* LÊ PHÚ
KHẢI
( tiếp theo)
HÀNH TRÌNH 40 NĂM CON TÔM
Người đầu tiên “phát minh” ra nghề nuôi tôm ở Đồng
bằng sông Cửu Long là anh Tư Mưa ở xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà
Mau. Cũng như đa số dân Viên An Đông, Tư Mưa sống trong rừng ngập mặn, ngày
ngày đi bắt cua, bắt ốc làm rẫy, đóng đáy sông rạch…
Năm 1980, Tư Mưa đắp bờ
bao 22 hecta đất rẫy và dẫn nước vào nuôi tôm. Sau 22 ngày, anh sổ nước lần đầu
và bắt được 8 tấn tôm. Nghề nuôi tôm trong rừng ngập mặn ở Viên An Đông ra đời
từ đấy. Nhưng nghề này chỉ dừng lại ở trạng thái tự phát manh mún, mà phải đợi
đến khi chi nhánh Liên doanh Thủy sản huyện Ngọc Hiển đóng tại xã đầu tư vốn,
vật tư, kĩ thuật… rồi gom những mái nhà heo hút tối tăm phân tán trong rừng
đước về tập trung thành những làng cá… thì nghề nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long mới phát đạt từ đó…
Nhưng không “hiền” như cây lúa, con tôm từ khi xuất
hiện ở Đồng bằng sông Cửu Long đã gây bao sóng gió. Điều này không mấy khó giải
thích. Đó là vì giá trị của nó. Trong lúc bán 1 kg lúa giá 2.000đ người trồng
lúa đã thấy mừng, thì con tôm đã có lúc giá lên đến đỉnh cao chót vót như vào
năm 2000 ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng với 160.000 đồng/kg! Đã không biết
bao nhiêu lần Đồng bằng sông Cửu Long lên “cơn sốt” giá tôm. Và cũng có năm tôm
chết hàng loạt, chết vào lúc 40 ngày tuổi sắp được thu hoạch, chết trên diện
rộng gây thiệt hại lớn như vào năm 1994.
Nhận
thấy rõ những tác hại của mặn là hủy diệt cây trồng nông nghiệp, gây trở ngại
cho cuộc sống con người và tính chất khó khăn, phức tạp của nghề nuôi tôm nên
Nhà nước chỉ cho phép nông dân được nuôi tôm ở ngoài vùng đã được quy hoạch
ngọt hóa, ngoài đê bao giữ ngọt, ngăn mặn.
Nhưng do sức hút của con tôm quá lớn nên một số nơi,
nông dân tự động phá đê bao vùng được quy hoạch ngọt lấy nước mặn vào nuôi tôm.
Thậm chí có nơi còn đi 30-40 cây số chở nước mặn về vùng đã ngọt hóa để nuôi tôm.
Thế là thôn ấp náo loạn, mất đoàn kết nghiêm trọng giữa người trồng lúa và nuôi
tôm. Thể theo nguyện vọng của nông dân, rà soát lại việc quy hoạch vùng ngọt,
nhất là vùng giáp ranh mặn ngọt từ sản xuất tôm phải chuyển sang lúa, Chính phủ
đã điều chỉnh, mở rộng diện tích nuôi tôm cho một số vùng như ở huyện Thới
Bình, tỉnh Cà Mau. Đến năm 2000, tức sau hơn 10 năm đổi mới, sản xuất nông
nghiệp ở nước ta có bước phát triển tốt, đặc biệt sản xuất lúa. Nhưng khối
lượng sản xuất lúa gạo ngày càng gia tăng mà giá gạo thị trường thế giới có
khuynh hướng giảm dần nên đời sống người trồng lúa bị ảnh hưởng. Nhằm tăng lợi
nhuận trên một đơn vị đất chuyên lúa thấp hơn nhiều so với cây trồng vật nuôi
khác, Chính phủ đã ban hành nghị quyết 09/CP ngày 15-6-2000 đề ra một số chủ
trương, chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp.
Nghị quyết 09 chỉ rõ: “Phải khai thác được lợi thế của
cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu thị trường trong nước và thế giới, phải
có khả năng tiêu thụ được hàng hóa, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và sinh
thái”.
Trên tinh thần đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã
được Bộ Nông nghiệp đề xuất hẳn đất lúa năng suất thấp sang nuôi tôm nước mặn
khoảng 40.000 hecta chủ yếu của hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. Cũng chính trong
thời điểm triển khai nghị quyết 09, vào đầu năm 2001 mô hình lúa mùa sớm – tôm
nước lợ đang bộc phát mạnh ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt ở
tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu với diện tích 100.000 hecta khi hệ thống kinh mương,
con giống, kỹ thuật nuôi trồng… chưa đủ điều kiện cho nuôi tôm. Hiện tượng này
đã được các nhà quản lý và khoa học cảnh báo trong Hội nghị sơ kết vụ Đông Xuân
2000-2001, do Bô Nông nghiệp triệu tập tại Tiền Giang tháng 4-2001.
Sau ba năm đầu (2001-2002-2003) thực hiện Nghị quyết
09, vùng chuyển đổi từ lúa sang nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long đã thu được
kết quả đáng mừng, đời sống nhiều hộ dân được nâng lên, mức tăng trưởng kinh tế
như ở Bạc Liêu đạt đến 18-20%/ năm; ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, thu nhập về
nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện bình quân trong 2 năm là khoảng 25 triệu
đồng/ha/năm, tăng 2 lần so với trồng lúa. Phải thừa nhận rằng, nhờ chuyển đổi
nuôi tôm trên đất lúa mà rất nhiều nông dân đã đổi đời. Đi trên rạch Đầm Chim,
một vùng sâu của huyện Đầm Dơi (Cà Mau), người ta thấy những ngôi nhà tường
sáng choang mọc lên nhờ trúng mùa tôm. Cán bộ ngành thủy sản địa phương còn
giải thích cho chúng tôi loại nhà tường này là được xây dựng trong vụ tôm X,
loại nhà tường kiểu kia là xây trong vụ tôm năm Y…
Nhưng cũng từ năm 2003, đặc biệt 2004 và bước sang
2005… tình hình vùng tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long đã trở nên nghiêm trọng. Bên
cạnh những hộ chuyển đổi thành công, một số không ít hộ trắng tay, sạt nghiệp,
nợ nần không trả được! Ở Bạc Liêu, dư nợ “khó đòi” lên đến 5% trong số vốn ngân
hàng Nhà nước đầu tư cho nuôi trồng thủy sản 3.600 tỷ đồng. Huyện Vĩnh Lợi (Bạc
Liêu) đã làm một việc bắt buộc là khởi kiện 29 khách hàng ra tòa vì thiếu nợ
(!); huyện Mỹ Xuân (Sóc Trăng) tổng dư nợ cho vay nuôi tôm lên đến 247 tỉ đồng;
ở Cà Mau, đến hết tháng 4 -2005, tổng số tiền cho vay để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là 2.750 tỷ, còn cho nợ 1.357 tỷ đồng, trong đó không ít nợ khó đòi…
Nhiều nông dân trong vùng được quy hoạch nuôi tôm, qua
nhiều vụ tôm chết hoài, đâm ra chán nản. Nhiều hộ dân muốn trở lại làm lúa?!
Tỉnh Bạc Liêu có 2000 hecta ao tôm bỏ hoang.
Nhưng đã nuôi tôm trở lại làm lúa đâu có dễ. Vì sao có
tình cảnh bất ổn nghiêm trọng kể trên và phải làm gì trong thời gian tới để
tiếp tục duy trì nghề nuôi tôm bền vững đã được xem là một mũi nhọn có tính
chiến lược ở Đồng bằng sông Cửu Long?
Trước tình hình bất ổn của vùng tôm ở Đồng bằng sông
Cửu Long mà các phương tiện thông tin đại chúng đã đồng thanh lên tiếng từ Nam
chí Bắc, Bộ Thủy sản đã cử một đoàn cán bộ đứng đầu là Thứ trưởng Nguyễn Việt
Thắng gồm đại diện lãnh đạo Vụ nuôi trồng thủy sản, Viện nuôi trồng thủy sản II
đóng tại TPHCM, kết hợp với cán bộ thủy sản và chính quyền các địa phương có
diện tích nuôi tôm lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long như Bạc Liêu, Cà Mau để tổ
chức các cuộc hội thảo ngay tại xã.
Qua thực tế nghe tận tai người nuôi tôm nói, nhìn tận
mắt ruộng tôm khô cạn, không khó mấy để người ta đi đến những kết luận về sự
bất ổn của vùng tôm Đồng Bằng Sông Cửu Long lúc đó:
Bảy tháng đầu năm 2005, sản lượng nuôi trồng thủy sản
ở Cà Mau là 71.000 tấn, đạt 55,5% kế hoạch, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2004,
trong đó có 51.000 tấn tôm. Ở huyện Đầm Dơi (Cà Mau) có 384 hecta nuôi tôm theo
phương thức công nghiệp, năng suất 4-5 tấn/ha/vụ, trên 95% hộ nuôi tôm công nghiệp
có lãi. Như vậy nhìn tổng thể, bức tranh con tôm ở vùng mặn Đồng bằng sông Cửu
Long không đến nỗi quá thê lương như khi chỉ nhìn nó ở từng góc hẹp.
Những điều kiện chưa đủ dẫn đến thất bại bao gồm 4 yếu
tố sau đây:
- Trước nhất là cơ sở hạ tầng nhằm vào thủy lợi. Từ
trước đến nay hạ tầng thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng
nhiễm mặn nói riêng đều nhằm phục vụ sản xuất lúa. Khi các công trình thủy lợi
cấp nước và thoát nước phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa hoàn chỉnh mà vội vã
chuyển đổi cơ cấu sản xuất thì thất bại là cầm chắc.
- Thứ hai là công tác giống, hầu hết những ý kiến
trong các cuộc hội thảo, nông dân đều ta thán về tình trạng thiếu con giống và
dù là giống đã kiểm dịch hay bị bệnh, nếu đã được đưa từ miền Trung vô thì sớm
muộn cũng sẽ được bán sạch cho người nuôi tôm. Đây là trách nhiệm hoàn toàn
thuộc về ngành thủy sản trong việc quản lý ngành đã được nêu lên từ nhiều năm
nay. Toàn tỉnh Cà Mau hiện có 905 trại sản xuất tôm sú giống, bảy tháng đầu năm
đã sản xuất được 2,5 tỷ con giống nhưng vẫn phải nhập từ miền Trung 2,7 tỷ con!
- Thứ ba là trình độ tay nghề của người sản xuất. Khác
hẳn với nghề trồng lúa đã có kinh nghiệm lâu đời trong dân gian, nghề nuôi tôm
hoàn toàn mới mẻ, đòi hỏi người nông dân có hiểu biết khoa học, phải được
chuyển giao kỹ thuật. Mặc dù các địa phương đã rất cố gắng trong công tác
khuyến ngư nhưng còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
- Thứ tư là vốn và thị trường. Nhu cầu vốn cho một
hecta chuyển đổi cần tối thiểu là 30 triệu đồng… Ngân hàng chưa đáp ứng được
yêu cầu cho vay với mức vốn như thế với nông dân. Một điều hết sức mới mẻ là
tại tất cả các địa điểm hội thảo nông dân đều có yêu cầu phải hình thành các tổ
chức như tập đoàn, hợp tác xã… cho người sản xuất tôm. Sản xuất có tính tập thể
đang là yêu cầu bức xúc của nông dân vùng nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Chính vì vậy mà các ngành chức năng trong thời gian tới sẽ phải cử mỗi cấp ít
nhất một cán bộ chuyên trách lo hình thành các tổ chức này ở vùng tôm.
Đồng bằng sông Cửu Long có 1,4 triệu hecta đất chịu
ảnh hưởng của mặn, đã có hơn 600.000 hecta nuôi trồng thủy sản, trong đó có
450.000 hecta nuôi tôm sú, nhiều nhất là ở Cà Mau và Bạc Liêu, Sóc Trăng… Đó là
vùng một vùng kinh tế quan trọng ở đồng bằng. Nếu những bất ổn xảy ra ở vùng này
không kịp thời khắc phục sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của Đồng
bằng sông Cửu Long những năm sau.
Kể từ nghị quyết 9 (09/CP) được thực thi và có chỉ đạo
sát sao của Bộ Thủy sản, tình hình con tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long đi vào ổn
định những năm sau đó… Để con tôm nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền
vững, những việc cần làm tốt hơn là phải quy hoạch thủy lợi cho vùng nuôi tôm
một cách đồng bộ, đầu tư lớn cho các trại sản xuất con giống, cung cấp thức ăn,
thú y thủy sản cho con tôm nuôi. Công tác khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật cần được làm tốt hơn nữa, vì nuôi tôm thực chất là một ngành công nghiệp
sinh học hiện đại, nông dân Đồng bằng sông Cửu Long xưa nay chỉ có kinh nghiệm
trồng lúa, nhiều người “nhảy” vô nuôi tôm mà không có kiến thức và kỹ năng là
thất bại nặng nề!
Phá rào cản thương mại trong những năm tới là một khâu
rất quan trọng để phát triển nuôi tôm bền vững. Cuối cùng là phải mở rộng diện
tích nuôi tôm theo mô hình công nghiệp và bán công nghiệp.
Cho
đến khi tôi viết những dòng chữ này (tháng 9-2014) – tức gần 35 năm sau, năm
anh Tư Mưa ở xã Viên An Đông huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau “phát hiện” ra nghề
nuôi tôm – theo một cuộc khảo sát nhỏ của tôi thì, diện tích nuôi tôm nước lợ
(tôm sú) ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là 600.000 hecta. Tôm thẻ chân
trắng (60 con một ký) có giá là 116.000 đồng một ký. Tôm thẻ 70 con một ký có
giá 112.000 đồng một ký; 90 con một ký có giá
là 100.000 đồng. Tăng 20.000 đồng một ký so với đầu năm 2014. Sáu tháng
đầu năm 2014 đã xuất khẩu tôm sú
trị giá 1,4 tỷ USD, chiếm 49% giá
trị xuất khẩu thủy sản cả nước.
CON
CÁ TRA KHÔNG TIN VÀO… NƯỚC MẮT!
Thời Xô Viết, bên Liên xô có bộ phim truyện mang tựa
đề “Matxcơva không tin vào nước mắt” nổi tiếng, gây ấn tượng mạnh với khán giả
Việt Nam một thời. Con cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long có đủ dữ liệu và kịch
tính để xây dựng một kịch bản phim truyện như thế: “Con cá tra không tin vào…
nước mắt!” nếu các nhà văn Việt Nam
đủ tài!
Hồi năm 1977, mới thống nhất đất nước, lúc đó tôi đang
công tác ở Đài Truyền hình TW (nay là THVN) có làm một phim tài liệu khoa giáo
mang tên “Nghề nuôi cá ở nước ta”. Trước
đó đã từng làm những phim nuôi cá ở miền Bắc, nay đất nước thống nhất,
được làm phim về nghề nuôi cá trên phạm
vi cả nước nên phấn khởi lắm. Đoàn làm phim chỉ có hai người, tôi là tác giả
kịch bản, anh Minh Đại là đạo diễn kiêm quay phim. Chúng tôi đi máy bay vô
TP.HCM rồi đón xe đò về An Giang – Châu Đốc. Quay được cảnh cá nhảy nhao nhao
khi cho cá ăn ở các bè nuôi cá tại Châu Đốc trên sông Hậu, quay phim Minh Đại
phấn khởi quá, cậu ta cũng nhảy lên như con cá basa dưới bè!!! Chúng tôi còn vô
các xã ấp ở An Giang để quay các ao nuôi cá tra. Khi về Hà Nội rồi, làm hậu kỳ
phim xong, được duyệt và phát sóng vào giờ “vàng” là cuối chương trình thời sự
lúc 19 giờ tối. Nhưng hỡi ôi! Chiều hôm đó, bỗng điện thoại phòng tôi làm việc
reo lên! Tổng giám đốc Đài Lý Văn Sáu yêu cầu tôi lên gặp ông. Khi tôi đẩy cửa
bước vô Tổng giám đốc nói: Cá tra viết “ch” hay “tr”? Tôi choáng váng! Quả thực
là lúc đi làm phim tôi không để ý chi tiết này. Thấy tôi lúng túng, ông liền
nói: Nếu trong hai tiếng đồng hồ nữa cậu không trả lời được câu hỏi này tôi sẽ
thay phim của cậu bằng phim khác. Ông còn nói tiếp: Đài truyền hình quốc gia,
phát thanh viên phải phát âm cho chuẩn để làm gương cho các đài địa phương…
Giám đốc Sáu nói chí lý quá. Tôi quên cả chào ông, vội
chạy tắt qua một ruộng rau muống sang Bộ Thuỷ sản ở gần đó để hỏi cá tra phát
âm thế nào? “ch” hay “tr”!
Con cá tra là như thế, ngày mới thống nhất đất nước,
cả miền Bắc và miền Trung nước ta ít ai biết con cá tra như thế nào. Ông Lý Văn
Sáu quê ở miền Trung cũng không biết nốt, nên mới làm tôi một vố… toát mồ hôi
(!) nhớ đến bây giờ. Còn bây giờ ư? Con cá tra của Đồng bằng sông Cửu Long đã
được tiêu thụ ở 130 nước và vùng lãnh thổ trong đó có: Urcraina, Nga, Hà Lan,
Mỹ, Ba Lan, Singapore ,
Ả Rập Xê út, Mêhicô, Hồng Kông, Nhật Bản v.v…
Hai chữ “cá tra” luôn xuất hiện dày đặc trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Cá tra là sản phẩm độc đáo và giá trị của Đồng
bằng sông Cửu Long. Phù sa nước ngọt, khí hậu ôn hoà… đã sinh ra nó. Và còn hơn
cả con tôm nuôi, con cá tra đã gây biết bao sóng gió trên thị trường thuỷ sản
Việt Nam .
Có thời gian, nhiều người giàu tấy lên vì nuôi cá tra, ít lâu sau có người
khuynh gia bại sản vì con cá tra. Người nuôi cá da trơn ở Mỹ từng kiện chính
phủ Mỹ vì không công bằng với họ, lý do là, Việt Nam
chưa phải là kinh tế thị trường, người nuôi cá tra ở Việt Nam được chính phủ hỗ trợ để họ bán
phá giá! Gây thiệt hại cho người nuôi cá da trơn ở Mỹ. Việt Nam thì phản đối kịch liệt. Có lúc
còn kiện tụng nhau về vụ cá tra! Nghe đâu tỉnh An Giang có xây cả một cái tượng
đài về con cá tra!
Người viết đã từng về thăm hai ao nuôi cá tra của ông
Bảy Nhị ở An Giang, mỗi ao 1 hecta. Ông Bảy Nhị (Nguyễn Minh Nhị) sau khi rời
chức chủ tịch tỉnh An Giang, nghỉ hưu cũng về nuôi cá tra. Hai cái hồ nuôi cá
tra của ông Bảy ở đất cồn giữa sông Hậu. Nước ngọt vào ra thật thuận lợi. Đi
quanh hai cái hồ nuôi cá tra, chỉ nhìn những cây đu đủ mọc quanh hồ mang trái
cũng thấy sướng con mắt. Bầy chó cả chục con chạy quanh hồ, con nào cũng béo
tròn béo trục vì chúng được ăn cơm trắng với cá quanh năm! Con cá tra lớn lên ở
môi trường như thế nên nó là đặc sản của vùng đất này. Nhiều lúc nó bùng phát
nên đã từng rơi vào khủng hoảng thiếu thừa.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã phải xây
dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến
năm 2020. Đề án đó rất cụ thể về kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, kể cả dự báo
cạnh tranh quốc tế của mặt hàng cá tra Việt Nam với một số nước có điều kiện
sản xuất tương tự như Việt Nam là Trung Quốc, Thái Lan, Bangladesh và Mỹ…
Hội nghị triển khai đề án trên của Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn được tiến hành tại Cần Thơ cuối năm 2009 do Bộ Trưởng Cao
Đức Phát chủ trì có đầy đủ các chủ trang trại nuôi cá, chủ doanh nghiệp, chế
biến và xuất khẩu hội nghề cá Việt Nam dự.
Theo số liệu của bộ Nông nghiệp và phát triển n ông
thôn thì sản lượng cá tra của Đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 95% sản lượng
cá da trơn của cả nước. Tuy chỉ với 6.160 ha nuôi ở 9 tỉnh, thành phố trong
vùng những giá trị xuất khẩu cá tra giai đoạn 2000-2008 đã gần đuổi kịp tôm
nuôi nước lợ. Năm 2008 sản lượng cá tra nuôi đạt trên 1,2 triệu tấn, sản lượng
xuất khẩu đạt 640.829 tấn (tăng 65,6% so với năm 2007) và giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt 1,453 tỷ USD, chiếm 32,2% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của cả
nước (tăng 48,4% so với năm 2007) và đóng góp khoảng 2,0% GDP của cả nước. Thị
trường tiêu thụ cá tra ngày càng mở rộng.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải nắm giá cả con cá tra
ngay từ đầu vụ để thông báo cho người nuôi cá. Giá cá tra hiện tại (2014) là từ
15.000 đến 25.000 đồng/1ký.
Theo chi cục thuỷ sản các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long, đến tháng 8-2014, luỹ kế diện tích nuôi mới cá tra là 2.323 ha và diện
tích thu hoạch là 2.146 ha, sản lượng 586.413 tấn, năng suất đạt trung bình
khoảng 273 tấn/ha. Các tỉnh có diện tích nuôi và đạt sản lượng cao như An
Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ (chiếm khoảng 87% tổng diện tích và sản lượng
của Đồng bằng sông Cửu Long).
Số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch
xuất khẩu cá tra đến nửa đầu tháng 7 năm 2014 đạt trên 890 triệu USD, giảm
2,12% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó EU chiếm 21,23% trở thành thị trường
nhập khẩu cá tra hàng đầu của Việt Nam , tương đương với 189,57 triệu
USD. Thị trường Mỹ chiếm 18,27% tương đương 163,12 triệu USD, giảm 31,86% so
với cùng kỳ năm 2013. Hiện tại, cá tra Việt Nam xuất khẩu đến 137 quốc gia và
vùng lãnh thổ…
(còn tiếp)
-------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét