Translate

Trang BVB1

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

"NGOẮC TAY" MỸ-TRUNG VỀ HOÀNG SA 1974 (?!)

(Có dựa theo một số Tài liệu lưu trữ 
tại Bộ quốc phòng Trung Quốc 
và Tài liệu quân đội VNCH)
T.L THAM KHẢO
Sau khi cưỡng chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) vào ngày 21 tháng 12 năm 1956, đến năm 1974, dùng chính sách ngoại giao "bóng bàn" bang giao được với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã chuẩn bị khá kỹ càng kế hoạch bành trướng tại Biển Đông. Ngoài tầm quan trọng về mặt quân sự, với dân số quá đông trên 1 tỷ người, Trung Quốc cần tận dụng các tài nguyên về ngư sản và khoáng sản tại vùng biển chưa được khai thác này để sống còn. Người Mỹ lúc đó đã rút quân khỏi Việt Nam (1-1973) và cũng đã có kế hoạch triệt thoái khỏi toàn vùng Đông Nam Á bằng cách đóng cửa các cơ sở quân sự quan trọng tại Phi Luật Tân như căn cứ Không Quân Clark Air Base, căn cứ Hải Quân Subic Bay.
Lo ngại rằng sự vắng mặt của mình sẽ tạo cơ hội tốt cho Nga Xô bành trướng nên Hoa Kỳ cũng muốn có một lực lượng tương đối mạnh khả dĩ có thể thay thế họ ngăn chận và cầm chân lực lượng đối thủ chiến tranh lạnh hàng đầu. Trung Quốc đang có tham vọng bành trướng tại Biển Đông, còn Hoa Kỳ muốn ngăn chận ảnh hưởng của Nga Xô tại vùng này nên chúng ta không ngạc nhiên khi "kẻ cắp bà già" bắt tay nhau, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa thuận để Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH và sau này tiến xa hơn tới tận Trường Sa, cách lãnh thổ Trung Quốc cả ngàn cây số.
Để mở đầu kế hoạch lấn chiếm, trên mặt ngoại giao, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đột nhiên lên tiếng đòi chủ quyền tại Hoàng Sa, đồng thời lén lút cho ngư thuyền võ trang chở quân lính giả dạng dân đánh cá đổ bộ lên một số đảo do VNCH kiểm soát từ lâu trong vùng Hoàng Sa. Dự đoán thế nào phía VNCH cũng phản ứng mạnh mẽ, Chính phủ Trung Quốc từ các giới chức cao cấp nhất như Chủ Tịch Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình, Châu Ân Lai và toàn bộ Quân ủy Trung ương (Trung Quốc) đã đồng thanh quyết định sẽ dùng biện pháp quân sự để đánh chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH khi có thời cơ.
Khởi đầu, họ đổ quân lên các đảo, đồng thời cho tàu bè và chiến hạm khiêu khích lực lượng VNCH. Nếu các chiến hạm VNCH lặng lẽ cúi đầu bỏ đi như lời một viên chứa Hoa Kỳ tại Việt Nam đe dọa "nếu các chiến hạm Việt Nam nổ súng tại Hoàng Sa, Hải quân VNCH sẽ bị xoá tên ngay, "Trung Quốc sẽ ngang nhiên chiếm Hoàng Sa theo chiến thuật tiệm tiến "tằm ăn dâu" lấy từng đảo một như họ làm tại Trường Sa sau này. Ngược lại, nếu Việt Nam Cộng Hòa tham chiến, dù các Hải quân VNCH có chiến thắng đánh chìm tất cả các chiến hạm Trung Quốc tại chỗ nhưng vẫn không thể giữ được Hoàng Sa vì lực lượng tăng viện Trung Quốc gồm nhiều chiến hạm tối tân và có cả phi cơ tham chiến sẽ kéo tới đánh chìm các chiến hạm VNCH dễ dàng. Vì vậy, khi TDH Lý Thường Kiệt được phái ra Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 1 năm 1974 để thám sát, chính phủ Trung Quốc liền lập tức xử dụng phương tiện quân sự. Tài liệu Trung Quốc tóm lược kế hoạch lấn chiếm này như sau:
Theo tài liệu của Trung Quốc còn lưu: "Lo ngại Việt Nam Cộng Hòa điên cuồng khiêu khích để chiếm Hoàng Sa, quân trên đảo báo cáo về Trung ương và lập tức được trình lên thượng cấp. Các đồng chí Zhou Enlai và Phó Chủ tịch nhà nước Ye Jianying đệ trình một kế hoạch phản công bằng quân sự và được chủ tịch Mao Zedong mau chóng chấp thuận. Kế hoạch này bao gồm việc tăng cường chiến hạm tuần tiễu và dùng biện pháp quân sự để giữ đảo. Đồng chí Đặng Tiểu Bình cùng giới lãnh đạo quân sự thảo kế hoạch đánh chiến hạm địch, tái chiếm các đảo bị Việt Nam Cộng Hòa xâm lấn, đồng thời kiểm soát hoàn toàn vùng Hoàng Sa"....
Như vậy, chúng ta thấy rõ sách lược bành trướng tại Biển Đông đã được Trung Quốc chuẩn bị kỹ càng, khởi đầu bằng việc gây hấn tiến chiếm Hoàng Sa. Đây là một quốc sách quan trọng đã được hoạch định từ lâu nên trận hải chiến tại Hoàng Sa đã được cố ý dự trù, tiên liệu, chuẩn bị và thiết kế chu đáo. Về phía VNCH, trong lúc phải đối đầu trong trận chiến một mất một còn với Việt Cộng trong nội địa, việc tham chiến tại Hoàng Sa chỉ là một sự tình cờ, cũng như TDH Lý Thường Kiệt HQ -16 ra Hoàng Sa với nhiệm vụ chính chở phái đoàn Công Binh thám sát thiết lập phi trường, tình cờ phát hiện ngư thuyền và quân Trung Cộng trong vùng. Sau đó, VNCH mới hối hả phái các chiến hạm khác ra tăng cường.
Đến đây tưởng cũng nên ghi nhận một điểm son về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đã đích thân thăm Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để duyệt xét tình hình và ra lệnh bằng thủ bút cho phép Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải (TL/HQ/V1DH), được toàn quyền hành động, kể cả việc xử dụng võ lực để bảo vệ Hoàng Sa. Phó Ðề Ðốc Thoại đôi lúc cũng cảm thấy đơn độc, đã thi hành đúng đắn chỉ thị của thượng cấp khi ra lệnh "Khai Hỏa." Trong lúc chiến trường quốc nội gay go sôi động, ngoài biển Trung Quốc đe dọa lấn chiếm Hoàng Sa. Hành động "quyết chiến" đối đầu với kẻ thù truyền kiếp để bảo vệ lãnh thổ của vị nguyên thủ VNCH phải được coi là quyết định lịch sử, có thể đem so sánh với thời "Hội Nghị Diên Hồng." Sau đó, viên Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và các chiến sĩ Hải Quân VNCH nhất nhất tuân-hành quân lệnh do vị Tổng Tư Lệnh ban-hành, chiến đấu rất anh dũng tại Hoàng Sa theo đúng truyền thống chống ngoại xâm của tiền nhân Việt-tộc.

CÁC CHIẾN HẠM THAM CHIẾN
Khi các chiến hạm VNCH được phái tới Hoàng Sa, phía Trung Cộng (từ dùng trong các tài liệu để lại của VNCH) cũng tăng cường lực lượng hải quân của họ. Lúc đầu chỉ có 2 ngư thuyền võ trang 402 và 407, sau đó thêm nhiều chiến hạm nhập vùng. Về tổng số chiến hạm tham chiến, tài liệu của Trung Cộng ghi rất rõ ràng. Họ cho biết như sau:
Ngày 17 tháng 1, Quân Ủy Trung Ương ra lệnh Hạm Đội Nam Hải lập tức phái chiến hạm tuần tiễu tại Hoàng Sa, đồng thời ra lệnh Quân Khu Hải Nam gửi quân lính theo tàu ra giữ đảo. Theo lệnh Quân Ủy Trung Ương, Quân Khu Quảng Châu ra lệnh Hạm Đôi Nam Hải phái hai Trục Lôi Hạm 396 và 389 (ghi chú của tác giả: tạm gọi tắt là T-396 và T-389) thuộc Phân Đội Trục Lôi 10 căn cứ tại Quảng Châu và hai Hộ Tống Hạm loại Kronstadt 271 và 274 (ghi chú của tác giả: tạm gọi tắt là K-271 và K-274) thuộc Phân Đội chống Tiềm Thủy Đĩnh (TTÐ) 73 căn cứ tại Yulin, lên đường ra Hoàng Sa vào các ngày 17 và 18 để tuần tiễu. Ngoài ra, Quân Khu Hải Nam còn phái 4 đại đội Bộ Binh để chiếm đóng các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền và Quang Hòa. Thêm vào đó, Căn Cứ Hải Quân Quảng Châu còn phái 2 Tuần Duyên Hạm 281 và 282 thuộc Phân Đội Chống TTĐ 74 tới Hoàng Sa sau đó làm lực thành phần tiếp ứng.
Toàn thể lực lượng được đặt dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam hải tên Wie Ming Sen lúc đó có mặt tại căn Cứ Hải Quân Yulin nằm vế phía Nam đảo Hải Nam. Bộ Tư Lệnh Hành Quân được đặt trên soái hạm K-271 thuộc Phân Đội 73. Về không yểm, quân khu Quảng Châu ra lệnh Phi Đoàn 22 thuộc Hạm Đội Nam Hải cử 2 phi cơ túc trực bao vùng, đồng thời yêu cầu Không Quân thuộc Quảng Châu sẵn sàng yểm trợ. Nếu nhìn vào lực lượng Hải, Không và Lục quân được phái ra Hoàng Sa, mọi người đều thấy chúng ta chỉ đưa ra một lực lượng quân sự rất hạn chế với mục đích bảo vệ Hoàng Sa chứ không phải tiêu diệt hạm đội địch.
Liệp tiềm đĩnh số 271 của TQ,
chụp từ tàu của VNCH trước khi nổ súng
Khi phân đội K-271 và K-274 trên chở một trung đội Bộ Binh tới vùng Hoàng Sa cũng là lúc hai KTH Trần Khánh Dư và TDH Lý Thường Kiệt của VNCH đang săn đuổi và đe dọa các ngư thuyền 402 (Nam Ngư 1) và 407 (Nam Ngư 2) của Trung Cộng. Các chiến hạm Trung Cộng lập tức phản ứng bằng cách gửi tín hiệu yêu cầu chiến hạm VNCH rời vùng. Tối 17 tháng 1, TDH Trần Bình Trọng (HQ-5) và HTH Nhựt Tảo (HQ-10) rời quân cảng Đà Nẵng và tới Hoàng Sa vào buổi chiều ngày 18 tháng 1. Phía Trung Cộng dùng chiến thuật "khiêu khích," cho các ngư thuyền bám sát chiến hạm VNCH để cản đường. Về những vận chuyển cắt đường và những hành động khiêu khích trên biển, tài liệu Trung Cộng tường thuật như sau:
Sáng ngày 18 tháng 1, sau khi tuần tiễu vùng Hoàng Sa, các chiến hạm VNCH một lần nữa lại có những hành động thù nghịch, tiến gần ngư thuyền 407 và dùng loa phóng thanh đuổi ngư thuyền này ra khỏi vùng. Tuy phải đối diện với tàu lớn và đại pháo, thuyền trưởng ngư thuyền 422 vẫn không sợ hãi trả lời: "Đây là lãnh hải Trung Quốc, các anh phải rời xa ngay." Phía VNCH có một sĩ quan đe dọa: "Nếu các anh không lập tức rời vùng sẽ bị đánh chìm." Khi thấy ngư thuyền 407 vẫn không bỏ đi, chiến hạm Trần Khánh Dư trở nên giận dữ, dùng hết tốc lực đụng vào khiến phòng lái ngư thuyền 407 bị thủng một lỗ lớn. Lúc này toán chiến hạm K-271 cũng nhập vùng, lại gửi tín hiệu yêu cầu các chiến hạm VNCH rời khỏi vùng biển Hoàng Sa. Tới đêm 18 tháng 1, tình hình rất căng thẳng, đôi bên canh chừng lẫn nhau nhưng không có đụng độ.
Phía Trung Cộng đã tả lại khá rõ ràng biến cố KTH Trần Khánh Dư cố ý đụng vào ngư thuyền 407 khiến đài chỉ-huy bị phá-hủy, phòng lái bị thủng một lỗ lớn, nhưng chi tiết "dùng hết tốc lực" có vẻ hơi quá đáng. Theo Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng KTH Trần Khánh Dư, cho biết lúc đó, tình hình rất căng thẳng, các ngư thuyền Trung Cộng cố ý vận chuyển chận đường các chiến hạm VNCH, ngăn cản không cho lại gần hải-đảo để bảo vệ quân Trung Cộng trên đó. Thoạt đầu HQ-4 đã dùng mọi biện pháp "hòa bình" đúng theo luật đi biển yêu cầu họ rời khỏi lãnh hải VNCH nhưng các ngư thuyền này vẫn không bỏ đi.
Khu trục hạm HQ-4 - Trần Khánh Dư
Muốn tìm hiểu thêm về quyết định cố ý "đụng tàu" có tính toán này, chúng ta cần biết rõ nhiệm vụ của Hạm-Trưởng HQ-4 lúc bấy giờ. Theo đúng lệnh hành quân, cho tới ngày 18 tháng 1, Hạm Trưởng HQ-4 vẫn còn kiêm nhiệm chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng Hành Quân bảo-vệ quần đảo Hoàng Sa. Để chu toàn trọng trách, chiến hạm VNCH phải đổ quân để lấy lại các đảo đã bị quân Trung Cộng chiếm đóng bất hợp pháp. Vì tàu Trung Cộng đang tuần tiễu quanh các đảo có thể liều lĩnh đụng chìm hay bắn vào các xuồng đổ bộ nên trước hết phải tìm cách cô lập hóa lực lượng yểm trợ này để bảo đảm an toàn cho toán đổ bộ. Thượng cấp lại đã ra lệnh "chiếm lại các đảo bằng biện pháp hòa bình" trước khi xử dụng vũ lực. Do đó Hạm Trưởng HQ-4 chỉ có thể biểu lộ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng cách ủi vào ngư thuyền Trung Cộng như một hành động cảnh cáo có tính toán buộc chúng phải rời vùng, trong lúc hải pháo sẵn sàng yểm trợ cho toán đổ quân nếu Trung Cộng nổ súng trước.
Vì vậy, Hạm Trưởng San mới ra lệnh dùng mũi tàu "ủi nhẹ" vào ngư thuyền 407 thấp hơn để cảnh cáo và cũng tượng trưng việc "đẩy" ngư thuyền Trung Cộng ra khỏi hải phận VNCH. Nếu bị KTH Trần Khánh Dư cao lớn "dùng hết tốc lực" đụng vào, chắc ngư thuyền 407 đã về với hà bá, đâu còn cơ hội để kể lại chuyện này. Theo lời các thủy thủ trên các chiến hạm Việt Nam, các thủy thủ trên tàu Trung Cộng đều có những cử chỉ khiêu khích thô tục, chửi bới khiến nhân viên VN rất tức giận, nhưng vì tuân lệnh "chạm trán hòa bình" nên buộc phải tự chế. Việc KTH Trần Khánh Dư đụng vào ngư thuyền 407 đã khiến các thủy thủ Việt Nam "lên tinh thần," hăng hái như đã trả được thù.
Về biến cố "đụng tàu" này, tác giả Ðào Dân hiện diện trên TDH Lý Thường Kiệt được chứng kiến tận mắt, thuật lại như sau:
Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2 nhỏ ở giữa vẫn thả trôi bình yên để mặc cho con người đấu khẩu. Có lẽ không còn kiên nhẫn được nữa, HQ-4 nổ máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. vì vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong phòng ăn và nhà bếp. Trước thái độ quyết liệt của HQ-4, tàu Trung Quốc đành nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc độ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, để lại chiến trường một vùng nước bọt trắng xóa. Chúng tôi toàn thắng mà không tốn một viên đạn (chỉ tốn một cái húc của Trung Tá Vũ Hữu San). Ðến đây người viết cần phải ngừng lại một chút vừa để hoan nghênh Hạm-Trưởng San.
Tuần dương hạm HQ-16 - Lý Thường Kiệt
Riêng đối với Hạm Trưởng San, chuyện đụng tàu trên biển này chắc cũng đã gây ra không ít suy-tư, vì theo công pháp quốc tế, chiến hạm hay thương thuyền của một quốc gia được coi như lãnh thổ của quốc gia đó. Như trước đây, Hoa Kỳ đã buộc Nhật Bản ký văn bản đầu hàng vô điều kiện chấm dứt thế chiến II tại Thái Bình Dương trên Thiết-Giáp Hạm Missouri bỏ neo trong vịnh Tokyo, một hành động tượng trưng coi như Nhật Bản đã phải ký hòa ước trên đất Hoa Kỳ. Làm hạm trưởng, việc để chiến hạm mắc cạn hay đụng vào tàu khác là điều tối kỵ thường đưa tới việc mất chức. Hạm Trưởng San đã cố ý đụng tàu Trung Cộng, chẳng khác nào tự ý "xâm lăng" Trung Quốc có thể đưa tới những hậu quả nghiêm trọng. Trong trường-hợp có đối-thoại hay dàn-xếp thương-thuyết Việt-Hoa, Ông rất có thể trở thành "vật hy-sinh" và bị cả hai quốc-gia kết tội là kẻ gây nên chiến-tranh. Thiết tưởng đây là một hành động can đảm tuy tự chế, chẳng khác danh tướng Trần Quốc Toản đời Trần đã vì tức giận giặc Tàu xâm lăng đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết!
Một chi tiết khác khá quan trọng là Trung Cộng cũng gửi 2 tiềm thủy đĩnh tham dự chiến dịch Hoàng Sa, nhưng sau khi trận chiến đã kết thúc. Tác giả Lu Qi Minh trong bài viết nhan đề Tiềm Thủy Ðĩnh Trung Cộng Ðầu Tiên Tham Dự Chiến Dịch cho biết như sau:
Vì lo ngại Hoa Kỳ và VNCH không chịu rút lui dù đã bị thất bại, nên Hạm Ðội Trung Cộng vẫn phải gửi chiến hạm tăng cường lực lượng tại Hoàng Sa. Lúc đó trời bão, biển động mạnh nên các chiến hạm không rời bến được, do đó hai tiềm thủy đĩnh được lệnh công tác tại Hoàng Sa. Ðây là lần đầu tiên tiềm thủy đĩnh dược dùng vào công tác chiến đấu nên phải có sự chấp thuận đặc biệt của chủ tịch Mao Trạch Ðông. Hai tiềm thủy đĩnh dùng trong công tác mang số hiệu 282 và 289.
Tóm lại về lực lượng tham chiến, phía Trung Cộng có 2 ngư thuyền võ trang mang số 402 và 407, hai trục lôi hạm mang số 389 và 396, hai chiếc Kronstadt mang số 271 và 274 và hai Tuần Duyên Hạm 281 và 282 tăng viện. Trong số này, chỉ có 4 chiến hạm T-389, T-396, K-271 và K-274 trực tiếp tham chiến. Còn hai Tuần Duyên Hạm 281 và 282 tới Hoàng Sa vào hồi 11 giờ 49 ngày 19 tháng 1, lúc đó trận hải chiến đã kết thúc (vào hồi 11 giờ). Chính hai chiến hạm mới đến này đã bắn chìm HTH Nhựt Tảo. Hai tiềm thủy đĩnh mang số 282 và 289 cũng tới Hoàng Sa sau đó để tăng cường tuần tiễu và đề phòng lực lượng VNCH trở lại tái chiếm quần đảo.

TRẬN HẢI CHIẾN
Tài liệu Trung Cộng nói về trận hải chiến được tóm lược như sau:
Rạng sáng ngày 19 tháng 1, các chiến hạm VNCH chia thành hai phân đội. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo hoạt động trong vùng lòng chảo, từ phía Bắc gần đảo Hoàng Sa tiến về hướng Nam gần đảo Quang Hòa. Trong khi đó, KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trọng bọc từ phía ngoài biển cũng tiến về đảo Quang Hòa từ hướng Tây Nam. Nếu nhìn vào tầm cỡ và trọng tấn, phía VNCH gồm 3 chiến hạm lớn, trọng tấn khoảng 1,770 tấn mỗi chiếc và một chiến hạm nhỏ trọng tấn khoảng 650 tấn, như vậy tổng cộng trọng tấn phía VNCH khoảng 6,000 tấn, trong khi phía Trung Cộng có hai chiến hạm loại Kronstadt trọng tấn 570 tấn và hai trục lôi hạm (TLH) loại T-43 trọng tấn 300 tấn, tổng cộng khoảng 1,760 tấn. Về vũ khí, phía Trung Cộng cỡ súng lớn nhất là 85 ly đôi trong khi VNCH có súng cỡ 127 ly. Như vậy về hỏa lực, phía VNCH cũng trội trội hơn. Các chiến hạm VNCH với hải pháo lớn chiếm vị trí bên ngoài lợi thế hơn, trong khi các chiến hạm Trung Cộng ở phía trong gần các đảo.
Trước ý đồ gây hấn của VNCH, theo chỉ thị của Quân Ủy Trung Ương, Quân Khu Quảng Châu đã đặt các đơn vị trực thuộc trong tình trạng báo động khẩn cấp, đồng thời ra lệnh cho các chiến hạm tại Hoàng Sa sẵn sàng đối phó nếu bị tấn công. Các chiến hạm Trung Cộng được lệnh phối trí tại vùng đảo Quang Hòa để bám sát các chiến hạm VNCH. Trước các họng đại pháo của chiến hạm VNCH, các chiến hạm Trung Cộng tuy nhỏ hơn nhưng không hề nao núng.
Hai TLH T-396 và T-389 có nhiệm vụ bám sát TDH Lý Thường Kiệt. Mặc dù nhỏ hơn với trọng tấn chỉ bằng một phần tư, T-396 vẫn không giảm tốc độ khi cản đường. TDH Lý Thường Kiệt ỷ vào súng lớn và vỏ tàu dầy hơn, chẳng những không đổi hướng mà còn dùng mũi đụng vào T-389 khiến sườn tàu và pháo tháp bị hư hại, sau đó còn cắt ngang đội hình Trung Cộng. Các chiến hạm VNCH còn tiến về phía đảo Quang Hòa thả xuống 4 xuồng cao su trên chở khoảng 40 quân VNCH để đổ bộ. Tuy lần đầu tiên đụng độ, nhưng dân quân Trung Cộng vẫn nổ súng khiến VNCH bị chết 1, bị thương 3 khiến toán đổ bộ VNCH phải rút lui. Khi thấy cuộc đổ bộ bị thất bại, phía VNCH đổi chiến thuật, lợi dụng ưu thế về hỏa lực và vị trí thuận lợi để tấn công các chiến hạm Trung Cộng.
Trước hỏa lực hùng hậu của phía VNCH, các chiến hạm Trung Cộng lần lượt bị trúng đạn. Phía Trung Cộng lập tức phản công. Các HTH K-271 và K-274 tấn công các KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trong của VNCH, trong khi các TLH T-396 và T-389 đối đầu TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Các chiến hạm VNCH khai triển đội hình cố giữ khoảng cách lớn hơn hầu tận dụng hải pháo tầm xa, nhưng các chiến hạm Trung Cộng có vận tốc cao hơn nên khoảng cách đôi bên mỗi lúc càng giảm, có lúc gần như sát vào nhau. Vì vậy, các chiến hạm Trung Cộng tuy cỡ súng nhỏ, nhưng có nhịp bắn cao hơn nên chiếm được lợi thế. Sau mười ba phút giao tranh, hàng ngũ chiến hạm VNCH đâm ra rối loạn.
Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư là soái hạm của Hải Đội VNCH nên bị hai HTH K-271 và K-274 dồn nỗ lực vây đánh. Mặc dầu KTH Trần Khánh Dư đã tận dụng hỏa lực dữ dội để mong làm chủ chiến trường, nhưng vẫn bị yếu thế vì hỏa lực Trung Cộng tập trung vào các giàn hải pháo chính và bị trúng đạn hư hại nhiều nơi khác, khói đen tỏa ra nhiều nơi, vì vậy phải rời vòng chiến. K-274 không bỏ lỡ cơ hội, theo sát KHT Trần Khánh Dư. Thấy vậy TDH Trần Bình Trọng vội chận đánh K-274 ngay bên ngang hông để cứu nguy cho Soái Hạm.
Bị hỏa lực của hai chiến hạm VNCH tấn công cả hai phía trước và sau, K-274 bị trúng đạn nhiều nơi, tay lái bị bất khiển dụng phải dùng hệ thống lái tay, nhưng vẫn chạy hết tốc lực, cuối cùng chiếm lại được thế thượng phong. Tuy được lợi thế trong lúc cận chiến, nhưng cũng dễ bị trúng đạn đại pháo của các chiến hạm VNCH. K-274 bị một viên đạn bắn trúng đài chỉ huy khiến nhiều người chết và bị thương nên hệ thống truyền tin bị rối loạn nên phải dùng thủ lệnh. Tuy vậy, chiến hạm vẫn phản công khiến KTH Trần Khánh Dư bị trúng đạn tại nhiều chỗ, hiệu kỳ bị bắn đứt bay xuống biển
Xa hơn về phía Bắc, các TLH T-396 và T-389 nghênh cản TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Lúc đầu, chiến hạm Trung Cộng tập trung hỏa lực vào mục tiêu lớn hơn là TDH Lý Thường Kiệt, nhưng bị HTH Nhựt Tảo chận bắn dữ dội. Các chiến hạm Trung Cộng chuyển xạ nhắm vào HTH Nhựt Tảo khiến kho đạn phát nổ, hầm máy bị cháy không còn vận chuyển được nữa. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt cũng bị trúng đạn nên rời vòng chiến. Thấy vậy, các chiến hạm VNCH Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng cũng hối hả rời vùng.
HQ-5 - Trần Bình Trọng
Phần tường thuật của Trung Cộng về cuộc hải chiến, tuy có đôi chút trung thực, nhưng nặng hơn về mặt tuyên truyền. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư đã không rời vùng dù bị hai chiến hạm Trung Cộng vây đánh gây thiệt hại, có tới 912 vết đạn trên vỏ tàu. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư là loại chiến-hạm tấn-công, kiến-trúc khoẻ nhất trong hải-đội với 4 phòng hầm máy chánh và nhiều phòng kín-nước khác, sức chịu-đựng rất cao. Khi tàu Trung-Cộng bắt đầu rút về hướng Tây, rơi vào đúng ngay tầm bắn hữu-hiệu của hải-pháo 76.2 ly, các chiến hạm Trung Cộng, đặc biệt K-274 bị trúng thêm mấy trái đạn lớn nữa, đến độ tê liệt.

CHIẾN LƯỢC CHIẾN THUẬT
Ðể đối đầu với hai phân đội chiến hạm VNCH, phía Trung Cộng cũng chia các chiến hạm thành hai phân đội. Các HTH K-271 và K-274 phối trí tại vùng Tây Nam đảo Quang Hòa để đối đầu với các KTH Trần Khánh Dư và TDH Trần Bình Trọng, trong khi các TLH T-389 và T-386 chiếm vị trí xa hơn về phía Bắc để ngăn chận các TDH Lý Thường Kiệt và HTH Nhựt Tảo. Nhìn chung, các chiến hạm VNCH chiếm vị trí hình cánh cung bên ngoài đảo Quang Hòa, trong khi các chiến hạm Trung Cộng cũng dàn hình cánh cung đối đầu, nhưng nằm bên trong, gần đảo hơn. Các chiến hạm Trung Cộng tuy nhỏ, nhưng có vận tốc cao và nhịp bắn nhanh hơn nên đã xử dụng chiến thuật "cận chiến." Tài liệu Trung Cộng mô tả như sau:
Chiếm được lợi thế vì phối trí ở vòng ngoài và lợi dụng hải pháo có thể bắn xa hơn , các chiến hạm VNCH khai triển đội hình, gia tăng khoảng cách. Các chiến hạm Trung Cộng nhỏ và hỏa lực yếu hơn lại ở vào vị thế bên trong bất lợi nên phải thu hẹp chiến trường bằng cách mở hết tốc lực tiến về phía chiến hạm địch nhiều khi như cập vào nhau nên cỡ súng tuy nhỏ nhưng bắn nhanh nên các loạt đạn đều trúng mục tiêu.
Trong lúc cận chiến, các chiến hạm Trung Cộng cũng tuân hành chiến thuật và lời dạy của Mao Chủ Tịch dồn sức mạnh để tiêu diệt bộ phận đầu não địch, các chiến hạm 271 và 274 tập trung hỏa lực vào KTH Trần Khánh Dư là soái hạm địch, trong lúc các TLH 396 và 389 hướng mọi họng súng vào TDH Lý Thường Kiệt. Do đó, hai chiến hạm VNCH bị thiệt hại nặng nề.
Ðến đây, chúng ta thấy rõ cấp chỉ huy Trung Cộng đã sai lầm khi xác quyết "KTH Trần Khánh Dư là soái hạm địch" nên đã tập trung hỏa lực quyết tiêu diệt chiến hạm này. Thực tế, chúng ta đều biết soái hạm của hải đội VNCH là TDH Trần Bình Trọng. Vì sự nhận định không chính xác nói trên nên lúc khởi đầu trận chiến, các chiến hạm Trung Cộng đã bám sát "soái hạm" Trần Khánh Dư và "tập trung hỏa tiêu diệt các giàn hải pháo chính và thượng tầng kiến trúc khiến hệ thống truyền tin bị hư hại."
Vì bị hai chiến hạm Trung Cộng dồn nỗ lực chận đánh nên KTH Trần Khánh Dư bị trúng đạn khá nặng bên tả hạm. Theo báo cáo chính thức của Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, tổng cộng KTH Trần Khánh Dư đếm được 37 lỗ đạn đường kính 4 tấc hay lớn hơn và 44 lỗ đạn khác nhỏ hơn 4 tấc. Giàn radar phòng-không bị suy-giảm năng-lực phát-thâu và radar hải hành tạm thời bất khiển dụng trong vòng hai giờ sau đó. Ðổi lại, soái hạm K-271 của Trung Cộng cũng bị trúng đạn tại đài chỉ huy gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Theo tài liệu chưa được phối kiểm của Trần Ðại Sỹ, Tư Lệnh Mặt Trận và Toàn Bộ Tham Mưu của Trung Cộng bị tử thương. Chiếc K-274 còn lại coi như không còn khả năng tác chiến.
 
HQ-4 - Trần Khánh Dư
TRƯỜNG HỢP HTH NHỰT TẢO (HQ-10)
Hộ tống hạm HQ-10 - Nhật Tảo
Tài liệu Trung Cộng cho biết:
Xa hơn về hướng Bắc, thừa lúc các TLH T-396 và T-389 dồn nỗ lực tấn công TDH Lý Thường Kiệt, HTH Nhựt Tảo tương đối rảnh rang liền bắn dữ dội vào hai chiến hạm Trung Cộng. Bị tấn công ác liệt, hai chiến hạm Trung Cộng chuyển xạ, tập trung hỏa lực nhắm vào HTH Nhựt Tảo khiến hầm đạn bị phát nổ. Chiếc T-389 liền bám sát và tác xạ dữ dội vào chiến hạm đã bị thương này, không để chạy thoát.
Tưởng cũng nên nói T-389 vừa được sửa chữa xong tại thủy xưởng ngày hôm trước thì đêm sau đã nhận được ra Hoàng Sa nên chưa đủ thì giờ để thử máy đường trường cũng như bắn thử hải pháo. Vì vậy, trong lúc hải chiến ác liệt, tuy HTH Nhựt Tảo của VNCH bị trọng thương, nhưng T-389 cũng bị chiến hạm VNCH bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị tiêu hủy, thủy thủ đoàn nhiều người chết và bị thương. Tuy nhiên những nhân viên còn lại vẫn không sợ chết, kiên trì giữ vững vị trí chiến đấu. Vì hầm chứa đạn bị bắn trúng thủng một lỗ lớn, một thủy thủ tuy đã bị thương nặng ở bụng và hai đầu gối nhưng vẫn cởi quần áo nhét vào lỗ thủng và tiếp đạn cho tới lúc chết tại chỗ. Hầm máy cũng bị bắn trúng nên bị cháy dữ dội, khiến tàu vô nước bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và 5 cơ khí viên tử trận tại chỗ. Cả hai T-389 và HTH Nhựt Tảo đều bị thương nặng, không tự điều khiển được nên trôi lại gần, có lúc đụng cả vào nhau. Dân quân trên T-389 có lúc đã dùng đại liên và lựu đạn để tấn công HTH Nhựt Tảo vì khoảng cách đôi bên quá gần.
Trong lúc đó, TDH Lý Thường Kiệt ở phía bên ngoài tác xạ dữ dội vào T-389. Tuy bị thương nặng, hầm máy bị cháy có thể phát nổ bất cứ lúc nào, TLH 389 vẫn chống trả dữ dội. Vì sợ bị bắn trúng, TDH Lý Thường Kiệt rời vùng hải chiến, vận chuyển ra hướng ngoài biển. Thấy TDH Lý Thường Kiệt bỏ đi, các chiến hạm VNCH Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng cũng rời vùng. Riêng HTH Nhựt Tảo vì bị hư hại nặng chỉ còn trôi trên mặt biển nên bị bỏ lại không còn đủ sức tự vệ. Lúc đó, hai chiến hạm Trung Cộng tăng viện là Tuần Duyên Hạm (TDH) loại Hainan mang ký số 281 và 282 thuộc phân đội chống tàu ngầm 74 do phân đội trưởng Liu Xi Zhong chỉ huy cũng vừa tới vùng vào hồi 11 giờ 4, sau đó mở cuộc tấn công. (Ghi chú của người viết: Theo tài liệu của Jane's Fighting Ship, TDH loại Hainan được Trung Cộng đóng mô phỏng theo loại chiến hạm SO-1 của Nga Sô, có trọng tải 320 tấn, vũ khí chính gồm 2 giàn hải pháo 57 ly đôi, một ở trước mũi và một ở sau lái, ngoài ra còn có 2 giàn đại bác 25 ly đôi cũng ở trước mũi và sau lái. Thủy thủ đoàn chừng người). Tuần Dương Hạm 281 tiến gần HTH Nhựt Tảo, tất cả các họng súng đều khai hỏa vào mục tiêu rõ ràng không còn tự vệ được. Đến 2 giời 52 phút chiều ngày 19 tháng 1, HTH Nhựt Tảo bị chìm tại vị trí chừng hai hải lý rưỡi về phía nam của bãi san hô Antelope.
HQ-10 - Nhật Tảo
HTH Nhựt Tảo lên đường ra Hoàng Sa cùng với TDH Trần Bình Trọng vào tối 17 tháng 1. Theo lời kể lại của Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc trong bài Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa HTH HQ-10 Nhựt Tảo được chỉ định xung vào Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm, với lý do chính là chiếc HTH này đang tuần dương ngay khu vực cửa khẩu Ðà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển, chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi. Như vậy, HTH Nhựt Tảo không những là chiến hạm nhỏ, có hỏa lực yếu nhất trong Hải Ðội Ðặc Nhiệm mà tình trạng kỹ thuật cũng kém khả quan, chỉ còn một máy chánh.
Trong phúc trình Diễn Tiến Hành Quân Hoàng Sa ngày 21 tháng 2 năm 1974 của TDH Trần Bình Trọng cũng ghi rõ, "Ngày 18-01-1974 lúc 0315H (chi chú của người viết: 3 giờ 12 phút sáng), chiến hạm đế điểm hẹn với HQ-10 tại vị trí 083 độ đèn Tiên Sa 090 (ghi chú của người viết: hướng đông của hải đăng Tiên Sa, cách 9 hải lý). Hồi 0327H vì tình trạng kỹ thuật của HQ-10 kém và để đúng giờ hẹn tại Hoàng Sa theo như đã dự trù, chiến hạm đươc lệnh của Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật (Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội 3) cho tăng máy, tách khỏi đội hình với HQ-10, trực chỉ đảo Cam Tuyền."
Trong một trận hải chiến, ngoài hỏa lực hải pháo, việc vận chuyển mau chóng vào vị trí thích hợp là yếu tố vô cùng quan trọng. Tình trạng kỹ thuật kém "chỉ còn một máy" của HTH Nhựt Tảo gây khó khăn trong việc vận chuyển có lẽ đã là nguyên nhân chính khiến chiến hạm này bị đánh chìm. Chúng ta tự hỏi nếu HTH Nhựt Tảo còn đủ hai máy chánh, dù bị bắn thiệt hại còn một máy vẫn có thể tự vận chuyển được, biết đâu có thể tới vùng an toàn, vì lúc đó các chiến hạm Trung Cộng đều đã bị hư hại nặng, không còn khả năng truy kích.
Tuy là chiến hạm yếu nhất, nhưng HTH Nhựt Tảo đã chiến đấu hăng hái và dũng cảm nhất. Khi thấy hai TLH T-389 và T-396 dồn nỗ lực tấn công TDH Lý Thường Kiệt, HTH Nhựt Tảo lập tức can thiệp, dùng hải pháo tác xạ chính xác chiến hạm Trung Cộng khiến T-389 bị trúng đạn vào đài chỉ huy, hạm trưởng tử thương, phòng máy bị cháy. Chiếc T-389 cũng bị hư hại nặng, trôi nổi trên mặt biển tương tự như HTH Nhựt Tảo, có lúc hai đối thủ đụng vào nhau như Trung Úy Nguyễn Ðông Mai thuộc HTH Nhựt Tảo diễn tả trong bài viết Lần Ðào Thoát Tại Hoàng Sa, "Rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh khiến chúng tôi té nhào trên sàn tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ-10 đâm vào tả hạm chiếc 396".
Tài liệu Trung Cộng cũng xác nhận thêm, "Nếu T-389 không dạt vào một bãi san hô, chắc chắn cũng sẽ bị chìm." Như vậy HTH Nhựt Tảo tuy bị chìm, nhưng đối thủ cũng bị thiệt hại tương tự, coi như một đổi một.
Trận hải chiến khởi đầu lúc 10 giờ 23 phút, khoảng nửa giờ sau đó các chiến hạm VNCH rời vùng, chỉ còn lại HTH Nhựt Tảo bị hư hại nặng trôi nổi trên mặt biển, nhân viên đã xuống bè đào thoát, không còn ai trên tàu. Về những giây phút cuối của HTH Nhựt Tảo, tài liệu Trung Cộng ghi rõ:
Tới 11 giờ 49 phút, hai TDH 281 và 282 do Phân Ðoàn Trưởng Liu Xi Zhong chỉ huy từ căn cứ hải quân Shantou tăng viện đến vùng Hoàng Sa. TDH 281 tập trung hỏa lực bắn vào xác HTH Nhựt Tảo. Mãi đến 14 giờ 52 phút ngày 19 tháng 1, HTH Nhựt Tảo mới bị chìm tại vị trí Nam bãi san hô Antelope, khoảng cách chừng 2.5 hải lý.
Sau này một số bài viết cho rằng HTH Nhựt Tảo bị trúng hỏa tiễn Trung Cộng vào đài chỉ huy khiến Hạm Trưởng hy sinh. Tuy nhiên, các chiến hạm Trung Cộng tham chiến đều không được trang bị hỏa tiễn hải-hải và tài liệu Trung Cộng cũng nói rõ không có Phi Tiễn Ðĩnh (PTÐ) Komar tại Hoàng Sa. Dĩ nhiên, chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào lời nói của họ, nhưng có thể suy đoán tìm câu trả lời hợp lý.
Trước hết, PTÐ Komar trang bị hỏa tiễn hải-hải Styx là loại Ai Cập đã dùng để bắn chìm Khu Trục Hạm Eilat của Do Thái vào tháng 10 năm 1967 gần cảng Port Said. Nếu hỏa tiễn Styx có thể đánh chìm một chiến hạm lớn nhất và cũng là soái hạm của HQ Do Thái thì đối với HTH Nhựt Tảo là chiến hạm nhỏ hơn, bị trúng hỏa tiễn Styx chắc không trôi nổi trên mặt biển, mãi mấy tiếng đồng hồ sau mới bị chiến hạm tăng viện của Trung Cộng bắn chìm. Ngoài ra, nếu có hỏa tiễn, theo đúng sách lược "đánh vào chỗ mạnh nhất của Mao Trạch Ðông," chắc chắn Trung Cộng sẽ nhằm vào chiến hạm VNCH lớn và quan trọng, như "soái hạm" Trần Khánh Dư hoặc các TDH, hơn là HTH Nhựt Tảo nhỏ. Hơn nữa, mỗi Phi Tiễn Ðĩnh Komar được trang bị 2 hỏa tiễn Styx, nếu tham chiến có lẽ sẽ bắn cả 2 hỏa tiễn vào các chiến hạm VNCH, gây thiệt hại nhiều hơn, thay vì chỉ bắn HTH Nhựt Tảo.
Về mặt chiến thuật, hỏa tiễn cũng như pháo binh, chỉ hiệu quả khi mục tiêu được xác định rõ ràng, chính xác. Trong trận hải chiến Hoàng Sa, chiến hạm đôi bên đều trong thế "cận chiến" trộn lẫn vào nhau, việc xử dụng hỏa tiễn có thể gây thiệt hại cho chính lực lượng mình. Vì những lý do trên, cộng thêm lời xác nhận về phía Trung Cộng, chúng tôi nghĩ rằng Trung Cộng đã không có hỏa tiễn hải-hải trong trận hải chiến Hoàng Sa. Rất có thể, bộ binh theo tàu để đổ bộ xử dụng một số hỏa tiễn "cầm tay" mang theo hoặc bất cứ vũ khí nào khác khi khoảng cách đôi bên quá gần.

THIỆT HẠI
Về phần thiệt hại, tài liệu Trung Cộng cho biết:
Tuy nhiên, chiến thắng nào cũng phải trả giá. Về phía Trung Cộng, tổng cộng có 18 người tử trận trong số này 1 hạm trưởng và 67 người khác bị thương. Chiếc T-389 bị hư hại nặng, nếu không kịp ủi vào bãi san hô chắc chắn sẽ bị chìm. Ba chiến hạm khác đều bị trúng đạn, thiệt hại trung bình.
Theo tài liệu của Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sĩ (chưa thấy Trung-Cộng phản-đối) cho biết cả 4 Hạm Trưởng các chiến hạm Trung Cộng gồm 3 đại tá và 1 trung tá đều bị tử thương. Ngoài ra, bộ tư lệnh mặt trận gồm 1 đô đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá và 7 sĩ quan cấp úy cũng bị tử thương. Chúng tôi rất dè dặt khi loan tin này, vì tác giả Trần Ðại Sĩ không cung cấp rõ ràng xuất sứ của nguồn tin trên. Hơn nữa, các chiến hạm Trung Cộng đều thuộc loại nhỏ, thủy thủ đoàn không quá trăm người, nên hạm trưởng mang cấp bậc đại tá là điều hãn hữu.
Nếu còn một số nghi vấn về thiệt hại nhân mạng, chúng ta có nhiều bằng cớ khá xác đáng về mặt các chiến hạm Trung Cộng. Trận hải chiến kết thúc vào khoảng 11 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 sau chừng 30 phút giao tranh khi ba chiến hạm VNCH rời vùng, chỉ còn lại 4 chiến hạm Trung Cộng và HTH Nhựt Tảo bị hư hại không tự vận chuyển được, các nhân viên đã xuống bè đào thoát. Nếu chưa bị chìm hoặc lên cạn hết, chắc chắn chiến hạm Trung Cộng sẽ lại gần HTH Nhựt Tảo, bắt sống những người trên bè đào thoát và đánh chìm đối thủ. Nhưng thực tế cho thấy không một chiến hạm Trung Cộng nào ngăn chận được các bè đào thoát và phải chờ hơn 3 tiếng đồng hồ sau, lực lượng tăng viện vừa tới gồm các TDH 281 va 282 mới bắn chìm HTH Nhựt Tảo. Ðiều này cho thấy cả 4 chiến hạm Trung Cộng trực tiếp tham chiến hoặc đã bị chìm, hoặc ủi bãi san hô hay hư hại nặng, không còn vận chuyển được nữa.
Qua lời tường thuật của Trung Cộng về trường hợp các chiến hạm của họ bị trúng đạn hư hại ra sao, gặp những khó khăn nào, cộng với bằng chứng chỉ còn 2 chiến hạm tăng viện hoạt động sau trận hải chiến, chúng ta có thể khá chắc chắn tìm ra sự thật. Ðó là cả 4 chiến hạm Trung Cộng trực tiếp tham chiến đều bị bắn hư hại nặng, nếu không chìm hay lên cạn cũng sẽ bị phế thải.

KẾT LUẬN
Trận hải chiến tại Quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 đã trở thành lịch sử trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của nước Việt Nam  trước sự xâm lăng, đánh chiếm của Trung Quốc. Việc thành bại, hơn thua không còn được đặt nặng so với nhu cầu tìm hiểu sự thật, nhất là trong bối cảnh lúc đó - Mỹ thỏa hiệp buông tay để Trung Quốc đoạt chiếm, tránh rơi vào tay CS Bắc Việt và Liên Xô; vậy nên chăng có hình thức hay sự quan tâm nào đó vinh danh các chiến sĩ Hải Quân VNCH tham dự trận đánh bảo vệ biển đảo của nước Việt.. Dù phải đối đầu với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần, nhưng các chiến sĩ Hải Quân VNCH đã tận dụng mọi khả năng, phương tiện hiện có và nhất là tinh thần chiến đấu, truyền thống hào hùng của người Việt Nam thà chịu chết, dũng mãnh chiến đấu giữ đảo đến phút cuối cùng, khiến đối phương cũng phải kiêng sợ và thán phục. Các yếu tố "Thời, Thế và Cơ" cần thiết cho chiến thắng đều không nằm trong tay Hải Ðội VNCH. Giả sử chúng ta có đánh chìm hết các chiến hạm Trung Cộng tại Hoàng Sa, thu được thành quả tuyệt đối về mặt chiến thuật, nhưng cũng sẽ phải rời bỏ vùng hải đảo thân yêu này để bảo toàn lực lượng, vì dù có vận dụng hết khả năng cũng khó bề đương cự với Hải Quân Trung Quốc.
BVB (st) / HS74.tripod

 
------------------
SẼ CÓ MỘT NGÀY 
(Kính dâng hương hồn các chiến sĩ Hải Quân VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa)
Việt Nam xưa, Ðức Thánh Trần
Bạch Ðằng cưỡi ngọn sóng thần tuốt gươm 
Giặc Mông Cổ tìm đường tháo chạy
Tướng như quân hết thảy rụng rời 
Tàn binh cọc nhọn thây phơi
Một phen thủy chiến muôn đời sử xanh (1287) 
Mộng xâm lấn tranh giành bờ cõi
Vẫn âm mưu dẫn lối quân Tàu 
Sáu trăm tám bảy năm sau (1974)
Hoàng Sa máu lại đỏ ngầu biển Ðông 
Trận hải chiến hào hùng, khốc liệt
Với kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa 
Ðây, trang chiến sử Hoàng Sa
Chỉ huy hải đội, họ Hà điều binh 
Bốn chiến hạm hải trình tham chiến
Những người con của biển kiên cường 
Trong vòng lửa đạn đau thương
Lưu danh muôn thuở tấm gương anh hùng 
Và chiến đấu vô cùng dũng liệt
Dù địch quân ứng chiến đông hơn 
Ðạn bay súng nổ từng cơn
Bốn tàu Trung Cộng chiến trường lâm nguy 
Cái bị pháo chìm đi mất dấu
Cái nước theo phía hậu tuôn vào 
Ðịch quân hoảng hốt xôn xao
Và quân ta cũng bước vào khó khăn 
Gương chiến đấu Bạch Ðằng bỗng hiện
Sáng như sao trên phiến linh hồn 
Biển xanh đỏ máu oan hờn
Chiến hạm Nhật Tảo trong cơn nguy nàn4 
Ðã anh dũng chận làn sóng địch
Ðể đoàn quân rời đích an toàn 
Lòng tàu nước ngập, máu loang
Nhưng lòng thủy thủ hiên ngang trên tàu 
Ngay cả lúc chìm sâu đáy biển
Vẫn một niềm tận hiến, hy sinh 
Trong lòng biển mẹ mông mênh
Trái tim bất khuất đau tình quê hương! 
Sẽ một ngày trùng dương sóng nổi
Về Hoàng Sa rửa mối hận này 
Chủ quyền Hoàng đảo trong tay
Xanh reo ngọn sóng, vàng bay sắc cờ 
Sẽ một ngày cõi bờ dân Việt
Thoát qua hồi nạn kiếp đau thương 
Có anh đứng giữa đại dương
Hát mừng bốn cõi quê hương thanh bình
(Thơ Ngô Minh Hằng)

Trần Ðỗ Cẩm
Austin, Texas tháng 1/2004
------------------

14 nhận xét:

  1. Chú Thiệu cũng máu miền Trung pha Nam bộ,thích chơi trực diện.Chơi với Tàu Hán mà đánh trực diện chỉ để lấy danh.
    MỸ TÀU tuy hai mà một từ cái năm 1954,tháng bảy,tại Geneva,thụy sĩ.Ngày ấy lão Chu bắt tay với Mỹ rồi,nhưng chưa hôn thắm thiết,biết chuyện này ngay sau đó nên vừa nịnh tới số,lại vừa quà cáp,thuốc bổ đặc cấp cho lão sống dai,kéo dài ngày bệnh tật.
    nay thì thôi chờ ngày lành tháng tốt lấy lại,có lẻ lấy một nửa cho ít phí tổn.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chú nói giỏi nhưng hỏi chú trong trường hợp này chú làm gì nếu không '' trực diện'' Chú kêu gọi tình hửu nghị, '' bên là nhà bên là quê hương'' ??

      Xóa
    2. Bạn 20:26 ơi. Ở đây có 1 ông còm sĩ già hay lảm nhảm cho vui, không ra ngô không ra khoai. Bạn không cần phải tranh luận với ông ta. Bạn để ý giọng nhừa nhựa của ông ta là biết.

      Xóa
    3. Ý của Tác Giả là gì khi đề cập tới Hộ Tống Hạm Nhật Tảo khi bị Hải pháo Trung Cộng bắn hư hại và các Nhân viên xuống bè tẩu thoát ...không một lời đề cập đến Haỉ Quân Hạm Trưởng Ngụy văn Thà hy sinh theo tàu..mà lại là Hạm Trưởng đã chết khi Hộ tống Haṃ bị bắn ...Thế có đúng với sợ kiện hay không? và từ đâu mà Tác Gỉa lại viết như thế..Đây là một bài viết về sự kiện Lịch Sử theo thiển ý phải trung thực thì bài viết mới có sức thuyết phục và nghiêm chỉnh..

      Xóa
    4. Đây là bài post Tư liệu. Tác giả là nguồn tư liẹu:
      hoangsa74.tripod.com/haichienTheoTC.htm >

      Xóa
  2. Bắt đền HOA KỲ thôi các bác ạ !

    Trả lờiXóa
  3. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có "phản ứng" đấy chớ . Phản ứng rất đồng điệu với nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em .

    Theo lời kể của Cao Xuân Huy trong "Nếu Đi Hết Biển" của đạo diễn Trần Văn Thủy

    CXH: Có một điều, khoan hãy nói tôi đinh ninh điều gì. Ngoài ba mươi tuổi, tôi, ở lính hơn bảy năm và ở tù gần năm năm. Những kỷ niệm về chiến trận, những kỷ niệm về tù đày thì nhiều, nhiều lắm. Vui buồn đều có cả. Nhưng điều đáng nhớ nhất lại không ở chuyện đánh trận hay chuyện tù đày, mà lại là chuyện không bảo vệ được lãnh thổ, anh ạ. Tôi kể anh nghe. Tết năm 74, tiểu đoàn tôi đang nằm ứng chiến ở Phú Bài, Huế, thì Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa. Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Quân Ðoàn I, tiểu đoàn tôi là lực lượng trừ bị của Quân Ðoàn, được lệnh chuẩn bị ra đánh lấy lại Hoàng Sa. Ðơn vị thủy xa của Sư Ðoàn đã từ Sài Gòn ra đến Ðà Nẵng, tiểu đoàn tôi đã ở trong tư thế sẵn sàng, đợi lệnh xuống tàu. Thủy Quân Lục Chiến đi lấy lại Hoàng Sa là đúng "chỉ số" rồi. Gì chứ đánh nhau để bảo toàn lãnh thổ, lính tráng tụi tôi thằng nào cũng háo hức, tuy biết rõ rằng đi là chết, nhưng đánh nhau để giành lại đất nước, từ quan đến lính chúng tôi, thằng nào cũng hăm hở. Nhưng, ngay lúc đó, mặt trận trong nội địa miền Trung cùng lúc nở rộ, những cuộc tấn công lớn của các đơn vị Bắc Việt đã cầm chân chúng tôi, chúng tôi đã không có lệnh xuất quân đến Hoàng Sa. Tin tức và hình ảnh về những chiếc tàu của Hải Quân trên đường ra cứu Hoàng Sa bị bắn chìm, những người lính đồn trú ở Hoàng Sa bị Trung Cộng bắt, rồi được trao trả từ tận... bên Tàu, làm chúng tôi thấy nhục. Nhục chứ anh, địa danh nào trong tay Miền Bắc hay Miền Nam thì cũng vẫn là của người Việt Nam, Hoàng Sa bị Trung Cộng chiếm, mà không lấy lại, tôi nghĩ, miền Bắc và cả miền Nam, đều có tội với tổ tiên, với cha ông, dung túng cho đô hộ hay nô lệ Tàu hay Tây thì tội cũng ngang nhau."Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu", Hoàng Sa còn. "Một trăm năm đô hộ giặc Tây", Hoàng Sa còn. Ông cha ta chèo thuyền, giong buồm mà vẫn bảo vệ được những hòn đảo nhỏ xíu ở tít tận mù khơi. Vậy mà bây giờ, quân đội hai miền tự nhận là thiện chiến nhất nhì thế giới, lại bỏ mặc một phần lãnh thổ lọt vào tay ngoại bang. Tôi hỏi anh chứ, chính anh, anh có thấy nhục không? Một trăm năm, một nghìn năm nữa, hay đến tận bao giờ chúng ta mới lấy lại được Hoàng Sa? Ðã mất, hay sẽ còn mất thêm?

    http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=431&rb=0102

    Trả lờiXóa
  4. Nếu một ngày nào đó mà Tầu khựa tấn công các đảo tại quần đảo Trường Sa thì các chiến sĩ hải quân Việt Nam có được phép sử dụng vũ khí để chống trả như những người lính VNCH trước đây không? Hy vọng rằng không vì lời cam kết của ngài thượng tướng với thiên triều Bắc Kinh là sẽ không dùng giải pháp vũ trang trong bất kỳ trường hợp nào trong vấn đề tranh chấp Biển Đông để rồi lại một lần nữa họ lại phải tay không phất cờ chống giặc???

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Có một điều ta thấy hiện nay, ngư dân vẫn phải tự lo, cô độc bám biển , đưa lưng gánh chịu không có hộ tống bảo vệ của hải quân '' nhân dân''. Quân đội bị bó tay.

      Xóa
  5. Trung Quốc tức sùi bọt mép vì không chiếm được Senkaku dễ như Hoàng Sa. Còn Nhật Bản vẫn cười khẩy: "Mời bạn vô đây nhậu. Dám không?!"

    Trả lờiXóa
  6. Có thể có những toan tính về lâu dài của người Mỹ :

    Sau khi phải chấp nhận ký hiệp định Paris 1973 , chấp nhận rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam , tức là người Mỹ đã phần nào tiên liệu trước được kết cục của chiến tranh sẽ nghiêng về Miền Bắc và việc Việt Nam thống nhất là tất yếu ( Tất nhiên không thể biết nó sẽ diễn ra ở thời điểm nào , năm nào ) Nên họ đã " Buông " Hoàng Sa cho....... " bõ ghét " , qua đó cũng giải quyết được vài việc :

    1- Trả thù Miền Bắc và nước Việt Nam thống nhất trong tương lai.( Việt Nam còn định thù " Muôn đời muôn kiếp không tan " thì sao họ lại không ?.

    2- Về bản chất chế độ của Trung Quốc và Việt Nam là giống nhau - cùng là nước Cộng Sản , vì vậy việc để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa sẽ tạo ra mối mâu thuẫn lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc , một điều kiện cần để chia rẽ các nước cộng sản , và điều này tất nhiên là có lợi cho họ trong tương lai .

    Trọng lịch sử thế giới cận đại , các cường quốc thường dành cho mình quyền xắp đặt trật tự thế giới , và điều đó đã và đang diễn ra đến tận hôm nay : Bức tường Berlin ngăn chia Hai nước Đức , Vĩ tuyến 38 đang ngăn chia hai miền Triều tiên , vĩ tuyến 17 ngăn chia Nam - Bắc Việt Nam trong quá khứ.

    Việc giải quyết hậu quả từ những thỏa thuận ngầm giữa các cường quốc , trước tiên phải đến từ các quốc gia chịu ảnh hưởng với một quyết tâm và ý chí mãnh liệt của cả dân tộc đó . Nước Đức đã làm điều này một cách hoàn hảo . Nước Việt Nam cũng đã làm được tuy chưa chọn vẹn vì còn đó - Hoàng Sa - nỗi đau mất mát .

    Việc đưa Hoàng Sa trở về với đất Mẹ đã trở thành mệnh lệnh của thế hệ người Vệt Nam hôm nay và trong tương lai , Thay vì nỗ lực tìm kiếm mọi nguyên nhân đẫn đến sự mất mát này bằng câu hỏi Vì sao ? dài vô tận , và có thể là nguyên nhân gây ra sự chia rẽ không cần thiết trong lòng người Việt . Chúng ta - trong lúc này nên đặt câu hỏi; : làm thế nào ? , bằng cách nào ? Để tiết kiệm tâm sức và tạo sự đoàn kết cao nhất của toàn dân tộc cho sứ mệnh giải phóng Hoàng Sa .


    Để gió cuốn đi




    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. 16:02 phân tích rất sâu sắc, có căn cứ thực tế.

      Xóa
    2. Hóa ra quá khứ không phải là thứ để học hỏi mà là cái sọt để phi tang chứng cứ .

      Chúng ta có tin được không nếu Lê Chiêu Thống kêu gọi Quang Trung nên đoàn kết với hoàng gia ? Nghe giống Hồ Tôn Hiến dùng Kiều kêu gọi Từ Hải quá!

      Xóa
  7. Tôi đồng ý "nên ghi nhận một điểm son về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu". Mâu thuẫn về ý thức hệ đã làm cho nước Việt điêu linh. Bọn tay sai của Mỹ và Tàu nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn không biết tiếc xương máu của con lạc cháu hồng. Tội của chúng sẽ thành vết nhơ vĩnh cửu.

    Trả lờiXóa