* LÊ XUÂN
Cảm
xúc trữ tình của tác giả đã hòa nhập vào Lá thư kỷ vật để rồi thao thức cùng
trăng ở chốn rừng già U Minh, nơi tận cùng Tổ quốc ở phương Nam . Bài thơ kẻ lại câu chuyện một
ông già”râu cước như tiên” là người dân Nam bộ, đã mai táng liệt sĩ quê ở
miền Bắc rất chu đáo. Khi đào kênh, ông đã dời ngôi mộ về vườn của mình, ngày
đêm khói nhang chân tình.
Cùng viết về đề tài thương binh- liệt sĩ, tôi thấy
Đại tá Bùi Văn Bồng còn có bài Lời ru ngọn cỏ rất hay, và tôi xin được mượn hai
câu kết của bài thơ ấy làm nén tâm nhang dâng lên hương hồn các liệt sĩ vô danh
và hữu danh ở khắp mọi miền của Tổ quốc ta:
"Người hy sinh, đất hồi sinh
Trái tim hoá ngọc lung linh đất trời"
(Trích)
Với tâm khảm tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống
vì dân vì nước qua các cuộc chiến tranh, một trong những bài thơ viết về đề tài
TB-LS mà tôi thường đọc lại nhiêu flần là bài thơ sau đây của nhà thơ Bùi Văn
Bồng:
LÁ THƯ KỶ VẬT
Lá thư nóng
hổi tay tôi
Hay là nắng rớt chiều vơi cuối rừng
Nhạt nhòa nét chữ rưng rưng
Trang thư làm tím một vùng heo may.
Nhớ đêm mây
úa trăng gầy
Đáy ba lô lá thư này mở ra
Bạn khoe : Thư của "người
ta"...
Chữ nghiêng con gái sao mà dễ thương.
Rồi hai đứa hai chiến trường
Để bây giờ thắp nén hương bồi hồi
Tôi đi
tìm mộ bạn tôi
Đã
qua mấy chục năm rồi dễ đâu.
Bưng biền lúa
biếc một màu
Sơ đồ mộ chí nát nhàu khó xem
Lão nông râu
cước như tiên
Mắt nhòe ngấn lệ soi trên sơ đồ ...
Đào kinh lấy
đất đắp bờ
Mộ anh bây giờ yên giữa vườn xanh
Lão nông với
tấm lòng thành
Ngày đêm nhang khói cầu lành tâm linh.
Chỉ riêng một
lá thư tình
Lão đem giữ kín trong mình làm tin
Bắc –Nam thuở ấy hai
miền
Lá thư tình vẫn vẹn nguyên đến giờ.
Tôi cầm
kỷ vật ngẩn ngơ
U
Minh đầu tháng bất ngờ trăng lên
BVB
Người chiến sĩ hy sinh khi tuổi còn xanh. Nhà thơ Lê
Anh Xuân đã khắc họa: “Anh chẳng để lại
gì cho riêng Anh trước lúc lên đường / Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc
vào thế kỷ”. Còn Trần Mạnh Hảo viết:
“Thế hệ chúng tôi đi như gió thổi / Quân phục xanh đồng sắc với chân trời /
Chưa kịp yêu một người con gái / Khi ngã vào lòng đất vẫn con trai”
Người chiến sĩ với một trái tim hồng, một khẩu súng
trường, một đôi dép cao su và chiếc ba lô, là có thể xuôi ngược tung hoành Bước
dài như gió lay thành chuyển non. Họ đi theo tiếng gọi non sông.sức mạnh của
lòng yêu nước nồng nàn. Và khi Anh ngã
xuống, trở về với đất mẹ yêu quý thì có biết bà mẹ, người vợ đã lặng khóc đêm
đêm: “Nước mắt mẹ không còn vì khóc những
đứa con, lần lượt ra đi, đi mãi mãi (Xuân Hồng).
Lại còn những bà mẹ: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ, các Anh không về, mình
mẹ lặng im” (Tạ Hữu Yên). Các mẹ, các chị cứ ngày đêm khấn vái, thỉnh cầu,
mong nhận lại được dù chỉ là một nắm tro hay một kỷ vật nào đó của các Anh để
nguôi lòng. Nhà thơ - đại tá Bùi Văn Bồng trong một lần trở lại chiến khu xưa,
nơi rừng già U Minh để tìm mộ bạn tôi đã xúc động khi cầm trên tay lá thư của
bạn do một lão nông râu cước như tiên trao lại. Với tâm trạng cảm động đến ngẩn
ngơ, và trong giây phút thăng hoa xuất thần, bài thơ "Lá thư kỷ vật"
đã ra đời như một lời tâm tình với bạn ở cõi tâm linh.
Lá thư là kỷ vật cuối cùng của người lính trước khi
ngã xuống, đã trải qua mấy chục năm, kể từ ngày nguôi tắt ngọn lửa chiến tranh
chống Mỹ. Đó cũng là cái tứ xuyên suốt bài thơ để tác giả bộc lộ tâm trạng. Bốn
câu đầu của bài thơ là một bức tranh tâm cảnh vẽ ra một không gian rộng lớn
trong buổi chiều tà nơi cánh rừng U Minh ở phía trời Tây Nam đất nước:
"Lá thư nóng hổi tay tôi
Hay là nắng rớt chiều vơi cuối rừng
Nhạt nhòa nét chữ rưng rưng
Trang thư làm tím một vùng heo may"
Cầm lá thư đã qua hơn một phần tư thế kỷ mà nhà thơ
vẫn thấy nóng hổi hơi thở của cuộc chiến ngày nào. Các từ láy nhạt nhòa, rưng
rưng vừa tái hiện khoảng thời gian xa vắng lại vừa diễn tả được nỗi đau nghẹn
ngào của tác gỉa, và nước mắt đang chảy vào trong. Cả rừng chiều cũng tím màu
thương nhớ. Từ đó làm tái hiện một quá khứ rất đẹp của tình đồng đội:
"Nhớ đêm mây uá, trăng gầy
Đáy ba lô lá thư này mở ra
Bạn khoe: Thư của: "người ta"
Chữ nghiêng con gái sao mà dễ thương"
Trong hoàn cảnh chiến tranh nóng bỏng, một điếu thuốc
lá, một lá thư tình cũng trở thành tài sản chung của mọi chiến sĩ. Nó làm vơi
đi sự ác liệt, thiếu thốn, nó tiếp thêm sức mạnh cho người lính, và khi Chung
bát đũa nghĩa là gia đình đấy (Phạm Tiến Duật). Tuy rất dài và rất xa là những
ngày thương nhớ, nhưng hai đứa hai chiến trường xa thẳm, giờ đây vẫn tìm đến
nhau:
"Tôi đi tìm mộ bạn tôi
Đã qua mấy chục năm rồi dễ đâu"
Như có một sự "thần giao cách cảm" chăng mà
hôm nay Anh được gặp lại lá thư "xưa - kỷ vật của bạn mình, khi được lão
nông trao lại sau nhiều năm gìn giữ. Lời kể của lão thật chân tình, làm xúc
động lòng ta:
"Đào kinh lấy đất đắp bờ
Mộ Anh bây giờ yên giữa vườn xanh
Lão nông với tấm lòng thành
Ngày đêm nhang khói cầu lành tâm linh"
Hóa ra ở đâu cũng vậy, người chiến sĩ vô danh không
đơn độc. Anh luôn nhận được sự an ủi vỗ về, kính phục, chăm lo của mọi người,
mọi nhà, bất kể Anh là người ở một miền quê nào. Bởi vì đạo lý uống nước nhớ
nguồn là nét đẹp truyền thống của dân tộc ta. Bởi vì ai cũng phải biết rằng Anh
đã hy sinh cho Tổ quốc ta nở hoa độc lập, kết quả tự do (Bác Hồ). Lá thư
"của Anh đã là một niềm tin, là vật quý thiêng liêng mà bao năm nay
"lão nông" cất giữ, để giờ đây trao lại cho "bạn anh" - nhà
thơ:
"Chỉ riêng một lá thư tình
Lão đem giữ kín trong mình làm tin"
Cầm lá thư của người quá cố mà nhà thơ cứ ngẩn ngơ
hoài. Ước mơ tìm mộ bạn tôi đã trở thành hiện thực như có sự linh ứng dẫn
đường:
"Tôi cầm
kỷ vật ngẩn ngơ
U Minh đầu tháng bất ngờ trăng lên"
Bài thơ khép lại trong cảnh chiều tắt và trăng non đầu
tháng đang lên thật đẹp. Trăng hay là bóng hình liệt sĩ đang tỏa sáng ở chốn
bồng lai? Nhưng, khi viết những dòng
này, tôi cũng thấy lòng rưng rưng, mắt ngấn lệ. Người chiến sĩ đã hy sinh có
biết bao người thương nhớ? Và đời sau, ý thức tri ân được mấy người. hay là người
ta chi chăm chắm băng bật và say sưa lo làm giàu, hưởng lạc; họ không cần biết
cuộc sống yên lành cho họ ‘phất nhanh’ đời lên hương là do ai đã đem lại; họ
quên đi hết quá khứ đau thương, hào hùng của dân tộc. Chắc vì suy cảm đó, ngay
đầu bài thơ, tác giả đã viết: “Lá thư
nóng hổi tay tôi / Hay là nắng rớt chiều vơi cuối rừng?”.
Trong các thế hệ hôm nay và mai sau, ít nhất ai đó đã có tấm lòng dành cho các liệt sĩ qua biết bao cuộc chiến giữ nước, chỉ cần ấm áp một chút như “nắng rớt chiều vơi” đã là quý lắm rồi! Câu thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, một lời nhắn nhủ muốn đánh thức
lương tâm con người.
L.X
--------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét