* PHÙNG QUÁN
(…)
Cách hơn một tháng trước, vợ tôi đến thăm chị Khiêm lúc này đã ốm liệt giường.
Ngoài cân đường biếu người ốm, tôi gửi biếu nhà thơ nửa ìít rượu. Nhà thơ hỏi
vợ tôi: "Thằng Phùng Quán chết rồi hay sao mà lâu nay nó không đến thăm
tôi? Chị Khiêm đưa mắt lườm chồng, nói: "Đừng chấp lão ta làm gì… mồm
miệng lúc nào cũng độc địa như thế…". Vợ tôi kể lại chuyện này và có ý
giận sự độc mồm độc miệng của ông. Nhưng tôi thì rớm nước mắt vì cảm động. Tôi
thấy đằng sau lời rủa độc ấy là tình thương quý của ông đối với tôi -
"Mình là cái con khỉ gì mà được nhà thơ Đoàn Phú Tứ thương quý làm
vậy?". Tôi thầm nghĩ thế và lòng xốn xang tình cảm biết ơn…
Bây giờ nhà thơ đã qua đời. Nhớ lại tất cả những
chuyện đó, tôi càng buồn rầu hơn vì vô phương giúp đỡ gia đình ông trong cảnh
tang gia cùng quẫn. Tôi lục lọi khắp nhà xem tìm được vật gì sớm mai đem bán.
Nhưng cảnh nhà tôi cũng chẳng hơn gì cảnh nhà ông. Vật dụng có giá trị nhất
trong nhà tôi là cái xe đạp mi-ni cũ nát, đem bán chưa chắc đã nổi hai chục
nghìn>> Hồi ký “Ba phút sự thật” của Phùng Quán
Cái khó ló cái khôn. Trong đầu tôi chợt lóe lên
"sáng kiến": Nghe nói Đoàn Phú Tứ đã từng là đại biểu Quốc hội khóa
I, vậy mình sẽ lên thẳng Quốc hội xin tiền làm ma cho ông. Sáng kiến có vẻ hay
đấy, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy khó lòng thực hiện nổi. Tôi lấy tư cách
gì để lên tận Quốc hội xin tiền cho ông? Tôi không phải là bà con ruột thịt,
không phải họ hàng, cũng không phải là bạn của ông… Tôi không có chức danh gì
trong các doàn thể văn học nghệ thuật… Xuất thân là một người hnh trinh sát của
một trung đoàn thiện chiến, tôi thường bị kẹt vào những tình huống hiểm nguy
tường chừng không lối thoát, nhưng cuối cùng vẫn thoát. Quân đội đã rèn giũa
cho tôi từ thuở thiếu mên cái ý chí: hãy tìm cho ra một kẽ hở ở những chân
tường kiên cố nhất, để chui qua.
***
Một giờ sáng, trằn trọc trên Chòi ngắm sóng, tôi đã
tìm ra kẽ hở đó. Nhưng kẽ hở này là một hạ sách, vì nó vi phạm nghiêm trọng đạo
lý con người và nhà văn: Nói dối. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy chùn tay. Nhưng thời
gian gấp quá rồì, chỉ còn một buổi sáng ngày mai… Tôi tự an ủi: Mục đích sẽ
biện hộ cho phương tiện. Tôi bật đèn, tìm giấy bút và sáng tác một bức thư:
"Kính
gửi đồng chí Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam .
“ Kính thưa đồng chí, tôi xin báo với đồng chí một tin
buồn: ông Đoàn Phú Tứ, nhà thơ, nhà viểt kịch, nhà dịch thuật, và đồng thời là
đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thọ 80
tuổi, đã từ trần ngày hôm qua. Họa vô đơn chí. Vợ ông là chị Nguyễn Thị Khiêm
vừa mất cách đây hai tháng. Sau ngày vợ mất, ông Đoàn Phú Tứ tìm gặp tôi và
nói: "Mình cảm thấy như ngọn đèn đã cạn dầu, lụi bấc, chưa biết tắt lúc
nào. Tám mươi tuổi rồi, chết không phải là điều đáng sợ, chỉ sợ một nỗi đến lúc
nằm xuống, các con chẳng biết lấy gì để làm ma cho bố. Bởi vậy mình uỷ thác
Phùng Quán một việc. Nếu mình nằm xuống, thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch
Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia đình mình, và chuyển lời mình đến với ông:
"Nểu Quốc hội còn nhớ đến tình cũ nghĩa xưa, thì xin ông một cỗ áo quan và
một chút tiền để mai táng". Bây giờ ông Đoàn Phú Tứ đã nằm xuống. Tôi xin
chuyển đến đồng chí lời uỷ thác của ông. Mong đồng chí lưu tâm giải quyết. Hai giờ
chiều mai, gia đình ông Đoàn Phú Tứ sẽ đưa ông về Văn Điển. Nay kính thư, Phùng
Quán".
Trong cuộc đời làm văn của tôi, chưa bao giờ viết một
đoạn văn nào mà tôi phải đắn đo, cẩn trọng đến như bức thư này. Tôi chép đi
chép lại bức thư nhiều lần, cân nhắc từng chữ một, sửa chữa, thêm bớt.
Tôi chép lại bức thư với nét chữ nắn nót, đề địa chỉ
người nhận, với dòng chữ trong ngoặc đơn: "Kính
nhờ Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam chuyển".
Đồng hồ chỉ 3 giờ sáng.
Tôi đến Trụ sở Hội Nhà văn vào đầu giờ làm việc May
mắn nhà văn Xuân Thiều cũng vừa đến. Tôi trao bức thư và nói gần như năn nỉ:
"Anh cố gắng chuyển thư đến tay anh Đạo vào buổi sáng nay, anh ấy mới giải
quyết kịp". Xuân Thiều xem bức thư rồi trao lại cho tôi, nói: "Không
ăn thua đâu Quán. Chuyện tiền nong đâu có thể giải quyết một cách chóng vánh,
dễ dàng như vậy?".
Tôi buột miệng đọc câu thơ của Uytman: "Dù cho ai thất vọng về người - Ta, ta
vẫn đời đời tin tưởng" Tôi nói: "Đã thế tôi sẽ lên thẳng Quốc hội
gặp anh Đạo". Tôi dắt xe đến thẳng chòi gác, cố lấy dáng đi thật chững
chạc.
Anh công an gác trước Trụ sở Quốc hội (33 Ngô Quyền)
bước ra hỏi:
- Cụ đến có việc gì ạ?
- Cụ đến có việc gì ạ?
- Báo cáo đồng chí, tôi muốn gặp Chủ tịch Lê Quang
Đạo.
- Chắc cụ muốn đưa đơn kiện phải không?
Tôi đoán anh ta cho tôi là một lão nông từ làng quê
lên. Mà các cụ ở nông thôn đã tìm lên đến tận Quốc hội thì chỉ có mỗi việc là
đệ đơn kháng cáo những chuyện bê bối của chính quyền địa phương.
- Không, đồng chí ạ. Tôi không có chuyện kiện cáo gì
đâu. Chỉ cần gặp ông Chủ tịch để đề đạt một công việc cần thiết.
- Thế thì mời cụ dựng xe đằng kia rồi vào gặp bác
thường trực.
Ông già thường trực sau khi nghe tôi trình bày vắn
tắt, liền trá lời với giọng Quảng Trị đặc sệt:
- Ông Lê Quang
Đạo và ông Vũ Mão mới về Hải Phòng chiều qua để kiểm tra việc chuẩn bị bầu cử
hội đồng nhân dân các cấp…
"Thế
thì không ăn thua gì rồi anh Tứ ơi… Anh đen quá, đen cho đến chết. Anh dịch
"Đỏ và đen" mà số anh chỉ nhận được toàn phần đen… Tôi đã hết sức với
anh, nhưng số phận đã được an bài… Mong vong linh anh đừng giận tôi".
Tôi đưa phong thư và bộ "Tuổi thơ dữ dội", nhờ ông thường trực chuyển giúp cho
Chủ tịch Lê Quang Đạo ông ta lên mục kỉnh, đọc tên tôi trên phong bì thư. Ông
ngẩng mặt lên hỏi: "Có phải Phùng Quán "Vượt Côn Đảo"
không?"
- Đúng rồi…
- Dạo ni nom già hớm hí. Cậu quên tớ rồi à?
Tôi chăm chú nhìn ông, lòng lấy làm lạ: "Ở một
nơi uy nghiêm như thế này sao lại nảy nòi ra một anh quen biết hạng người như
mình?"
- Thật tình mình không nhớ được… Tôi bối rối nói.
- Vô đây uống chén nước đã, rồi ta nhắc cho mà nhớ.
Cậu là lính "Trăm lẻ một", tớ là lính "Chín lăm". Cậu có
nhớ trận phục kích đoàn công-voa gần đồn Hòa Lục Nam , chiến dịch Phan Đình Phùng năm
1952 không?
Có, có, nhớ rồi…
- Lúc thu chiến lợi phẩm, cậu với tớ giành nhau khẩu
ga-răng, cậu đạp tớ một cú giữa bụng, tớ nện cậu một cú vô quai hàm, nhớ chưa?
- Nhớ rồi, nhớ rồi… Mà ngày xưa tớ nom cậu to con hơn…
- Xí… già thì người phải teo tóp lại như trái mướp
khô… Rứa cậu gặp ông Đạo có việc chi?
Tôi trình bày tóm tắt câu chuyện và nói: "Thế mà
ông Đạo lại đi vắng…, có hết hơi không?
- Cậu cứ ngồi đó, chưa chi dã
chủ bại. Tớ thấy hồi còn làm lính "Trăm lẻ một" cậu coi bộ cứng cổ
hơn:.. Để tớ gọi điện thoại cho ông Phó Tổng biên tập báo "Người đại biểu
nhân dân", hỏi ý kiến ông ta, liệu có giải quyết được không?
Người
chiến hữu cũ của tôi gọi điện thoại, quay lại nhìn tôi gật gật: "Ông ấy
mời cậu lên gặp. Điệu ni là có hy vọng đấy. Chừ cậu đi lên tầng gác hai, thấy
gian phòng ngoài cửa có tấm biển đề Tổng biên tập. Ông ta đang ngồi ở đó".
Phó Tổng biên tập báo "Người đại biểu nhân dân" kém tôi vài tuổi, tên là Thọ. Anh Thọ không những bỉết Đoàn Phú Tứ mà còn biết cả chuyện ông là người đầu tiên đã ra tay chống tệ nạn tham nhũng, trong vụ Trần Dụ Châu và Lê Sĩ Cửu, từ thời chiến khu Việt Bắc.
Phó Tổng biên tập báo "Người đại biểu nhân dân" kém tôi vài tuổi, tên là Thọ. Anh Thọ không những bỉết Đoàn Phú Tứ mà còn biết cả chuyện ông là người đầu tiên đã ra tay chống tệ nạn tham nhũng, trong vụ Trần Dụ Châu và Lê Sĩ Cửu, từ thời chiến khu Việt Bắc.
Đọc xong bức thư gứi đồng chí Lê Quang Đạo, anh Thọ
nói: "Đây không phải là chuyện nghĩa cử mà còn liên quan đến ảnh hưởng
chính trị… Anh Phùng Quán ngồi đây chờ tôi mười phút, tôi chạy đi mời một số
cán bộ chủ chốt của cơ quan. Chúng ta sẽ cùng họp bàn cách giải quyết trong khi
anh Đạo đi vắng". Lát sau tôi được mời vào phòng họp.
Ngoài anh Thọ có Vụ trưởng Vụ Tài chính, Vụ trưởng Vụ
Chính sách, một chuyên viên đặc trách những việc đột xuất của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội.
Bức thư gửi lên đồng chí Lê Quang Đạo được anh Thọ đọc
to lên cho tất cả cùng nghe. Vụ trưởng Vụ Chính sách trạc năm mươi tuổi, người
cao gầy, ánh mắt sắc sảo, nói: "Trước khi bàn bạc cách giải quyết, chúng
ta phải cần kiểm tra xem ông Đoàn Phú Tứ có phải là đại biểu Quốc hội không đã…"
(!?) Ông đứng lên ra khỏi phòng họp một lúc rồi trở vào, tay cầm cuốn sổ dày
cộp, bìa bọc vải có chữ mạ vàng. Ông đặt cuốn sổ trước mặt tôi, giới thiệu:
"Đây là Kỷ yếu danh sách đại biểu Quốc hội từ khóa I đến nay. Tên đại biểu
được xếp theo vần A, B, C. Đoàn Phú Tứ, ta tra vần T. Ông lật giở kỷ yếu tìm
vần T. Chúng tôi cùng chụm đầu trên ba trang vần T. Không có tên Đoàn Phú Tứ.
Tôi tái mặt… Dò tìm lại lần nữa. Có tên Nguyễn Đình Thi, Phan Tứ… nhưng Đoàn
Phú Tứ thì không. Tôi hoảng sợ thật sự. Thật ra, việc Đoàn Phú Tứ là đại biểu
Quốc hội khóa I thì tôi cũng chỉ nghe nói vậy thôi, chứ chưa bao giờ hỏi thẳng
ông… Nếu Đoàn Phú Tứ không phải là đại biểu Quốc hội thì những con người sắc
sảo này sẽ nhận ra ngay sự gian dối của bức thư. Như vậy thì tôi đã tự chuốc
lấy một hoàn cảnh hết sức lố bịch. Tôi chợt nghĩ: vẫn còn một tia hy vọng. Tôi
nói: "Nhưng nhà thơ Đoàn Phú Tứ chi là đại biểu có mấy năm, sau đó ông bỏ
thành…" Vụ trưởng Chính sách nói: "Đây là Kỷ yếu. Trong số này có cả
tên Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh".
Lúc này tôi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi lắp bắp, ấp
úng: "Việc này tôi nghe các anh ở Hội Nhà văn nói chắc lắm. Có lẽ để tôi
về hỏi lại anh Nguyễn Đình Thi xem sao. Anh Thi cũng là đại biểu Quốc hội khóa
I…". Miệng nói, chân tôi dợm đứng lên, cốt làm sao rút được ra nhanh khỏi
gian phòng họp. Bất chợt tôi nhìn thấy trong sổ Kỷ yếu có mục: Những đại biểu
Quốc hội đào nhiệm. Tôi hồi hộp nói: "Thử tra cứu mục này xem có tên ông
Tứ không?"
Ngón tay trỏ tôi lần dọc theo các hàng tên… "Đoàn
Phú Tứ đây rồi!" - Tôi nói gần như reo. Vụ trưởng Chính sách xem xét lại
lần nữa, rồi gật đầu: "Qua khâu kiểm tra, ông Đoàn Phú Tứ đúng là có danh
sách trong đại biểu Quốc hội. Nhưng ông đã đào nhiệm từ năm 1951. Chúng tôi
không còn trách nhiệm gì về ông, nên không có chính sách cấp tiền làm tang lễ
cho ông…".
- Chính sách đất nước quý trọng nhân tài - Tôi nóng
nảy ngắt lời ông. - Tuy ông đào nhiệm, nhưng trước đó ông là nhà thơ đầu tiên
đứng lên chống tệ tham nhũng. Và ông đã chống một cách thật can đảm. Ông đã
vạch mặt Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục quân nhu phè phỡn trên xương máu
chiến sĩ. Trần Dụ Châu đã bị xử bắn như chúng ta đã biết…
Cảm thấy chừng ấy lý lẽ cũng chưa đủ thuyết phục họ,
tôi liền vận dụng đến thơ. Tôi nói: "Một nhà thơ cộng sản người Đức tên là
Bectôn Brếch, từng viết những câu thơ đầy sức giáo huấn:
Một người đấu tranh một giờ là một người tốt. Một
người đấu tranh nhiều ngày là một người tốt hơn
Một người đấu tranh nhiều năm là một người tốt hơn nữa
Một người đấu tranh suốt đời thì rất hiếm…
Thật ra đoạn thơ này còn có câu cuối cùng:
"Những người đó mới thật cần thiết cho chúng
ta", nhưng tôi đã cắt bỏ câu này để cho việc trích dẫn thơ có lợi cho mục
đích của tôi. Tôi nói tiếp: "Như vậy nhà thơ Đoàn Phú Tứ là "một
người tốt hơn nữa", vì ông đã đấu tranh nhiều năm".
- Thơ hay quá! Mọi người trầm trồ, đề nghị anh đọc lại
cho chúng tôi chép.
Tất cả cùng mở sổ tay, rút bút bi. Tôi đọc chậm rãi
từng câu theo kiểu thầy giáo đọc chính tả cho học sinh… Vụ trưởng Tài vụ hỏi:
- Đồng chí nhà thơ cộng sản này là Đông
Đức hay Tây Đức?
- Cộng hòa dân chủ Đức, người đã sáng lập
ra Đoàn kịch nói quốc gia Béc-lanh.
Tôi không ngờ thơ lại có sức mạnh thuyết
phục đến như thế. Vụ trưởng Vụ Chính sách hăng hái nói:
- Đúng, chúng ta cần phải gửi tiền đến để góp phần tổ
chức tang lễ cho nhà thơ, mặc dầu chưa có chính sách về những trường hợp như
thế này. Chúng ta cần phải linh động chính sách.
Vụ trưởng Tài vụ có vẻ nghĩ ngợi lung lắm, ông nói:
"Nhưng ký duyệt những khoản tiền đột xuất như thế này thì phải đồng chí Lê
Quang Đạo, hoặc đồng chí Vũ Mão… Mà bây giờ cả hai đồng chí đều đi vắng…".
Anh Thọ nói: "Nếu chưa kịp gửi tiền thì chúng ta
có thể gửi một vòng hoa đến viếng". Vụ trưởng Tài vụ gật đầu: "Việc
mua vòng hoa thì quyền hạn tôi có thể giảỉ quyết được". Nhìn lên đồng hồ
đã 11 giờ, ông đứng lên: "Các đồng chí cứ ngồi đây nói chuyện. Tôi cho
người đi đặt vòng hoa thì mới kịp".
Vụ trưởng Chính sách băn khoăn: "Không biết nên
đề lên vòng hoa như thế nào… Vì ông Tứ không còn là đại biểu Quốc hội
nữa…". Tôi nói: "Theo tôi có thể đề: "Kính viếng hương hồn nhà
thơ Đoàn Phú Tứ - Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước”. Quốc hội gửi vòng
hoa viếng một nhà thơ nổi tiếng, việc này vừa hợp với đạo lý vừa có ảnh hưởng
chính trị tốt không những chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Mọi người đều tán
thành cách giải quyết của tôi. Anh Thọ gọi điện cho họa sĩ phụ trách
"mi" của báo "Người đại biểu nhân dân", để yêu cầu tạm xếp
công việc "mi", viết ngay một "băng-rôn" vải đỏ chữ vàng
với nội dung trên.
Vụ trưởng chính sách hỏi tôi địa chỉ cua nhà thơ. Tôi
nói: "Nhà ông ở bãi An Dương, hơi khó tìm. Tôi sẽ làm người dẫn đường.
Đúng 1g30 tôi sẽ có mặt ở đây để cùng di với các đồng chí".
Đồng hồ chỉ 12 giờ. Tôi thấy mệt lả và đói mềm người.
Nhưng tôi tính toán: nếu trở về nhà ăn cơm rồi đạp xe đến thì không kịp mất.
Tôi quyết định ở lại đây buổi trưa. Tôi ghé vào phòng thường trực ngồi chơi với
người chỉến hữu cũ của sư đoàn, hút thuốc lào và ôn lại những kỷ niệm chiến
trường để dịu bớt cơn đói.
Đúng 1g30, chiếc Vonga đen choáng lộn mang biển số Văn
phòng Quốc hội, chở một vòng hoa lớn, vắt chéo tấm băng-rôn đỏ nổi bật dòng chữ
nhũ vàng do một họa sĩ trang trí viết: "Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước - Kính viếng hương hồn nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ" chạy về phía
bãi An Dương.
(…) Nhiều năm tháng đã trôi qua. Mộ nhà thơ Đoàn Phú
Tứ đã được các con cải táng… Nhưng lòng tôi sao vẫn ray rứt mãi không yên.
Trong sự việc này, tôi đã phạm hai lần nói dối. Càng luống tuổi, càng sống,
càng chiêm nghiệm tôi càng không tin rằng "mục đích có thể biện hộ cho
phương tiện". Trên khắp thế gian, người ta đã phạm biết bao nhiêu tội ác
chỉ vì cái lập luận đáng sợ này. Những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải trong công
chuyện nhà thơ Đoàn Phú Tứ, có nguồn gốc sâu xa của nó. Năm tôi mười tám tuổi,
là lính trinh sát của Trung đoàn 101. Tôi được cử vào đội bảo vệ một đoàn văn
nghệ sĩ từ vùng tự do Liên khu 4, vào Thừa Thiên đi thực tế chiến trường. Trong
đoàn này có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng: Thanh Tịnh, Phạm Duy, Bửu Tiến…
Đội bảo vệ chúng tôi có 8 người, vừa làm công tác bảo
vệ, vừa dẫn chương trình, trinh sát. Trước khi lên đường nhận công tác, Chính
uỷ Trung đoàn Trần Quý Hai đến gặp chúng tôi, chỉ thị: "Nhân tài là vốn
quý của đất nước. Một đất nước không có nhân tài thì đất nước đó sẽ lụn bại.
Bởi vậy các đồng chí phải bảo vệ văn nghệ sĩ như bảo vệ con ngươi giũa mắt
mình". Chúng tôi đã thi hành chỉ thị của Chính uỷ hết sức nghiêm chỉnh.
Ngày đó chiến trường Thừa Thiên bom đạn đầy trời, giặc càn quét ìiên miên. Suốt
hai tháng, đạn giặc không đụng đến được cái lông chân đoàn văn nghệ sĩ. Đội bảo
vệ chúng tôi hy sinh mất hết hai chiến sĩ, còn tôi bị thương ở cẳng chân, suýt
bị cưa phía trên đầu gối.
Do được ở gần đoàn văn nghệ sĩ, cánh lính bảo vệ chúng
tôi cũng tập tọng bắt chước các anh, làm thơ. Tôi cũng có làm được vài câu nôm
na như sau:
"Nếu các anh bị bốn bề vây súng giặc - Chúng tôi
sẽ xông ra lấy ngực che đạn cho các anh…".
Do đó về sau này, mỗi lần nhìn thấy các anh văn nghệ
sĩ có tên tuổi, có tài năng phải sống khổ cực như nhà thơ Đoàn Phú Tứ, tôi lại
chợt nhớ đến lời dạy của Chính uỷ năm nào… Khốn nỗi, bây giờ muốn che chở, bảo
vệ nhân tài, không còn cần đến ngực, đến máu (thứ chúng tôi có sẵn) như ngày ở
chiến trường. Mà cần tiền - thứ chúng tôi hoàn toàn không có - Bởi vậy, tôi
phải sứ dụng đòn liều mạng, mà trong thâm tâm tôi biết đó là một biện pháp rất
tồi tệ, không thể nào tha thứ được. Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước
hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ - vì nội dung điều nóỉ dối của tôi không phù hợp
với tính cách con người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê
Quang Đạo mà tôi hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước, và với độc giả!
Tôi trông chờ vào sự phán xét dù nghiêm khắc đến đâu.
Tôi hy vọng có như vậy tôi mới được cứu rỗi.
Hồ Tây – 1993
(Nguồn: 4phungquan.net 4 )
---------------
Dân chết vì những loại chức quyền ngu dốt mà hống hách cửa quyền, không có tâm, chỉ vì sợ bị phê bình, sợ mất ghế, rập khuôn máy móc, nguyên tắc cứng đờ! Cũng vì cái TÔI qua lớn.
Trả lờiXóaAi chống lại cái sai trong đảng thì người đó bị coi là chống Đảng, là phải chuốc hậu họa. Nhưng họ (tổ chức - tiếng Phạn là Ăng-ca) không hiểu rằng, chống những kẻ sai trái trong đảng là Xây dưng đảng.
XóaNhớ chú Quán, mới đó mà chú đã ra đi được 18 năm rồi, con vẫn nhớ giong sang sảng của chú đọc bài thơ LỜI MẸ DẶN. Kính chúc chú an nghỉ nơi vĩnh hằng. Cháu- bạn thân của Đỗ Quyên-con gái chú.
Trả lờiXóaChỉ một chút "dối trá" để giúp đỡ một hoàn cảnh vô cùng thương tâm mà "tâm hồn lớn" Phùng Quán trăn trở, day dứt cho đến hết đời.
Trả lờiXóaLòng tự trọng của một nhà thơ, một văn nghệ sĩ thật đáng kính nể. Lời "tự thú" của ông đáng được coi là bài học giáo khoa cho bao nhiêu kẻ vẫn đang từng ngày, từng giờ... bịa đặt, dối trá, ma mãnh, thủ đoạn, ức hiếp, đè nén người dân lương thiện.
Thật ra, chút "dối trá" này của nhà thơ Phùng Quán còn có giá trị nhân văn gấp vạn lần những câu khẩu hiệu suông chúng ta vẫn từng nghe đến nhàm tai thời nay.
Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh nhà thơ Phùng Quán.
Xúc động quá.
Trả lờiXóa