháp, chính ý nguyện của
nhân dân và của các Ủy ban hành chính là đòi thiết lập Tòa án chuyên môn. Sở dĩ
từ bấy đến nay, các Tòa án đứng vững và tăng tiến được là vì đã xứng với lòng
tín nhiệm của nhân dân. Một lần nữa, tôi không hiểu tại sao ông Quang Đạm lại
khuyên đi khuyên lại rằng “Tư pháp phải đứng trên lập trường nhân dân mà đấu
tranh chống kẻ thù chung”.
Những sự đụng chạm giữa Hành chính và Tư pháp cũng như
giữa Hành chính và các cơ quan khác chỉ là điều tất nhiên, nhất là trong lúc
chúng ta đang lắp bộ máy Nhà nước. Ông Quang Đạm đừng nên dùng những lời quá
đáng để nhắc lại không được đúng ý kiến của ông V.Đ.H, và của tôi trong bài trước,
những lời như thế chỉ gây ác cảm giữa Kháng chiến Hành chính và Tư pháp và làm
cho người ta tưởng tượng Tư pháp có thể “ khinh rẻ ý chí nhân dân và bỏ rơi
quyền lợi nhân dân”.
“Sự phân phối quyền hạn giữa Kháng chiến Hành chính và
Tư pháp chỉ là một sự phân công phụ trách để làm cho khoa học”. Chẳng ai chối
cãi được một điều rõ ràng như thế. Nhưng để làm cho khoa học nghĩa là gì? Nghĩa
là:
Giao
mỗi loại việc cho một cơ quan chuyên trách thì làm việc được nhanh và thạo hơn.
Mỗi quyền hành giao cho một cơ quan thì sử dụng được
đúng và bộ máy Nhà nước trong toàn cục chạy đều hơn. Một là vì cơ quan nọ sẽ
kiểm soát cơ quan kia, thí dụ Công an sẽ khiến Tư pháp không ăn tiền, Tư pháp
sẽ khiến Công an không bắt nạt dân. Hai là tránh những sự lạm dụng, bởi vì kinh
nghiệm bao nhiêu năm ở các nước và ở ngay nước ta cho biết rằng nhiều quyền tập
trung vào một cơ quan thì ắt sẽ xảy ra lạm quyền, phân phối cho nhiểu cơ quan
thì giảm được rất nhiều các hành vi quá lạm. Thí dụ: một ủy ban đánh thuế quá
mực hay trưng dụng vô lý, người công dân phản đối mà vụ kiện lại đưa cho chính
ủy ban ấy xử thì tất nhiên phải thiên lệch , giao cho Tòa án là một cơ quan
không bao giờ được dính dáng đến việc thu thuế hay trưng dụng, tất nhiên được
vô tư hơn.
Chính nhờ ở cách phân quyền ấy mà đã nhiều lần người
công dân bị một cơ quan áp bức đã có thể cầu cứu ở một cơ quan khác.
Kháng
chiến Hành chính và Tư pháp đều phụng sự quyền lợi của nhân dân, tuy thế, vẫn
phải phân quyền giữa hai bên thì mới bảo đảm được cho người dân lẻ loi khỏi có
khi bị đè nén. Kinh nghiệm thực tế cho ta biết thế, mà điều này không có gì là
trái ngược cả.
Ông Quang Đạm lý luận rằng hễ Tư pháp và Kháng chiến
Hành chính cùng đại diện cho nhân dân thì “còn ai lộng quyền với ai”, “người đa
nghi đến đâu cũng không lo ngại rằng nhân dân lại lộng quyền với nhân dân
được”.
Thật là một bài thơ. Trong một quả trứng còn có mâu
thuẫn, giữa hai vợ chồng còn có sự lộng quyền, trong nội bộ một cơ quan còn có
sự xung đột được thì những đại biểu của nhân dân có thể mâu thuẫn với nhau hay
với nhân dân được. Bởi thế, mới có quyền bãi miễn.
IV- Kết luận
Ôn lại các lời phê bình của ông Quang Đạm thì thấy
rằng, về hình thức, ông đã có những lời hay ý gay gắt đối với anh em Tư pháp và
nguyên nhân là những điều hiểu lầm của một số anh em chính trị về các cán bộ Tư
pháp. Thực ra, nếu hai bên có nhiều dịp gặp nhau thì sẽ thấy rằng không xa nhau
đến như người ta tưởng và những điều chứa chất trong lòng là vô căn cứ.
Về nội dung, ông Quang Đạm đã trình bày một quan niệm
có tính cách đại cương và chính trị về cơ quan Tư pháp, có thể tóm lại trong
một câu: “Tư pháp là một cơ quan của tập đoàn thống trị, hay tâp đoàn ấy là
nhân dân đang kháng chiến thì Tư pháp cũng phải bênh vực nhân dân và phụng sự
kháng chiến”. Quan niệm này đại cương như một khẩu hiệu chính trị, không cho ta
thấy một kế hoạch cụ thể để giúp vào việc kiến thiết, cũng không đạt được việc
tổ chức Tư pháp cho thiết thực và trúng cách.
(Trong
quan niệm của ông Quang Đạm, giá thay chữ Tư pháp bằng tên một cơ quan khác thì
cũng cứ được như thường).
Ở đây, ta nhận thấy một nhược điểm của chúng ta là
người nào đã chuyên về chính trị thì lãng bỏ hay khinh rẻ chuyên môn thành ra
đến lúc muốn áp dụng các lý thuyết chính trị để giải quyết một vấn đề chuyên
môn nào thì không có đủ tài liệu. Trái lại, người chuyên môn không nghiên cứu
chính trị sinh ra hẹp hòi trong tư tưởng và thủ cựu trong phương pháp làm việc.
Lý tưởng, như một luật gia xã hội Pháp nói, là có được
nhiều nhà chính trị có luật học và nhiều nhà luật học làm chính trị.
Muốn thế thì để bắt đầu trong các lớp giảng luật của
ta, phải dạy chính trị và trong các lớp cán bộ chính trị phải học cả pháp lý.
VŨ TRỌNG KHÁNH
---------------------
Bài 3. DANH TÀI HỌ VŨ – LUẬT SƯ VŨ TRỌNG
KHÁNH – NHÀ TRÍ THỨC HỌ VŨ YÊU NƯỚC
Đăng trong tập báo Vũ tộc tinh hoa Hải
Phòng, Xuân Nhâm Thìn 2012
*
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi – Hội Sử học Hải Phòng
Vũ Trọng Khánh quê làng Cự Đà huyện Thanh Oai tỉnh Hà
Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) nhưng sinh năm 1912 ở Hà Nội vì gia đình
làm nghề buôn bán nhỏ tại nội đô. Vốn thông minh ham học nên sau khi học xong
bậc Thành chung ông thi trúng vào trường Trung học Pháp Albert Sarraut, một
trường danh giá ở xứ Đông Dương thuộc Pháp ngày ấy.
Năm 1932 đỗ Tú tài toàn phần, Vũ Trọng Khánh trúng
tuyển trường Luật thuộc Viện Đại học Đông Dương khóa 1933 – 1936. Thời gian học
ở trường Luật, ông giao du với chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thế Rục. Trong phong
trào đấu tranh đòi thả nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, để tang Phan Chu
Trinh..., Vũ Trọng Khánh đều tham gia. Khi học luật, ông tham gia Tổng hội sinh
viên. Thời kỳ Mặt Trận nhân dân (1936 - 1939), ông viết báo Le Travaill (tức
báo Lao động) cơ quan công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương và hoạt động trong
tổ Thanh niên dân chủ với các chiến sĩ cách mạng Đào Duy Kỳ, Vũ Đình Huỳnh,
Phan Tử Nghĩa...
Ông rất kính trọng các chiến sĩ cộng sản ông quen biết
nhưng vẫn e ngại vì chưa rõ, chưa thật tin học thuyết Mác – Lê nin. Sau khi tốt
nghiệp trường Luật, ông xuống Hải Phòng tập sự ở văn phòng luật
sư Laubiès ở phố Trần Hưng Đạo, ngôi nhà khách thành phố số 7 – Khách
sạn Hoàng Yến bây giờ.
Thấy
ông tháo vát, có tinh thần trách nhiệm cao nên luật sư Laubiès rất tin cậy cho
làm luật sư tập sự. Ngày 26/12/1941 ông tuyên thệ luật sư trước tòa Thượng thẩm
rồi được Laubiès giao điều hành văn phòng.
Sau khi phát xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền
thực dân Pháp ở Đông Dương ngày 9/3/1945 và tuyên bố trao trả “nền độc lập” cho
Việt Nam ,
vua Bảo Đại ban đầu giao cho Thượng thư Phạm Quỳnh lập nội các mới. Nhưng đến
ngày 17/4/1945, vua Bảo Đại lại ký Dụ số 1 “Cải tổ bộ máy triều đình cho phù
hợp với tình hình mới” mời giáo sư Trần Trọng Kim đứng ra lập chính phủ mới.
Thành phần chính phủ này có luật sư Trịnh Đình Thảo, anh vợ Vũ Trọng Khánh,
luật sư Vũ Văn Hiền, người Hải Phòng; do sự hiểu biết sâu rộng của ông mà luật
sư Vũ Trọng Khánh được mời giữ chức Thị trưởng thành phố Hải Phòng; nhà tư sản
yêu nước Nguyễn Sơn Hà giữ chức phó Thị trưởng. Tuy giữ chức vụ thời gian ngắn,
nhưng hai ông cố làm một vài việc có ích cho dân như dẹp bọn tay sai trung
thành với đô hộ Pháp, cứu người cơ cực trong nạn đói khủng khiếp tháng 3 năm Ất
Dậu (1945).
Bài báo nổi
tiếng của ông về tổ chức vận động cứu đói có tiếng vang tốt. Trong cao trào
kháng Nhật, ông có liên hệ với bạn là Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, cán bộ
Việt Minh ở Hà Nội. Khi được tin một số tỉnh, Việt Minh đã giành được chính
quyền, ông muốn tìm cách bàn giao chính quyền nhưng tránh đổ máu. Đồng chí Ích
và vài cán bộ Việt Minh rải truyền đơn bị bắt, ông ra lệnh tha. Lực lượng Bảo
An binh do Nhật tổ chức, kể cả trung đội do cai Hóa chỉ huy canh gác tòa
Thị chính ông cũng cảm hóa được.
Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh
vô điều kiện; ngày 15/8/1945, chính phủ De Gaulle cử Đô đốc D’ Argenlieu làm
Cao ủy Pháp ở Đông Dương kiêm Tổng tư lệnh hải lục không Pháp ở Viễn Đông. Hai
ngày sau, Pháp triển khai lực lượng vũ trang nhằm khôi phục chính quyền thực
dân ở Đông Dương. Hai tàu chiến Pháp lúc Nhật đảo chính trốn chạy ẩn núp ở đảo
Cô Tô được lệnh tiến vào Hải Phòng. Lúc này, ông Vũ Đình Huỳnh xuống Hải Phòng
gặp Vũ Trọng Khánh thông báo tình hình và bàn cách chuyển giao chính quyền.
Nhưng viên Đại tá chỉ huy Nhật ở Hải Phòng từ chối
không giúp ông vũ khí để chống bọn Pháp nên ông phải cử chánh án Phan Huyền và
ông Xuân cán bộ tòa án sang Thủy Nguyên tìm gặp Nguyễn Bình, vì ông biết tin
Tri phủ Nguyễn Quang Tạo đã theo Việt Minh được Việt Minh trọng dụng. Sau khi
nghe hai ông Huyền – Xuân tường trình, ông sang ngay chùa Phương Mỹ trực tiếp
gặp Nguyễn Bình, Chỉ huy trưởng nghĩa quân Đệ tứ chiến khu Đông Triều và được
Nguyễn Bình tiếp đón thân mật hòa nhã. Hai ông bàn thống nhất kế hoạch chuyển
giao chính quyền tránh đổ máu bằng cách trung lập hóa quân đội Nhật và kiên
quyết chống bọn tàn quân Pháp muốn chiếm thành phố Hải Phòng làm đầu cầu cho
quân đội viễn chinh Pháp đang tiến dần ra Bắc. Ông về ngay nội thành gặp Chỉ
huy quân Nhật dọa nếu không giúp võ khí thì sẽ hạ lệnh giết kiều dân Pháp vì họ
đang chuẩn bị phối hợp hành động khi 2 tàu Pháp tiến vào sông Cấm.
Để tránh phiền phức với Pháp trong phe Đồng Minh thắng
Nhật, viên Đại tá chỉ huy Nhật hứa không can thiệp vào nội tình Việt Nam và đưa 2
trọng liên chặn đánh nếu tàu chiến Pháp tiến vào cửa sông Cấm với điều kiện
không sát hại kiều dân Pháp. Ông ta lại yêu cầu gặp đại diện Việt Minh Hải
Phòng để bàn giao chính quyền.
Một cuộc họp khẩn cấp giữa Thị trưởng và Ủy ban khởi
nghĩa Hải Phòng tại trụ sở Ủy ban ở phố Cát Dài được tổ chức để thống nhất kế
hoạch. Sáng 22/8 Thị trưởng Vũ Trọng Khánh cùng hai đại diện Thành bộ Việt Minh
Vũ Quốc Uy, Nguyễn Kiêm Tuấn (Mạnh Ái) gặp Đại tá chỉ huy quân Nhật bàn thống
nhất ngày 23/8 quân Nhật cấm trại, ông ta thả hết tù chính trị vào 17h ngày
23/8.
Sáng ngày 23/8/1945, nhân dân Hải Phòng, các đội tự vệ
nội đô, Kiến An với đại quân chiến khu Đông Triều tiến vào nội thành biểu dương
lực lượng, chào mừng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Hải Phòng do
nhà cách mạng Vũ Quốc Uy làm chủ tịch, luật sư Vũ Trọng Khánh giữ chức Ủy viên
hành chính, vợ nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà, phó thị trưởng là bà Nguyễn Thị Ngọc
Mùi làm Ủy viên xã hội.
Ngày 27/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Dộng hòa thành lập và ra tuyên cáo. Ngày 28/8 danh sách thành viên Chính phủ
lâm thời được công bố gồm: Hồ Chí Minh – Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao; Võ
Nguyên Giáp – Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Nguyễn Mạnh Hà – Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc
gia; Vũ Trọng Khánh – Bộ trưởng Bộ Tư pháp... Như vậy trong Chính phủ lâm thời,
Hải Phòng có 2 Bộ trưởng trong tổng số 14 Bộ trưởng.
Ngày 13/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời, Hồ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của nhân dân ta: Phát động
tăng gia sản xuất cứu đói; Mở chiến dịch chống nạn mù chữ; Tổ chức càng sớm
càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự
do dân chủ cho nhân dân; Mở phong trào giáo dục cần kiệm liên chính, bài trừ
thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại; bãi bỏ ngay thuế thân, thuế chợ, thuế đò,
nghiêm cấm việc hút thuốc phiện; tuyên bố tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương
giáo.
Mục
đích tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Nghị viện nhân dân, xây dựng Hiến pháp để bảo
đảm quyền lợi trách nhiệm công dân của một nhà nước của dân do dân vì dân. Ngày
20/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 34 “ lập một Ủy ban dự thảo và đệ trình
Quốc hội một bản Hiến pháp cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa...” gồm 7 vị: Hồ Chí
Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng,
Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).
Công việc vô cùng khó khăn, thời gian hết sức gấp gáp,
Hồ Chủ tịch đề nghị Ủy ban giao cho giáo sư Đăng Thai Mai cùng luật sư Vũ Trọng
Khánh viết bản Dự thảo. Hai ông tập trung thời gian sức lực xây dựng Đề cương
trình Ủy ban góp ý thông qua rồi chia nhau viết. Theo GS Đặng Thai Mai: “Vũ
Trọng Khánh chịu trách nhiệm viết các phần quan trọng nhất, chiếm khoảng 3/4 dự
án. Tôi chỉ viết 1/4 còn lại. Sau đó, anh Khánh duyệt phần do tôi viết rồi viết
lại toàn bộ văn bản trước khi chuyển tới Võ Nguyên Giáp”.
Quá trình Dự thảo, hai ông tranh thủ ý kiến đóng góp
của luật gia Võ Nguyên Giáp, hai cụ Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, nhiều trí thức
nổi tiếng như các luật sư Phan Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Đình Hòe, GS Nguyễn
Văn Huyên được các vị tham góp nhiều ý kiến giá trị. GS Nguyễn Mạnh Tường còn
cho mượn tất cả những văn kiện bằng tiếng Pháp (Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, Hiến
pháp Mỹ, Hiến pháp Pháp....) mà Hồ Chủ tịch yêu cầu phải tìm [để] Người và Ủy
ban tham khảo. Khoảng 26/10/1945, dựa vào phần GS Đặng và phần mình
viết, luật sư Vũ Trọng Khánh tổng hợp thành một bản dự thảo Hiến pháp
chính phủ lâm thời do chính ông viết lại. Khoảng 30/10/1945, sau khi đọc xong
bản tổng hợp trên, luật gia Võ Nguyên Giáp làm việc lần cuối cùng với hai ông,
tán thành về cơ bản, chỉ góp ý nên rút bớt khoảng 1/3. Ngày 02/11/1945, luật sư
Vũ Trọng Khánh chỉnh lý xong theo góp ý của Võ Nguyên Giáp, hai ông nhất trí
chuyển bản dự thảo cuối cùng lên Hồ Chủ tịch. Ngày 06/11/1945 bản dự thảo được
Hồ Chủ tịch thông qua, Người ký tắt rồi chuyển cho hai ông mỗi người một bản.
Ngày 08/11/1945, Ủy ban Dự thảo họp phiên cuối cùng do
Hồ Chủ tịch, Trưởng ban chủ trì, Người đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng
Khánh đọc toàn văn bản dự thảo. Tất cả 7 thành viên biểu quyết tán thành. Hồ
Chủ tịch kết luận: Đây là bản dự thảo đặc sắc. Ông Vũ Trọng Khánh có công đầu.
Người đề nghị dự thảo này mang tên Dự án Hiến pPháp Việt Nam và yêu cầu Bộ
trưởng Bộ Tư pháp – Vũ Trọng Khánh, Bộ trưởng Nội vụ - Võ Nguyên Giáp (đại diện
pháp lý của Chủ tịch nước) cho công bố ngay. Bản Dự thảo được các báo đăng, hai
nhà in Ngô Tử Hạ, Lê Văn Tân cùng nhiều nhà in giúp in ngay 5 vạn bản phát
không cho nhân dân để nhân dân tham gia góp ý. Những bản phát không đến nhân
dân gồm 2 phần: Thông cáo và Toàn văn Dự án.
Thông cáo nêu rõ: “Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc
lập Hiến pháp của nước nhà nên Chính phủ cho công bố bản Dự án Hiến pháp này để
mọi người được đọc kỹ càng và được tự do bàn bạc, phê bình”. Thông cáo còn được
in toàn văn dán khắp các nơi công cộng ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Hải Phòng và
nhiều thành phố, thị trấn khắp cả nước. Khoảng từ 11/11/1945 đến 31/12/1945,
diễn ra cuộc chào đón bàn bạc góp y sôi nổi của các tầng lớp nhân dân toàn
quốc. Bộ Tư pháp nhận được hàng ngàn thư góp ý, chưa kể những người trực tiếp
gặp cán bộ Việt Minh trao đổi, đề nghị giải thích điểm này, chữ nọ trong Dự án.
Đây thực sự là cuộc sinh hoạt chính trị rộng rãi, tự nguyện, thẳng thắn sôi nổi
của nhân dân ta xây dựng dự án Hiến pháp thành văn đầu tiên của Chính phủ lâm
thời, trong đó thể chế nghị viện nhân dân là cốt lõi. Bản Dự án Hiến pháp Việt
Nam năm 1945 của Chính phủ lâm thời là nền tảng cho việc xây dựng Dự án Hiến
pháp năm 1946 được Quốc hội biểu quyết thông qua này 09/11/1946 với 240/242 đại
biểu dự họp.
Nhận xét về luật sư Bộ trưởng Tư pháp Chính phủ lâm
thời, giáo sư Đặng Thai Mai nói: “Tôi phải thừa nhận Vũ Trọng Khánh là một luật
sư biết cách làm việc khoa học, luôn luôn lo nghĩ đến nhiệm vụ được trao phó,
luôn luôn lo nghĩ đến nhân dân. Anh vừa hiểu sâu sắc các vấn đề hiến pháp, vừa
nắm vững tiếng Pháp ngành luật, vừa sử dụng thành thạo tiếng Việt ngành luật”.
Ở cương vị Bộ trưởng Tư pháp Chính phủ lâm thời rồi
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến chỉ hơn 5 tháng, ông đã đề xuất với Chính phủ
ban hành 4 sắc lệnh quan trọng cần thiết để xây dựng ngành tư pháp cách mạng
non trẻ của nước ta gồm:
-
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 : Quy định các tổ chức luật sư.
-
Sắc lệnh số 53 ngày 20/10/1945 : Quy định quốc tịch Việt Nam .
-
Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 : Tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán.
-
Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 : Tổ chức các tòa án quân sự.
Nhưng
sau Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, tình hình chính trị quân sự xã hội nước ta diễn
biến rất phức tạp. Quân Pháp tấn công lan rộng khắp Nam Bộ, Tây Nguyên, miền
Trung Nam Bộ. Ở miền Bắc, chúng từ Vân Nam trở lại chiếm Lai Châu, Điên Biên
Phủ, Tuần Giáo và một số nơi khác ở Tây Bắc và Miên, Lào. Các đảng Việt Quốc,
Việt Cách đã triệt để khai thác tình hình khó khăn phức tạp gây sức ép với
chính quyền cách mạng.
Đảng và Hồ Chủ tịch với đường lối đại đoàn kết dân
tộc, chống giặc ngoài thù trong để bảo vệ chính quyền non trẻ nên đồng ý thành
lập Chính phủ kháng chiến chính thức ngày 03/02/1946 gồm 10 bộ: các bộ Ngoại
giao, Kinh tế, Xã hội, Canh nông do Việt Quốc, Việt Cách nắm, Nguyễn Hải Thần
giữ chức Phó Chủ tịch nước. Luật sư Vũ Đình Hòe, đảng viên đảng Dân chủ giữ
chức Bộ trưởng Tư pháp, luật sư Vũ Trọng Khánh chuyển giữ chức Chưởng lý Tòa
Thượng thẩm Bắc Bộ. Đầu tháng 7/1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp gặp luật sư Khánh
thông báo Chính quyền cử ông tham gia phái đoàn đàm phán Phạm Văn Đồng và mang
theo báo cáo tình hình trong nước trình Hồ Chủ tịch đang ở thăm Pháp theo lời mời
của Chính phủ Pháp. Cuộc đàm phán Pháp Việt đổ vỡ do thái độ ngoan cố ngạo
ngược của Pháp, phái đoàn Phạm Văn Đồng về nước, Hồ Chủ tịch ở lại cố điều đình
để kéo dài thời gian ta chuẩn bị lực lượng.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đến tháng
12/1948 luật sư Khánh làm Giám đốc Tư pháp chiến khu X bao gồm địa bàn trung
du, Tây Bắc, ông thành lập Tòa án cấp tỉnh, đào tạo cán bộ tư pháp cho tỉnh,
huyện, chú ý cán bộ người dân tộc. Từ 1949 đến 12/1951, trên điều ông về Bộ Tư
pháp giữ chức Trưởng ban nghiên cứu pháp lý rồi Giám đốc Vụ hành chính (1952 -
1954).
Sau Hiệp định đình chiến 1954, ông tham gia tiếp quản
thủ đô Hà Nội rồi thành phố Hải Phòng, từ tháng 8/1955 đến tháng 12/1956 là Ủy
viên Ủy ban hành chính; từ tháng 12/1956 đến 1961 giữ chức Phó chủ tịch thường
trực UBHC thành phố, phụ trách khối văn hóa xã hội, nhà đất.
Năm
1955, ông đã đấu tranh buộc Pháp phải trả tòa nhà của Pháp do Cao ủy Pháp xây
dựng làm trụ sở trên khu nhượng địa cũ (nay là khách số 2 Bến Bính).
Luật sư Vũ Trọng Khánh còn tham gia nhiều tổ chức
chính trị xã hội khoa học:
-
Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố (từ 11/1975 đến 1977).
-
Phó Chủ tịch UBMT TQVN thành phố 3 khóa liên tục (26/5/1961 – 26/10/1971).
-
Ủy viên Hội luật gia Việt Nam ,
Chủ tịch Hội luật gia Hải Phòng (1955 - 1977).
-
Ủy viên Ban chấp hành Hội phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam , Hội trưởng
Hội phổ biến khoa học kỹ thuật Hải Phòng...
Bất
luận ở lĩnh vực công tác nào, cương vị gì, ông đều tận tình, trách nhiệm, là
trung tâm đoàn kết nội bộ. Tuy là nhân sĩ nổi tiếng nhưng thái độ luôn hòa nhã,
khiêm nhường nên ông được đồng bào, đồng chí yêu mến.
Do có nhiều công lao ông được Đảng, Nhà nước tặng
thưởng: Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu
nước hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huy chương, bằng khen...
Nhà trí thức cách mạng đáng kính qua đời tại Hải
Phòng, nơi ông gắn bó gần trọn đời vào 18 giờ ngày 22/01/1996, hưởng thọ 84
tuổi.
N.
Đ. L.
Ghi
chú:
- Ông
sinh ngày 25 tháng Giêng năm Nhâm Tý (1912) nhưng giấy khai sinh ghi ngày
03/12/1913.
Tài
liệu tham khảo chính:
- Tự
thuật của luật sư – hiện bảo quản tại gia đình và Hội luật gia Hải Phòng.
- Lịch
sử quốc hội Việt Nam
– 1946 – 1968 - Văn phòng quốc hội – NXB Chính trị Quốc gia 1994.
- Lịch
sử Chỉnh phủ Việt Nam
– NXB Chính trị Quốc gia .
- Công
báo nước Việt Nam .
- Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và bản Hiến Pháp đầu tiên – Nhật Hoa Khanh – Tạp chí
Sân khấu số tháng 3 năm 2011.
Xuân
Nhâm Thìn 2012
----------------
/ Nguồn: Bauxite VN /
Mãi nay tôi mới được đọc câu này của cụ Vũ Trọng Khánh mà thích.
Trả lờiXóaLời nói đầu của ông Vũ Trọng Khánh trong bài Tư pháp (trả lời ông Quang Đạm):
“Tiếp theo bài của ông Quang Đạm trong Sự thật số 102, 103 ,104, ở đây tôi sẽ trình bày lý lẽ một cách điềm đạm và cụ thể, cố tránh lối văn hùng hồn và trừu tượng nó chỉ khêu gợi cảm tình mà không làm cho người ta hiểu được rõ, cũng cố tránh những lời châm biếm, nó chỉ sướng mồm kẻ nói, mất lòng người nghe mà chẳng giúp thêm lý lẽ cho trí phán đoán của độc giả”. (Báo Sự Thật số 115, ngày 10/07/1949).
Chưa kể nội dung, chỉ cái cách ăn nói với nhau, thái độ đã đáng nể rồi. Đúng là phong thái kẻ sĩ. Trân trọng nhau, chứ không cãi vã.
Sáu lăm năm trước các cụ tranh luận vậy; còn bây giờ xem con cháu cãi nhau mà chán. Nhiều bài: Tít thì dật bổ ngửa, qui chụp văng mạng, lập luận lỏng lẻo, nhưng dương dương cứ như mình độc quyền hiểu biết. Vậy thì thuyết phục sao được người đọc, chứ nói chi đến người đối diện. Thú thực liếc qua bài kiểu đấy đã biết ngay tác giả muốn phang cái gì, muốn báng bổ ai rồi. Và nó chả giúp gì xây dựng đất nước hay hòa hợp dân tộc cả.
Ước gì các ông/bà thích nói, viết hãy noi theo các cụ: "Tiên học Lễ, hậu học Văn". Lễ nghĩa với nhau cái đã, rồi hãy nói chuyên Văn (bàn quốc sự) thì mới có hiệu quả được.
Nguyễn Tử Siêm
Mục đích của nước Việt Nam là dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, muốn xây dựng được vậy, phải đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Lý luận đã sai lại cố giữ cái không thực ấy hay cố giữ cái lợi ích nhóm cái cá nhân thì thôi không tranh luận rức đầu. Đảng sáng suốt cứ theo cách cụ Hồ mà làm trước đây sẽ văn minh theo kịp 5 châu.
Trả lờiXóaCám ơn bác Hà Sĩ Phu và Bùi văn Bồng, cho tôi biêt, nhiều thông tin về bác Quang Đạm. Trước đây, nhà tôi,sát vách nhà bác Quang Đạm. Trong khu, còn có rất nhiều người, trong làng báo, có cả chức nhỏ và cao, như: Ng Thành Lê (phó đoàn ở Hội nghị Paris, trưởng ban đối ngoại TƯ),Hà Đăng-Tổng biên tập báo nhân dân, Lê Điền-Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết. Chức vụ bác Đạm lúc đó, chỉ sau bác Lê, trên chú Hà Đăng.
Trả lờiXóaÔng Tạ Quang Đạm, là em ruột bộ trưởng Tạ Quang Bửu. Mẹ ông Bửu, sống với ông bác Đạm. Tôi vẫn nhớ, cuối tuần, xe Volga trắng ông Bửu, đến đón mẹ về chỗ ông. Con trai bác Đạm, TS Tạ Quang Ngọc, đã là bộ trường bộ Thủy Sản.
Gia đình bác Đạm, được mọi người rất quý.
Nếu không nhầm, những năm 90, bác Đạm, bị "lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" khai trừ ra khỏi tổ chức của họ (tôi không biết có chính xác không, vì đã rời khỏi khu), giống như tường hợp, chuyên viên 9 (hàm hộ trưởng): Nguyễn Trung Thành-Vụ trưởng Vụ bảo vệ đảng (ban tổ chức TƯ)-Đọc Vũ Thư Hiên hoặc vụ Nguyễn Tài trên talawas
Khái niệm "Dân chủ" dễ bị tranh luận. Thiển nghĩ, "Bình đẳng" trong xã hội mới là thứ phải được tuân theo. Nếu không phải tội phạm, ai cũng được quyền sống đàng hoàng.
Trả lờiXóaViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Trả lờiXóaTự Do - Bình Đẳng - Bác Ái