Khi chiến tranh đã lùi xa vừa tròn 40 năm, khoảng thời
gian vừa đủ cho một thế hệ sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong hoà bình,
hạnh phúc, thì mảnh đất Quảng Trị vẫn còn ẩn giấu trong lòng nó biết bao bí ẩn
mà đôi khi vì một cơ duyên nào đó, với một ai đó, lại bất ngờ hé mở những câu
chuyện vừa cảm động, vừa huyền bí đến lạnh người.
Bức thư
tuyệt mệnh và những điều tiên cảm?
Đó là câu chuyện về bức thư của liệt sỹ Lê Văn Huỳnh,
sinh viên năm thứ 4, Khoa Xây dựng Trường đại học Bách khoa Hà Nội, quê ở huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, vào chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị từ những
ngày đầu tháng 3/1973, viết cho gia đình vào tháng 9/1972. Bức thư hiện đã được
trao lại cho Bảo tàng Thành cổ.
Ngày đó, tuy không trực tiếp đối mặt với kẻ thù, song
sự ác liệt của chiến tranh được những người lính vận tải, trong đó có anh
Huỳnh, đón nhận qua những trận bom hủy diệt hằng ngày của B52 và số chiến sỹ
thương vong được chuyển ra ngoài hằng đêm không hề nhỏ. Trước những việc ấy,
như một điều tiên cảm và bằng một sự bình tĩnh đến lạ lùng, Lê Văn Huỳnh đã âm
thầm viết một bức thư cho mẹ, cho vợ, cho anh chị và cho cả đứa cháu trai bé
bỏng chưa đầy tuổi của mình.
Bà Đặng Thị Xơ và bức thư của liệt sỹ Lê Văn Huỳnh viết trước khi hy sinh. Ảnh: tư liệu |
Bức thư chứa đựng những điều thiết tha nhưng cũng đầy
khí phách mà 30 năm sau khi được công bố, di vật ấy vẫn còn thấy thấm thía hơn
bao nhiêu trang sách đã viết, bao nhiêu điều đã bàn luận về chiến tranh... Xin
được trích một đoạn trong bức thư ấy, phần viết cho chị Đặng Thị Xơ, vợ anh,
người phụ nữ mới thực sự 7 ngày làm vợ và hơn 30 năm đằng đẵng chờ chồng: “...
Em sẽ đọc thư này cho mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu
anh. Cho anh gửi lời chúc sức khoẻ những người quen thuộc trên quê hương trong
buổi lễ truy điệu lịch sử này. Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống hòa bình
hãy nhớ tới anh. Nếu thương anh thực sự thì khi hòa bình có điều kiện vào Nam lấy hài cốt
anh về. Đường đi như sau: đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi
anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông. Từ thị xã qua cầu ngược trở lại hỏi thăm
về Nhan Biều 1, nếu tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Về đấy tìm sẽ
thấy bia ghi dòng chữ tên anh đục trên mảnh tôn. Thôi nhé, đó là có điều kiện,
còn không thì em hãy cứ làm tốt những điều anh dặn ở trên là tốt lắm rồi...”
Sau khi anh Huỳnh hy sinh, bức thư vẫn còn nằm trong
balô và được đồng đội chuyển về cho gia đình. Bao lâu nay, lá thư vẫn được chị
Xơ đặt trên bàn thờ anh như một kỷ vật mà anh để lại. Mãi đến khi tìm được mộ
anh, người ta mới biết được câu chuyện về lá thư này. Lạ kỳ thay khi những điều
anh Huỳnh viết trước lúc hy sinh về sau đều đúng như một lời tiên tri. Điều
khác duy nhất là ngôi mộ của anh sau này được tìm ra là một trong 3 ngôi mộ nằm
ở thôn Thượng Phước, chứ không phải ở Nhan Biều 1 nằm kề đó.
Cuộc sống vốn có biết bao điều kỳ lạ, nhưng những điều
kỳ lạ như trong bức thư của anh Huỳnh thì thực sự khó có thể nào giải thích
được. Tất cả mọi lý giải hôm nay đều chỉ là phỏng đoán. Ngay cả việc ngôi mộ
của anh được tìm thấy cũng như một cơ duyên...
Năm 1973, khi mặt trận đã im tiếng súng, bà Nguyễn Thị
Ngân trở về làng cũ tại thôn Thượng Phước, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong,
một làng nhỏ ven bờ Bắc sông Thạch Hãn làm ăn. Thấy trong vườn nhà có 3 ngôi mộ
liệt sĩ, có mộ chí khắc bằng tôn, bà Ngân cũng như bất kỳ người dân nào ở vùng
này, đã dành công chăm sóc và khói hương chu đáo. Hoà bình lập lại, đã 2 lần
địa phương đến quy tập những ngôi mộ đó về nghĩa trang của tỉnh, nhưng đều
không tìm được hài cốt nên chuyện những ngôi mộ cũng dần dần bị quên lãng. Tuy
vậy, như có điều gì đó mách bảo, bà Ngân vẫn gom 3 tấm mộ chí bằng tôn đó về
một góc vườn để hương khói.
Rồi đến một ngày cuối năm 2002, chị Xơ và đồng đội tìm
về, lần này thì họ đã tìm được anh, ngay chính tại nền đất mà bao lâu nay ai ai
cũng đã tưởng rằng vô vọng... Có người giải thích chuyện này là do những thay
đổi của nền đất tại khu vườn; nhưng cũng có người bảo đấy là anh vì đã hẹn nên
cố “chờ” chị đến đón về...
Khi chúng tôi tìm về khu vườn của gia đình bà Ngân,
nơi anh Huỳnh và hai người đồng đội của anh đã yên nghỉ suốt 30 năm trong lòng
đất, thì việc quy tập hài cốt các anh đã hoàn tất từ lâu. Ông Nguyễn Hậu, con
trai cụ Ngân, người mà sau này đã thay mẹ gìn giữ phần mộ của các anh, đã nói
một câu giản dị mà chân thật đến bất ngờ: “Ở cái đất Quảng Trị này nơi mô mà
chẳng có máu xương của anh em mình gửi lại. Tôi đã thấy nhiều người tuy không
tìm được hài cốt con em mình, nhưng biết họ đã hy sinh tại đây, thịt xương đã
tan vào trong đất, thì chỉ cần một nắm đất đem về thờ phụng cũng là mãn nguyện
lắm rồi, huống chi vườn nhà mình còn cả mộ chí thì phải ráng mà giữ...”.
Điều này có lẽ chính anh Huỳnh cũng không ngờ tới,
nhưng anh đã tiên cảm được, rằng anh sẽ bình yên an nghỉ trong lòng đất Việt
Nam, giữa lòng người Việt Nam...
Bức thư và
đứa con của những người lính
Vào dịp cuối năm 2000, trong quá trình thi công hệ
thống cống thoát nước ở khu vực cổng phía Tây của Thành cổ, chủ đầu tư phát
hiện ra đoạn cống tại đây cao hơn thiết kế một chút. Nếu xuề xoà thì vẫn có thể
cho qua, song không hiểu vì sao khi mọi việc đã hoàn tất, bên thi công vẫn
quyết định đào lên làm lại. Và đến khi khoét sâu thêm chỉ vài tấc đất, những
người thợ đã phát hiện ra cả một căn hầm bị vùi lấp với 5 bộ hài cốt còn khá
nguyên vẹn. Họ đã nằm đó gần ba chục năm trời...
Trong số hài cốt vừa tìm được ấy, một bộ sau đó không
lâu đã xác định được danh tính của liệt sỹ, căn cứ vào những di vật đi cùng.
Anh là Lê Binh Chủng, thượng úy, phó chỉ huy chính trị của một tiểu đoàn chiến
đấu tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972, quê ở xã Quỳnh Mỹ (Quỳnh Lưu - Nghệ An).
Những di vật ấy sau đó được trưng bày trang trọng
trong một chiếc tủ kính đặt ở tầng 2 Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị, bao gồm súng,
đôi dép cao su, thắt lưng, cuốn nhật ký, lý lịch Đảng viên... và đặc biệt hơn
cả là một bức thư gửi từ hậu phương đề ngày 15/5/1972... Tất cả những tài liệu
này được gói kỹ trong bao nilon, nên mặc dù đã nằm trong lòng đất gần 30 năm,
song nét mực vẫn chưa nhòe...
Việc tìm được những lá thư bên cạnh hài cốt liệt sỹ
không phải là hiếm. Tuy nhiên, nói lá thư tìm thấy trong di vật của liệt sỹ Lê
Binh Chủng là một điều đặc biệt, là bởi cũng chính từ lá thư này, bao nhiêu uẩn
khúc được mở ra, để bắt đầu đoạn kết có hậu của một câu chuyện tình thời chiến.
Lá thư được gửi đi từ Quảng Bình và người viết là chị Phan Thị Biển Khơi, vợ
anh.
Những dòng đầu của bức thư ấy, chị viết:
“Anh Binh
Chủng thương yêu của mẹ con em.
Cầm bút biên thư cho anh trong lúc trên
chiến trường Trị Thiên đang thắng to. Tin vui bay về nơi hậu phương làm cho mọi
người dân cũng đầy sung sướng. Tự hào thay trong hàng ngũ những người chiến
thắng ấy có anh, người mà em gửi gắm bao niềm thương nỗi nhớ...”
Năm 1968, chị Phan Thị Biển Khơi và anh Lê Binh Chủng
cùng là bộ đội, công tác ở Phòng Quân nhu của Bộ tư lệnh B5, chiến trường Quảng
Trị. Thời gian này, anh chị đã bắt đầu yêu thương nhau, một tình yêu thầm vụng.
Năm 1970, anh Chủng được lệnh chuẩn bị xuống đơn vị chiến đấu. Lễ cưới thời
chiến diễn ra gọn gàng, đơn giản ngay trên quê chị ở xã Đồng Trạch, Bố Trạch,
Quảng Bình.
Rồi anh vào chiến trường. Cuối năm ấy, chị sinh con
trai đặt tên là Lê Trường An. Việc sinh con giữa lúc đạn bom ác liệt buộc chị
phải chia tay đơn vị và rời chiến trường. Trong thời gian này, chị cũng đã tìm
về quê anh, song khi nhận thấy có chút nghi ngại trong gia đình, chị đã trở lại
quê mình làm lụng nuôi con, hy vọng một ngày anh trở về thì mọi khúc mắc sẽ
được cởi bỏ.
Nhưng rồi anh đi mãi. Cu An sống cùng mẹ trong cảnh mồ
côi và thiếu vắng tình thương của ông bà nội... Đến năm 1975, chị Khơi đi bước
nữa. Chồng chị, anh Hoàng Hữu Trạch, cũng là một người lính và rất thương yêu
An. Chồng chị thường nói với mọi người: “Nó là con của đồng đội, nên cũng như
là con đẻ của mình vậy”...
Bà Biển Khơi năm nay đã là một bà lão gần 70 tuổi,
đang sống tại phường Bắc Lý, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình. Di chứng của chiến
tranh từ những trận sốt rét rừng ác tính và một thời gian dài chịu đựng sức ép
của bom B52 trong chiến trường đã khiến cho sức khoẻ của bà không được tốt. Thế
nhưng, ấn tượng về mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ, nhưng đầy gian nan kia vẫn
không hề phai nhạt. Ngày thấy lại bức thư do chính tay mình đã viết hơn ba chục
năm về trước, bà đã vô cùng xúc động vì đâu có ngờ rằng, ngày ấy nó đã đến được
tay anh và lại càng không thể ngờ rằng anh đã gìn giữ nó bên mình cho đến
tận... hôm nay...
Đến bây giờ, thì An đã có hai người bố; cả hai đều
đáng tự hào. Ngày tìm được hài cốt anh Chủng, An đã là một thanh niên 30 tuổi,
vừa bằng khoảng thời gian bức thư của mẹ anh nằm lặng im trong lòng đất cùng
với thi thể của cha anh. Đọc những dòng thư, những trang nhật ký tưởng như đã
vĩnh viễn lặng câm như một điều bí mật bị chôn vùi, mọi người hiểu ra tất cả.
Vậy là cho đến phút cuối cùng trước lúc ra đi, cái mà người lính chiu chắt lại
cho cuộc đời không phải chỉ là niềm tin, là lý tưởng, mà còn là chút hạnh phúc,
thanh thản cho những người thân yêu đang tiếp tục sống trên đời...
Lương Ngọc An
-------------
Những cái chết vô nghĩa. Chỉ bồi đắp cho bọn tham nhũng!
Trả lờiXóaTôi ca ngợi bạn ba tôi (đã mất): "Chú đáng được coi là người cộng sản chân chính."
"Thôi mày ơi! Những người cộng sản chân chính là tiền thân của những người cộng sản chân phụ đấy. Đầu tiên là giành các tiêu chuẩn cao cấp, hơn hẳn dân thường. Sau đó càng ngày càng tham! Đạt đến tầm cao mới - tham nhũng là cách sống hàng ngày!"
Các học giả chính trị đều đồng ý với nhau điều
Xóanày về bản chất "dối trá" của đảng CS.:
Họ đòi quyền tự do ngôn luận ở những nước
mà họ gây chiến tranh để lật đổ,nhưng khi đã
thành công rồi thì quyền tự do ngôn luận ở đó
cũng biến mất vĩnh viễn !
CCB diệt tàu 79, thân nhân LS Nam Tran • 13 giờ trước
XóaCách đây hơn 200 năm, sau khi Công xã Paris sụp đổ, Đại văn hào Pháp Victor Huygo đã kết luận: " CS là thiên đường của một vài người,
nhưng nó là địa ngục của tất cả những người còn lại" Câu này đâu có
sai với tình hình xã hội ở VN hiện nay?
Cái gọi là"CNXH" đúng là thiên đường của những thằng cầm quyền trong đảng csVn, nhưng nó đang là địa ngục của người dân VN.
Khi chưa cướp được quyền cai trị dân tộc,khi chưa nắm được toàn quyền cai trị dân tộc, thì đảng csVN còn che giấu bản chất lưu manh phản động bằng việc mê hoặc, lừa dân (bằng những khẩu hiệu "chống Pháp Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xóa bỏ bất công người bóc lột người, xây dựng xã hội dân chủ-công bằng-văn minh....") rất hấp dẫn, để người dân theo đảng mà bắn giết đối phương, cướp trọn quyền cai trị cho đảng đối với dân tộc này.
Nhưng khi đã cướp trọn toàn bộ quyền lực cai trị dân tộc rồi, thì chúng ngông nghênh trắng trợn chễm trệ ngồi lên đầu dân tộc này bằng điều 4 hiến pháp, chúng lấy việc tôn thờ ý thức hệ vong bản cs, tôn thờ ngoại bang tàu cộng và làm tay sai cho tàu bằng việc xiềng xích bóc lột và đàn áp dã man và tàn độc với người dân, vơ vét tài nguyên và nhượng bán lãnh thổ lãnh hải... cho tàu cộng, lấy việc chống lưng của tàu cộng với chúng để tồn tại và cai trị người dân, Những đường lối và chính sách cai trị đó là những tội ác cực kỳ nghiêm trọng mà dân tộc này đời đời ghi xương khắc cốt và nguyền rủa đảng csVN.
những tang tóc chỉ để du nhập chủ nghĩa thối tha vô tưởng vào VN ...để rồi dân không đủ 2 bữa ... trong khi quan chức vứt đi khong hết ? ai là tội đồ ?
Trả lờiXóaNhững thiên tài phát kiến ra cách mạng, những người cuồng tín đưa cách mạng đến thành công, còn những kẻ đểu cáng trục lợi thành quả của cách mạng.
Trả lờiXóaNgười lính là người dân. Chúng ta trải qua chiến tranh,và những người lớn lên sau chiến tranh, cân phải biết ơn sự hy sinh, và đau đớn cùng người thân của tất cả mọi người lính của cả hai phía. Chúng ta chân trọng sự hy sinh của hơn 3 triệu người VN trên cả nước đã vì độc lập thống nhất Tổ Quốc. Chúng ta đau xót vì điều đó. Kẻ tội đồ sẽ để lịch sử phán xét. Người dân Việt Nam hôm nay hãy đoàn kết lại, thương yêu lấy đồng bào mình, xóa bỏ cách ngăn, xóa bỏ thành kiến nọ kia, đoàn kết lại mau mau phục hưng đất nước để khỏi hổ then với các nước Đông Nam Á và toàn thế giới.Xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. KHÔNG ĐỂ VIỆT NAM TỤT HẬU NHỤC NHÃ NHƯ HÔM NAY!
Trả lờiXóa"độc lập thống nhất Tổ Quốc", tớ thêm, "Xã Hội Chủ Nghĩa"
Xóa"đoàn kết lại", tớ thêm, "dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản". Vì không chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản thì không gọi là đoàn kết, mà là chia rẽ, gây hận thù .
"Xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc", tớ thêm, "Xã Hội Chủ Nghĩa".
"KHÔNG ĐỂ VIỆT NAM TỤT HẬU NHỤC NHÃ NHƯ HÔM NAY!"
Tại sao không ? Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản từ trước tới giờ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhục nhã thế quái nào được ? Phải tự hào mới đúng .