* NGUYỄN TẤN ĐẠI
Những ngày gần đây, nhiều tờ báo trong nước loan tin
Việt Nam đứng thứ 12 trong “bảng xếp hạng chất lượng trường học toàn cầu” của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Phản ứng của dư luận tương đối
trái chiều, người thì hoan hỉ vui mừng, người thì hoài nghi phê phán, người thì
chừng mực cẩn trọng. Song, có một câu hỏi cần đặt ra: OECD có thực hiện một
bảng xếp hạng, tiếng Anh thường gọi là ranking hay league table, như vậy hay
không?
Theo quan sát, cách gọi tên “bảng xếp hạng” có vẻ như
xuất phát từ bài báo “Asia tops biggest global school rankings”1 của Sean
Coughlan đăng trên BBC News ngày 13/05/2015 (và có thể vài tờ báo khác). Trong
đoạn video kèm theo bài báo, BBC đã dùng biểu tượng có tên gọi Global Education
Rankings (Bảng xếp hạng giáo dục toàn cầu) như Hình 1. Đồng thời, tác giả
thường xuyên dùng từ school rankings hay league table, tạo cho người đọc ấn
tượng rằng đây là một “bảng xếp hạng” tương tự như Times Higher Education, QS,
hay Đại học Giao thông Thượng Hải đã thực hiện ở bậc đại học. Bài báo có lẽ
được viết dựa vào bài thuyết trình của ông Andreas Schleicher, Giám đốc Ban
Giáo dục và Kĩ năng của OECD, trình bày tại Luân Đôn ngày 11/05/2015. Bài
thuyết trình này lại là phần tóm tắt những nội dung quan trọng nhất trong tập
báo cáo “Universal Basic Skills: What Countries Stand to Gain”2 của hai
tác giả Eric A. Hanushek và Ludger Woessmann, do công bố OECD chính thức sau đó
hai ngày.
Điều đáng nói là, trong cả bản thuyết trình lẫn toàn
văn tập báo cáo kể trên, OECD không hề dùng tên gọi Global Education Rankings
hay khái niệm league table để nói đến các kết quả khảo cứu của mình. Chỉ có hai
khái niệm ranking (xếp hạng hoặc thứ hạng) và school leaders (các nước dẫn đầu
về chất lượng trường học) xuất hiện vài lần trong toàn văn báo cáo, nhưng hoàn
toàn không có nghĩa hay mục đích xác định rằng đây là một “bảng xếp hạng” như
đã nói ở trên. Ranking xuất hiện cả thảy 12 lần trong toàn bộ 110 trang văn
bản, chỉ nhằm nói đến việc sắp xếp kết quả đánh giá theo thứ tự cao-thấp để
giải thích các vấn đề liên quan. School leaders xuất hiện tổng cộng sáu lần,
chỉ để nói đến các nước có kết quả kiểm tra của học sinh cao nhất nhằm rút ra
các bài học kinh nghiệm tốt. Cả hai khái niệm này hoàn toàn không xuất hiện
trong bất cứ một cấp đề mục nào của tập báo cáo, từ tên chương đến các mục và
tiểu mục, tức “bảng xếp hạng” không phải là mục đích dù chỉ là một phần việc
nhỏ nhất của cuộc khảo cứu này.
Có người viện dẫn, cũng theo một ý trong bản tin BBC,
rằng “bảng xếp hạng” này chỉ được OECD công bố chính thức ở World Education
Forum (WEF – Diễn đàn Giáo dục Toàn cầu) tại Hàn Quốc từ 19 đến 22/05/2015.
Điều nghịch lí là, trong một cuộc thi dù chỉ cho vui, không ai lại đi tiết lộ
công khai tên những người thắng cuộc từ trước khi công bố chính thức kết quả;
với một tổ chức lớn như OECD, điều đó lại càng khó tin! Nhưng quan trọng hơn,
bản giới thiệu tóm tắt nội dung trình bày của OECD tại WEF cũng hoàn toàn
không đề cập gì đến câu chuyện “bảng xếp hạng”.
Vậy, nếu OECD không lập “bảng xếp hạng”, thì các kết
quả khảo sát, đánh giá, phân tích, tổng hợp nói trên dùng để làm gì? Nếu chỉ
xét riêng tập báo cáo về “kĩ năng cơ bản phổ quát” kể trên, OECD mong muốn sử
dụng kết quả của hai chương trình kiểm tra năng lực toán và khoa học của học
sinh ở phạm vi quốc tế, gồm nhiều nước tham gia qua nhiều đợt, để phân tích và
so sánh các mối tương quan có thể có giữa kết quả kiểm tra với các yếu tố kinh
tế-xã hội ở mỗi quốc gia.
Đó là Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA)4 của OECD và chương trình Nghiên cứu Xu hướng Toán học và Khoa học Quốc tế (TIMSS)5 của Hiệp hội Đánh giá Thành tựu Giáo dục Quốc tế (IEA). PISA là chương trình đánh giá năng lực toán, khoa học và đọc hiểu của học sinh 15 tuổi (cuối lớp 9, đầu lớp 10), diễn ra ba năm một lần; đợt 2012 có 34 quốc gia thành viên OECD và 31 quốc gia hay vùng kinh tế tham gia. TIMSS là chương trình đánh giá năng lực toán và khoa học của học sinh tương đương lớp 4 và lớp 8, diễn ra bốn năm một lần; đợt 2011 có 63 quốc gia tham gia, trong đó có 16 quốc gia không tham gia PISA, và 28 quốc gia tham gia cả hai chương trình.
Đó là Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA)4 của OECD và chương trình Nghiên cứu Xu hướng Toán học và Khoa học Quốc tế (TIMSS)5 của Hiệp hội Đánh giá Thành tựu Giáo dục Quốc tế (IEA). PISA là chương trình đánh giá năng lực toán, khoa học và đọc hiểu của học sinh 15 tuổi (cuối lớp 9, đầu lớp 10), diễn ra ba năm một lần; đợt 2012 có 34 quốc gia thành viên OECD và 31 quốc gia hay vùng kinh tế tham gia. TIMSS là chương trình đánh giá năng lực toán và khoa học của học sinh tương đương lớp 4 và lớp 8, diễn ra bốn năm một lần; đợt 2011 có 63 quốc gia tham gia, trong đó có 16 quốc gia không tham gia PISA, và 28 quốc gia tham gia cả hai chương trình.
Bằng những lập luận và phân tích của mình, hai tác giả
Hanushek và Woessmann đã lập ra một bảng so sánh “Năng lực bình quân qua các
bài kiểm tra thành tích học sinh quốc tế” (Hình 2). Trong bảng này, năm vị trí
đầu thuộc về các nước châu Á, riêng Việt Nam đứng thứ 12. Có lẽ đây là cơ sở
để BBC đặt ra tên gọi Global Education Rankings hay global school league table
rồi nhiều tờ báo trong nước dịch lại là “Bảng xếp hạng giáo dục toàn cầu” hay
“Bảng xếp hạng trường học toàn cầu”. Với OECD, đây quả thật là một “nỗi oan Thị
Kính”!
Hình 2: Năng lực bình quân qua các bài kiểm tra thành
tích học sinh quốc tế
Đến đây, cần phải xác quyết rằng, không hề tồn tại một
cái gọi là “bảng xếp hạng giáo dục toàn cầu” do OECD đưa ra. Vì tựu trung, mọi
phép phân tích và phối hợp kết quả từ hai chương trình đánh giá nêu trên, dù về
mặt học thuật còn rất nhiều điều để bàn luận, đều dùng để phục vụ những luận
điểm chính mà các chuyên gia của OECD trình bày bao gồm: 1. Năng lực giáo dục
thấp dẫn đến chi phí cao; 2. Chất lượng giáo dục không mặc nhiên thuận chiều
với lượng tài nguyên (dầu hoả); 3. Thu nhập cao không miễn trừ được chất lượng
giáo dục thấp; 4. Lĩnh hội kĩ năng cơ bản có thể giúp tăng trưởng toàn diện
hơn; 5. Chất lượng cao và công bằng là những mục tiêu tương hợp được trong
chính sách giáo dục hậu 2015… Với một niềm tin rằng, mỗi quốc gia cần phải đảm
bảo cho mọi công dân có được một nền tảng vững chắc về kiến thức trong các lĩnh
vực chuyên môn then chốt, giúp phát triển các kĩ năng cơ bản và phổ quát như tư
duy sáng tạo, óc phê phán, làm việc phối hợp, làm cơ sở để rèn luyện tính cách
cá nhân, tình yêu thương, lòng hiếu học, tinh thần dũng cảm và vượt khó. Nhằm
một mục tiêu tối thượng mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn theo đuổi: liên tục
đổi mới, vượt qua khủng hoảng, phát triển bền vững.
Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm rằng, chính các tác
giả tập báo cáo trên và OECD/PISA không hề cho rằng chất lượng giáo dục hay nền
kinh tế chỉ phụ thuộc vào hai yếu tố năng lực toán và khoa học, dù rằng dữ liệu
họ dùng để phân tích là lấy từ kết quả kiểm tra hai môn này. Cụ thể, ở trang
12, ông Schleicher đã khẳng định rằng “báo cáo này chỉ tự giới hạn ở mức xem
xét tác động kinh tế của kiến thức và kĩ năng toán và khoa học, đơn giản vì đây
là những yếu tố có thể đo lường được với độ tin cậy và ổn định cao xuyên suốt
nhiều quốc gia và nền văn hoá. Những kĩ năng quan trọng khác được bỏ qua và do
vậy có thể nói rằng tác động kinh tế của kĩ năng [học sinh] trong báo cáo này
được đánh giá thấp hơn thực tế. Điều đó cũng cho thấy thế giới hậu 2030 sẽ cần
phải mở rộng hơn nữa phạm vi lượng giá kĩ năng [học sinh], bao gồm cả các
phương diện nhận thức, xã hội và xúc cảm thích hợp với tương lai của mọi cá
nhân và xã hội loài người. Đó chính là một mối ưu tiên hàng đầu của PISA .”
Việt Nam nên khai thác nguồn dữ liệu PISA như thế nào?
Do Việt Nam không tham gia TIMSS nên thực
ra trong câu chuyện này chúng ta chỉ nên quan tâm đến kết quả PISA 2012, đã
công bố từ khá lâu6. Như đã nói, có nhiều ý kiến trái chiều về phương pháp khoa
học của PISA, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một nguồn dữ liệu thuộc loại
phong phú nhất, được xây dựng một cách chặt chẽ, có hệ thống và đồng bộ rộng
khắp thế giới. Điều đó có thể giúp các nhà chức trách ở mỗi quốc gia có cái
nhìn cụ thể về một số phương diện căn bản trong giáo dục ở nước mình, làm cơ sở
hoạch định những chính sách phát triển phù hợp cho tương lai. Điều đáng quan
tâm trong kết quả PISA không phải là thứ hạng ở từng môn, mà là kết quả từng
chỉ số của mỗi nước so với trung bình của cả khối OECD là thế nào, diễn biến
kết quả đánh giá theo thời gian ra sao, điều đó có quan hệ gì với các yếu tố
kinh tế, xã hội liên đới hay không (như nguồn lực đầu tư cho giáo dục, môi
trường tổ chức lớp học, vai trò của giáo viên, động lực học tập, điều kiện kinh
tế gia đình, giới tính của học sinh, v.v.)
Đối với câu chuyện giáo dục của chúng ta, hãy bỏ qua
ngay niềm phấn khích của một trò chơi xếp thứ hạng, điều có thể xem là bất khả
trong giới học thuật, vì giáo dục là một quá trình nhiều mặt, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố phức tạp, không thể quy giản vào một chiều kích duy nhất nào đó để
rồi phân cao thấp một cách tuyệt đối. Ngược lại, cũng không nên quá đỗi tự ti,
thu mình lại, nghi ngờ, phán xét, chê bai... khi chưa thấu rõ cách thức triển
khai, thu thập và phân tích kết quả của “thiên hạ”. Điều chúng ta cần làm, đó
là hãy tỉnh táo, tìm hiểu kĩ lưỡng các kết quả và những phân tích, lập luận nêu
ra trong các báo cáo của OECD/PISA, để hiểu mình và hiểu người. Biết mình đứng
thực sự ở đâu trên thế giới này thì mới mong biết được cách hành động cho sáng suốt
và thích hợp.
Đơn cử, xét kết quả kiểm tra ba môn toán, khoa học và
đọc hiểu, phổ điểm trung bình của khối OECD phân phối tương đối đồng đều theo
đường cong chuẩn, trong khi đó, phổ điểm của Việt Nam lại có chân hẹp và đỉnh cao
hơn. Phần lớn học sinh Việt Nam
tham gia kiểm tra PISA 2012 rơi vào các nhóm có trình độ trung bình và khá.
Nhìn vào các biểu đồ ở Hình 3 (dữ liệu trích từ kết quả PISA 2012), ta có thể
thấy rằng tỉ lệ học sinh đạt trình độ cao (các bậc 5, 6) của Việt Nam chỉ ở mức
tương đương (toán và khoa học) hoặc thấp hơn (đọc hiểu) so với trung bình toàn
khối OECD. Hoặc một ví dụ khác: năng lực toán của học sinh Việt Nam không thay
đổi nhiều theo điều kiện kinh tế xã hội và ngang với mức trung bình khối OECD,
trong khi năng lực khoa học và đọc hiểu thì thấp hơn thấy rõ. Ngược lại, tỉ lệ
học sinh vượt khó, tức những em có hoàn cảnh khó khăn nhưng đạt kết quả tốt
trong học tập, lại cao gần gấp đôi so với toàn khối OECD.
Hình 3: Năng lực học sinh Việt Nam so với
trung bình chung toàn khối OECD
Với bộ dữ liệu đồ sộ cũng như vai trò tự thân của
mình, OECD/PISA chỉ có thể tập trung vào những vấn đề vĩ mô, toàn cầu. Còn với
những điểm liên quan đến Việt Nam ,
các chuyên gia quốc tế chỉ đủ sức gợi ra vấn đề rồi để ngỏ chứ không thể đi sâu
hơn đến một kết luận chân xác. Một mặt, chúng ta đã có bao giờ xây dựng được
một chương trình nghiên cứu chặt chẽ, triển khai đồng bộ, phân tích bài bản,
với một lượng dữ liệu khổng lồ đang được cung cấp công khai và hoàn toàn miễn
phí như PISA
chưa? Mặt khác, trong các công trình nghiên cứu kể trên có những điểm có thể
còn chưa hợp lí, chưa chặt chẽ trong phương pháp, cách tiếp cận, triển khai,
thu nhập hay phân tích dữ liệu, rất cần những cuộc nghiên cứu khác ngay từ thực
địa để phản biện, bổ sung cho hoàn thiện. Liệu có ai khác tốt hơn là chính
chúng ta phải làm việc đó, thay vì rộn ràng với những con số thứ hạng cao thấp
sai lệch bản chất vấn đề, hay ngược lại thờ ơ như không phải câu chuyện của
mình?
-----------------------
1 Tạm dịch: “Châu Á đứng đầu bảng xếp hạng trường học toàn cầu lớn nhất”, truy cập tại: http://www.bbc.com/news/business-32608772
2 Tạm dịch: “Kĩ năng cơ bản phổ quát: Hành trang cho quốc gia vững bước”, truy cập tại: http://www.oecd.org/edu/universal-basic-skills-9789264234833-en.htm
3 Ngày làm việc thứ ba, phiên song song thứ 10, truy cập tại: http://en.unesco.org/world-education-forum-2015/day-3
4 http://www.oecd.org/pisa/
5 http://www.timss.org/
6 http://www.oecd.org/pisa/keyfindings/pisa-2012-results.htm
1 Tạm dịch: “Châu Á đứng đầu bảng xếp hạng trường học toàn cầu lớn nhất”, truy cập tại: http://www.bbc.com/news/business-32608772
2 Tạm dịch: “Kĩ năng cơ bản phổ quát: Hành trang cho quốc gia vững bước”, truy cập tại: http://www.oecd.org/edu/universal-basic-skills-9789264234833-en.htm
3 Ngày làm việc thứ ba, phiên song song thứ 10, truy cập tại: http://en.unesco.org/world-education-forum-2015/day-3
4 http://www.oecd.org/pisa/
5 http://www.timss.org/
6 http://www.oecd.org/pisa/keyfindings/pisa-2012-results.htm
(Tia sáng)
------------------
Xin Vĩnh biệt đôi Uyên-Ương John-Alicia
Trả lờiXóa*********************************
“Anh đến đây vì Em tối nay.
Em là lý do để cho Anh tồn tại.
Em là lẽ phải Em là lẽ sống của cuộc đời Anh”
John Nash A Beautiful Mind - Đạo diễn Ron Howard
tái hiện toàn bộ Cuộc đời của Nhà Bác học vĩ đại John Nash
https://www.youtube.com/watch?v=w5ToctbuBtc
John Nash's nobel prize acceptance speech
Tử nạn cũng như Nguyên lý Trò chơi
Nhà Toán học Thiên tài giã từ đời
Bên cạnh Người Vợ hiền yêu dấu
Cứu chồng bệnh hoang tưởng ru hời
Tình yêu quả liều thuốc thần vĩ đại
Một Tâm hồn Cao đẹp vừa chầu Trời
Bạn đời quyết giúp vượt mâu thuẫn
Thanh thản sống cùng ảo ảnh cuối đời
Phương trình tìm ra Chân lý Cuộc sống
Nghiệm số Tình yêu bất biến không lời
Tình yêu có thật dù cuộc đời ảo ảnh
Chúc đôi Uyên-Ương vĩnh hằng dong chơi .. ..
TRIỆU LƯƠNG DÂN
https://www.youtube.com/watch?v=ZY9tZyueZj4
Dr. John Nash - A Nobel Prize Talking
Kênh truyền hình ABC News của Mỹ ngày 24/5/2015 đưa tin Nhà Toán học John Nash, người từng được trao giải Nobel Kinh tế, đã qua đời cùng với vợ trong một vụ tai nạn xe hơi ở Tiểu bang New Jersey.
Cảnh sát bang New Jersey cho biết chiếc taxi chở hai vợ chồng nhà toán học này đã bị tai nạn do tái xế mất tay lái và lao vào một đoàn tàu hỏa. Theo ABC News, John Nash năm nay 86 tuổi, còn vợ ông là Alicia đang ở tuổi 82.
Xin bac' Nguyen-Vien lam on dung` dung' tieng la` ( lac. tay lai'), khong nen xu-dung cach noi cua bao-chi-cua-Dangcs ( mat tay lai) . Thoi-gian sau nay nhung tin-tuc tren bao-chi, truyen-hinh o nuoc ngoai` bi tiem-nhiem~ rat nang. cach dung` sai-lac ve chu~ di den sai ve nghia~... Day chi la mot y-kien xay-dung bac Vien a. - Khong dam' phe-phan' dau^,
Trả lờiXóaCo loi xin-loi Bac' !