* MINH DIỆN
BVB - Mấy anh
em cùng quê dều ở Đại đội 4, Tiểu đoàn
2, Trung đoàn 239 Công binh, đơn vị đầu
tiên tôi bước chân vào bộ đội, sau hơn bốn
chục năm mới gặp lại nhau. Đại đội trưởng Phạm Lẫm ngày ấy 36 tuổi, giờ đã là một
ông lão ngoài tám mươi. Anh về hưu năm 1985, cấp bậc trung tá, trung đoàn trường, mang trong người bốn vết thương
của ba cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh Khmer đỏ.
Nguyễn Hưu, hồi ấy làm liên lạc, lúc nào cũng đeo bên
hông cái xắc cốt đầy thư, nhanh nhẹn
tháo vát, về hưu năm 1974, cấp bậc trung úy; Đào Văn Viên, cây nhị nổi tiếng, năm 1976 ra quân cấp bậc thượng sỹ,
giờ theo Ruỹnh đi hát xẩm. Bùi Văn Nghĩ, ngày ấy to con, xông xáo nhất đại đội,
được kết nạp đảng trên trận địa, về hưu với cấp bậc đại úy, giờ nhỏ thó, ốm
nheo ốm nhách. Bên cạnh là Hải, Duyệt,
Thăng, Ngọ...nếu tình cờ gặp chưa chắc đã nhận ra nhau. Những người lính trẻ
măng ngày ấy, nay ai nấy đầu hai thứ tóc, trắng nhiều hơn đen, thân hình quắt lại, xơ xác như trái mướp
khô. Thời gian và sự gian khổ hy sinh đời
lính đã vắt kiệt sức lực của chúng tôi, những
hoài bão của thời trai trẻ cũng cạn, nhưng ký ức về chiến tranh thì mỗi ngày một hằn sâu như những
nếp nhăn trên trán mỗi người.
Sau vài ly rượu đắng, trung úy
Nguyễn Hưu nói :
- Vừa qua vợ Lưu Bá Ứơc gặp tôi
hỏi, các bác có còn nhớ nhà em không, bây giờ hài cốt nhà em ở đâu?
Trung tá Phạm Lẫm nói:
- Hôm ấy chiếc ca nô hứng
nguyên một quả bom, tan thành nhiều mảnh, nước sông Hồng chảy xiết cuốn đi. Giữa đêm tối, nhiệm vụ chiến đấu
khẩn trương , không tìm được xác Lưu Bá Ứơc. Mấy chục năm nay tôi vẫn áy
náy trong lòng.
Câu chuyện về người đồng đội hy
sinh chưa tìm được hài cốt làm suốt đêm ấy tôi không chợp mắt được. Hình ảnh bến
phà Mễ Sở và dòng sông Hồng đỏ lựng phù sa cuồn cuộn chảy cứ hiện lên trước mặt
tôi.
Tôi nhớ
ngày đầu xuân 1965, hơn hai chục
anh em trong xã lên đường nhập ngũ, đi từ
Đống Năm, Cầu Bo, qua phà Tân Đệ, sang ga Nam Định lên tàu đi Phú Thọ. Ngổi trên tàu chia nhau miếng ổi đào , miếng
bánh cáy, hỏi nhau không biết vào đơn vị
có được ở chung với nhau không, và bao giờ mới được trở lại quê hương? Đến Phú
Thọ, được biên chế vào Đại đội 4, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 239, do trung úy Phạm
Lẫm, người cùng quê làm đại đội trưởng ,
đứa nào cũng mừng vui.
Đại đội 4 chúng tôi đã có mặt ở các bến sông
trọng điểm như Gián Khuất, Hàm Rồng, Long Đại, Linh Cảm, cùng các đơn vị bạn bắc
cầu phao, chở phà, giữa những ngày máy bay Mỹ đánh phá các tuyến đường giao
thông miền Bắc ác liệt nhất. Từ nơi lửa
đạn ấy, tôi được đi học sỹ quan, sau đó đi học lớp thông viên báo Quân đội nhân dân, cuối
năm 1966, được biên chế về tổ
tuyên văn Ban chính trị trung đoàn.
Tuyên văn có nghĩa là tuyên truyền văn hóa,
nhưng chúng tôi làm đủ thứ việc,
như cắt khẩu hiệu, trang trí hội nghị,viết
giấy khen, viết tin, tổ chức hội diễn văn nghệ quần chúng. Mấy người trong ban
gọi chúng tôi là “Tổ dầu đèn kèn trống”.
Tổ chúng tôi có ba người, do thiếu
úy Đoàn Mô phụ trách. Đoàn Mô quê Nam Định,vừa tốt nghiệp đại học sư
phạm thì vào bộ đội. Mô có khuôn mặt trái xoan như mặt con gái, hai mắt to, miệng có chiếc răng khểnh rất có duyên. Mô hát hay, và thường đóng vai nữ trong các vở kịch, vở chèo tự biên tự diễn của tổ tuyên văn. Thượng
sỹ Huy San người Hà Đông, hơn Đoàn Mô ba tuổi, đã có vợ con , đang dạy
nhạc ở trường cao đẳng sư phạm thì được gọi vào bộ đội. Huy San cao to, mặt dài,
cằm nhọn, mái tóc xoăn lòa xòa trên cái
trán hói rất nghệ sỹ. Mỗi khi Huy San ôm cây đàn Ghita , cái đầu to tướng lại lắc
lư và đôi mắt mơ màng như ám khói. Tôi là em út trong tổ, ngoài nhiệm vụ viết
tin cho báo quân đội, còn tập tọng sáng tác thơ và những vở chèo, vở kịch phục vụ phong trào thi đua của đơn vị.
Ba chúng tôi ở nhà mẹ Cải, gần bờ
đê sông Hồng. Căn nhà ngói ba gian hai trái , mẹ Cải dành hết cho chúng, mẹ và
người con trai ở dưới nhà ngang.
Năm ấy mẹ Cải khoảng bốn mươi tuổi, người nhỏ nhắn mảnh mai, là một
phụ nữ đẹp trong xã, tính tình cởi mở hiền lành. Cậu con trai mẹ tên là Nam Tiến, hai mươi tuổi, dong dỏng
cao, da ngăm đen , khuôn mặt dài , cằm nhọn giống Huy San , nhưng tính lầm lì,
già trước tuổi. Nhìn mẹ Cải đứng bên con trai , người lạ ngỡ chị em. Có lần tôi tò mỏ hỏi vì sao mẹ Cải sống độc thân, và đặt tên con trai là Nam Tiến , mẹ Cải kể:
- Nhà tôi bên kia sông ,vừa trồng rau trên
bãi vừa làm nghề chở đò ngang . Vào một đêm cuối mùa Đông 1945, khuya lơ
khuya lắc , đang nằm trong ổ rơm, nghe tiếng gọi đò. Ai qua sông vào giờ này? Trời đang
mưa dầm gió bấc, rét cắt da cắt thịt. Tôi ngại , bụng bảo dạ nhất định không ra. Nhưng tiếng gọi “ Đò ơi! Đò ơi!” cứ vọng vào. Không cầm lòng được , đành phải khoác áo tơi, xách đèn chai ra bến.
Người gọi đò là anh bộ đội , đầu đội mũ nan , lưng đeo ba lô , ruột tượng gạo vắt
chéo qua vai. Dù giữa đêm khuya khoắt nhưng thấy khách đi đò là một anh bộ đội tôi cảm
thấy yên tâm. Anh bộ đội bảo , mưa rét thế này làm phiền, cô lái đò thông cảm
nhé ! Rồi anh ấy giành chèo đò. Tôi nói, anh có biết chèo không, khéo lật
thuyền làm mồi cho Hà Bá! Anh ấy cười bảo,
cô đừng lo, nhà tôi ngay bên kia , từ nhỏ đã quen sông nước . Vừa chèo đò anh bộ
đội vừa nói chuyện . Anh ấy là Nguyễn
Nam Vĩnh , người xã Hồng Châu, mười tuổi đã
theo cha đi buôn, xuôi ngược trên sông
nước. Nhờ gia đình có của, nên năm mười hai tuổi Vĩnh được cha mẹ gửi lên Hà Nội học
trường Tây. Nhưng học được bảy năm, thì Vĩnh giác ngộ cách mạng, bỏ lên chiến khu . Cách mạng tháng Tám, anh ấy tham gia cướp chính quyền ở Bắc Giang , rồi vào bộ đội. Ngày 23-9- 1945, quân đội Pháp quay lại Nam Bộ, theo lời kêu gọi cùa Hồ Chủ tịch : “Thà chết tự
do hơn sống nô lệ!” anh Vĩnh tình nguyện tham gia đoàn quân Nam Tiến vào Nam chiến đấu...
Chi đội
Bắc Bắc của ông Vĩnh đã hành quân
từ Bắc Giang về Hải Dương ,vào đền Kiếp Bạc dâng hương thề trước anh linh Đức Thánh Trần “ Một
lòng vì nước vì dân, ra đi không chiến
thắng không trở về quê hương!”
Sau cuộc mít tinh uống máu ăn thề , các chiến binh Nam Tiến được
nghỉ phép mười ngày, hẹn hội quân ở Nam Định lên tàu vào Nam.
Anh Nguyễn Nam Vĩnh đã cuốc
bộ một mạch gần 50 cây số,từ Kiếp Bạc về
Mễ Sở, và trên chuyến đò khuya đêm ấy ,
anh tình cờ gặp cô lái đò xinh đẹp
, nên duyên vợ chồng.
Mẹ Cải kể:
-Cưới được ba ngày đã phải chia ly. Tôi tiễn anh Vĩnh vào tận
thành phố Nam Định. Bấy giờ
không khí kháng chiến sôi sục lắm.
Ý chí chiến đấu giữ nền độc lập tự do vừa mới dành được như
sôi sục trong lòng mọi người. Khắp thành
Nam đỏ rực cờ đỏ sao vàng , bài Tiến
quân ca , và lời kêu gọi kháng chiến của Hồ Chủ tịch vang trên loa phóng thanh. Bước chân đoàn quân Nam
Tiến rầm rập các ngả đường...
Trong bầu không khí hào hùng ấy,
ông Vĩnh tặng vợ cuốn sổ tay, có dòng chữ ông viết nắn nót bằng máu mình : “ Thanh niên được cống hiến cao nhất
là ra tiền tuyến, đó là phần thưởng cao quý mà Tổ quốc dành cho các cháu!” Đó là lời Hổ Chủ tịch trong bức điện gửi cho
các chiến sỹ Nam Tiến. Trước khi con tàu
căng tấm băng rôn “ Quyết tử cho Tổ Quốc độc lập tự do!” chuyển bánh, ông Vinh nắm tay vợ dặn , ở lại dốc
lòng lo công tác hậu phương, và nếu sinh con trai thì đặt tên là Nguyễn Nam Tiến,
để nối tiếp truyền thống cha anh.
Đơn vị
ông Vinh hành quân vào tận Khánh Hòa, Nha Trang, miền Nam Trung bộ, cùng các
đơn vị Nam tiến dưới sự chỉ huy của tướng
Nguyễn Sơn chiến đấu ngăn bước tiến của quân viễn chinh Pháp. Cuộc kháng chiến mỗi ngày một lan rộng và quyết
liệt, hơn một ngàn cán bộ chiến sỹ trong chi đội Bắc Băc, hầu hết hy sinh, bỏ xác ở vùng đất Nam trung bộ, những người sống sót
phiêu dạt đi các mặt trận từ Bình Trị Thiên đến tận đồng bằng sông Cửu Long.
Sau ngày chia tay chồng, mẹ Cải trở về, vẫn
trồng rau trồng bắp trên bãi và chở đò đưa khách qua Sông Hồng. Mẹ sinh
con trai, theo lời chồng dặn , đặt tên là Nguyễn Nam Tiến. Mẹ viết thư báo tin vui
cho chồng , nhưng thư gửi đi mất biệt tăm.
Đêm đêm mẹ thao thức lắng nghe một
tiếng gọi đò quen . Nhiều đêm mẹ xách ngọn
đèn chai ra bến , xăm soi con đò , hy vọng vu vơ chồng về núp trong đó đùa trêu mình. Rồi mẹ đứng mãi đến tận sáng
trên bờ sông, đăm đắm nhìn những giải sương mờ như khói trên sóng nước. Mẹ cầu Trời
khấn Phật chồng trở về, nếu chẳng may hy sinh
ở đâu, thì hình hài cũng theo dòng nước trôi dạt về đây với vợ con!
Năm 1955, một người bạn của ông
Vĩnh ở chi đội Nam Tiến Bắc Bắc, tập kết, tìm về bến Mễ Sở, trao tận tay bà Cải
chiếc áo trấn thủ thấm
máu ông Vĩnh, và lá thư ông viết trước lúc hy sinh, vẻn vẹn hai dòng “ Anh ngã xuống trên chiến trường Bình Trị
Thiên khói lửa , xứng đáng với lời thề trước lúc ra đi!” Mẹ Cải ôm chiếc áo trấn
thủ chồng để lại gục xuống bất tỉnh .
Hai mươi tuổi mẹ Cải đã phải góa bụa, một mình chăm sóc bố mẹ hai bên và
con thơ. Hai mươi năm đã trôi qua, cha mẹ
hai bên đều đã mất, con đã lớn khôn, mẹ Cải vẫn trọn lòng chung thủy với người lính Nam Tiến,mà duyên số đã dành cho mẹ từ một chuyến đò khuya .
Tôi lấy bối cảnh trung đoàn đang bắc cầu, chở
phà trên bến Mễ Sở và nguyên mẫu câu
chuyện của mẹ Cải, viết vở kịch “ Tiếng
gọi đò khuya”. Đoàn Mô đóng vai mẹ Cải,
Huy San đóng vai ông Vĩnh, và một số hạt
nhân văn nghệ ở các tiểu đoàn được gọi lên đóng các vai khác. Một trong số đó là Lưu Bá Ươc , chiến sỹ lái
ca nô đại đội 4, tiểu đoàn 2. Ươc bằng tuổi tôi, cùng tốt nghiệp cấp ba và cùng nhập ngũ một ngày
, người dong dỏng cao, khuôn mặt đầy đặn, biết thổi sáo và có giọng hát khá
hay, đóng vai chiến sỹ Nam Tiến, bạn
thân của ông Vĩnh.
Ba gian nhà của mẹ Cải trở thành
sân khấu , lỉnh kỉnh kèn trống,đèn đóm,
bơi chèo , súng ống. Chúng tôi ráo riết tập luyện vở kịch “Tiếng gọi đò
khuya” để chuẩn bị hội diễn văn nghệ binh chủng nhân dịp 22-12. Trong vở diễn ,
có cảnh ông Vĩnh và người bạn song ca bài hát “ Bình trị Thiên khói lửa” của nhạc
sỹ Nguyễn Văn Thương, và cảnh mẹ Cải viết thư cho chồng . Huy Sam ôm cây đàn Ghita, đầu lắc lư, mắt mơ
màng , Lưu Bá Ứơc ngả người vào vai Huy San, cất tiếng hát:
Hướng về Nam !
Ai đã qua sông Hương,
từng nương Thiên Mụ.
Từng ngụ Đập Đá, Văn Xá,Truồi Nong.
Hướng vế Nam !
Ai đã vô Đông Hà, đã
qua Ngô Xá.
Đã đi Bích La,Thủy
Ba, Triệu Phong.
Hướng về Nam !
Ai đã qua Đèo Ngang, Đã sang Ba Rền
Mến dòng sông
Gianh,biết danh lũy Thầy
Giờ đây lửa cháy ngút
trời , máu nhuộm đồng xanh...
Ôi đau thương điêu
tàn...
Đoàn Mô ngừng tay đan áo, soi lá thư trên ngọn đèn chai treo trên vách , rưng rưng ngâm bài thơ “ Ký Phu” cùa của Trần Ngọc Lan:
Phu trú biên quan thiếp tại Ngô,
Tây phong xuy thiếp thiếp
ưu phu
Nhất hàng thư tín thiên hàng
lệ
Hàn đáo quân biên y đáo
vô?
Ngồi
xem cảnh đó, mẹ Cải khóc. Mẹ bảo từ khi
ông Vĩnh vào Nam, đến khi được tin ông hy sinh, đúng mười năm, mẹ đã viết hàng
trăm lá thư gửi cho chồng mà không nhận được một lá thư hồi âm, cứ mỗi lần ngồi
viết thư mẹ lại khóc.
Vào một buổi chiều, chúng tôi
đang tập vở kịch thì máy bay Mỹ ném bom bến Mễ Sở. Hết tốp này đến tốp khác. Hết
đợt này đến đợt khác. Sau khi ném bom phá, bom bi, chúng rải bom từ trường. Chúng
tôi được lệnh ra bến để cùng đơn vị làm nhiệm vụ khắc phục hậu quả trận bom , tiếp
tục chở phà đưa xe pháo qua sông vào bảo vệ thu đô Hà Nội.
Theo báo cáo của trạm quan sát,
máy bay Mỹ thả 22 quả bom từ trường xuống
lòng sông. Đó là loại bom nổ châm, có hệ
thống kíp điện tử rất nhạy, phát nổ khi
có dòng từ trường lướt qua. Gặp bom từ trường trên cạn, lính công binh chúng
tôi phải dùng những chiếc xẻng được làm bằng chính những cánh bom tư trường để
đào bới lên, rồi tháo kíp. Chỉ cần sơ ý đề quên một mẩu sắt thép nhỏ như chiếc đinh trong người cũng có khi gây kích thích bom nổ chết oan. Bom từ trường lặn dưới đáy sông,
phải dùng sợi dây cước, buộc những thỏi
thép hoặc nam châm thả xuống, rồi ngồi
trong hầm hai bên bờ , kéo qua kéo lại
nhử cho bom nổ. Mỗi quả bom nổ làm đứt
dây, phải làm lại từ đầu. Hơn hai chục quả bom từ trường dưới lòng sông bến Mễ
Sở , biết mấy ngày mới rà phá xong, khi
những đoàn xe kéo pháo phòng không đang chờ phà qua sông vào bảo vệ bầu trời Hà
Nội?
Chỉ có cách duy nhất là dùng ca nô mở hết tốc
lực chạy qua chạy lại trên mặt nước, kích nổ bom từ trường. Ở bến Linh Cảm,
Long Đại chúng tôi đã làm như vậy. Nhưng
đó là một việc làm vô cùng nguy hiềm, vì
người chiến sỹ lái ca nô phải cưỡi lên bom . Ở Long Đại, Linh Cảm mấy chiến sỹ
lái ca nô đã hy sinh khi làm nhiệm vụ đó.
Lênh trên bằng mọi giá phải thông
bến thông phà đưa xe pháo qua sông trong đêm. Đại đội trưởng Phạm Lẫm đầu trần,chân
đất , đứng giữa bến phà lở lói, ngập ngụa
gỗ ván, khét lẹt khói bom, giọng khản đặc hỏi những chiến sỹ lái ca nô:
- Đồng chí nào xung phong phá bom
từ trường?
Không khí như chết lặng đi một
lát.Rồi Lê Bá Ứơc bước ra:
- Tôi xung phong!
Đại đội trưởng Phạm Lẫm bước tới,
nắm tay Ứơc :
- Cẩn thận em nhé!
Trong chiến tranh người lính không
chần trừ trước cái chết và người chỉ huy hiểu người lính như chính bản thân
mình. Người lính lúc nào cũng đinh ninh rằng được hy sinh cho Tổ quốc là một niềm
vinh dự, và phía trước phía sau không một
ai phản bội mình.
Chiều hôm ấy, dưới lá cờ cắm trên bến, toàn đại đội đứng nghiêm
làm lễ truy điệu sống Lưu Bá Ứơc. Lưu Bá
Ứơc được tôn vinh như một người anh hùng,và nhiều chiến sỹ khác sẵn sàng tiếp
theo hành động cùa Lưu Bá Ứơc! Tôi thầm cầu mong
Lưu Bá Ứơc chiến thắng trở về, và lễ truy điệu sẽ trở thành một kỷ niệm
đáng nhớ trong cuộc đời anh.
Nhưng điều kỳ diệu ấy không sảy
ra. Qủa bom cuối cùng trên bến Mễ Sở chiều hôm ấy đã cướp mất người đồng hương,
đồng đội vừa bước sang tuổi hai lăm của chúng tôi.
Nội dung vở kịch “Tiếng gọi đò khuya” được thêm một tình huống vào bối cảnh hiện tại,
đó là sự hy sinh của Lưu Bá Ứơc. Người thay thế Lưu Bá Ứơc đóng vai ông
Vĩnh, ngâm bài thơ tôi viết về người chiến
sỹ nối bước cha anh trên bến sông xưa.
Bom từ trường,
Mỹ thả giữa
dòng,
Dấu mình đáy nước,
Ngăn những
chuyến phà chở pháo qua sông.
Lệnh của
trên
Phải phá hết
bom
Phà nối bến
Chở pháo
vào trận địa!
Đại đội trưởng
hỏi:
- Ai xung
phong?
Giữa hàng
quân, Lưu Bá Ứơc bước lên!
Lễ truy điệu
một người còn sống,
Trên bến
sông ngùn ngụt khói bom!
Lưu Bá Ứơc đứng dưới cờ Tổ Quốc,
Vẫy tay chào
đồng đội, đồng hương!
Chiếc ca
nô Ứơc lái,
Như con
cá kình lướt sóng trên sông!
Những quả
bom phát nổ,
Những cột nước vọt cao,đỏ rực Sông Hồng!
Khó mịt
mù,
Tiếng
reo, thiết thét:
Ứơc ơi!
Cố lên !
Đừng chết!
Hai mươi quả
bom Ứơc đã phá rồi,
Dưới đáy
sông còn một quả nữa thôi!
Một tiếng nổ ù tai,
Cột nước
ngất trời,
Và tất
cà chìm vào tiếng sóng!
Trên mặt
nước hàng trăm mảnh ván,
Cùng bạn cuồn cuộn theo dòng!
Đêm ập
xuống con phà cập bến,
Những
chiếc xe kéo pháo lên phà
Gió lạnh
buốt lá ngụy trang run rẩy,
Xác bạn
tôi trôi mỗi lúc một xa!
Ứơc ơi hãy trôi về đất mẹ,
Về Đống
Năm, Cầu Vật, Cầu Bo...
Mùa này ổi đào đang chín rộ,
Ngọt
thơm như bánh cáy quê nhà!
Tôi đứng
trên mũi phà gọi Ứơc,
Nước mắt
tôi rơi xuống dòng sông!
Đêm xử
sở ngập tràn binh lửa
Máu Việt
Nam
nhuộm đỏ Sông Hồng.
Vở kịch của chúng tôi không được
duyệt đi hội diễn, vì trường ban chính
trị Vũ Văn Kỳ, cho rằng thiếu ý chí chiến
đấu. Ông nói: “ Tại sao lại nhất hàng thư tín thiên hàng lệ? Tại sao đang làm
nhiệm vụ chở phà lại khóc ? Tại sao lại than thở , tiếc máu xương nhuộm đỏ Sông
Hồng? Người chiến sỹ cách mạng phải rắn
như thép vũng như đồng, vì độc lập tự do
không tiếc máu xương! Tại sao lại nhỏ
nhen và bi lụy như vậy? Dẹp đi, viết vở
khác!”
Tôi chưa kịp viết vở kịch khác theo lệnh trưởng ban, thì được điều
lên Bất Bạt , Sơn Tây, bổ sung vào đơn vị đi B2 ,thuộc đoàn 1506. Gần chục năm ở miền Đông Nam bộ, tôi vẫn
không quên Mễ Sờ và những người thân như mẹ Cải, Đoàn Mô, Huy San, đặc biệt là
Lưu Bá Ứơc . * * *
Năm 1979, tôi quay lại Mễ Sở, tìm vể nhà mẹ Cải.
Anh Nam Tiến con trai mẹ kể, sau khi tôi đi một
thời gian, thì mẹ mất. Hôm ấy mẹ ra bãi trồng rau, không may cuốc phải quả bom bi, xác mẹ không còn nguyên vẹn.
Sau khi mẹ Cải chết, anh Tiến tình nguyện vào bộ đội, chiến đấu ở mặt trận Quảng
Trị, nơi cha anh chiến đấu thời chống Pháp. Anh bị thương ra Bắc điều trị rồi
phục viên năm 1972. Ngôi nhà mẹ Cải bịt bão lụt hư hỏng, anh Tiến
cùng vợ và hai đứa con dời vào trong xóm .
Nhìn căn nhà tranh vách đất trống
huếch trống hoác, tôi biết gia cảnh anh
Tiến nghèo , nhưng không ngờ anh phải làm cái nghề quá vất vả: Mỗi buổi sáng
anh dậy từ ba giờ, đạp xe lên Hà Nội, móc hót bốn thùng phân tươi ở các cầu
tiêu công cộng, chở về ủ ở bờ sông để bán cho người trồng rau, kiếm tiền nuôi
con.
Anh tâm sự với tôi muốn đi tìm
hài cốt cha về mai táng bên mộ mẹ nhưng không có tiền tàu xe và các chi phí
khác. Tôi nhìn anh Tiến day dứt quá
nhưng không làm gì được, những người lính xương máu có sẵn ,nhưng tiền bạc
không có để giúp nhau .
Tôi chưa có dịp trở lại bến Mễ Sở
sau ngày gặp lại bạn bè và sau đêm trăn trở ấy. Không biết bây giờ anh Tiến ra
sao và có còn con đò trên bến cũ để một đêm nào đó tôi trở về gọi hai tiếng “Đò
ơi!” như ông Vĩnh gọi năm nào! Bây giờ chỉ vang lên tiếng gọi "Đời ơi!", "Trời ơi!"; những tiếng oán trách kẻ quyền hành, tham lam mà sống vô cảm đã coi thường mạng người, cố tình quên quá khứ đau thương đầy máu và nước mắt của dân tộc.
M.D
-----------------
Bay gio bon quan to quyen cao no chi nghi den tien thoi bac MD va bac BVB oi.Bon no quen qua khu quen on nhung nguoi hy sinh xuong mau .Bon no dau phai la con nguoi va no chang them lam con nguoi .Boi con nguoi phai suy nghi truoc sau nhu cac bac met lam.
Trả lờiXóaCâu chuyện thật cảm động quá, mà cũng quá buồn, đọc xong chỉ muốn khóc; có thể dựng thành phim. Đúng là Bây giờ chỉ vang lên tiếng gọi "Đời ơi!", "Trời ơi!"; những tiếng oán trách kẻ quyền hành, tham lam mà sống vô cảm đã coi thường mạng người, cố tình quên quá khứ đau thương đầy máu và nước mắt của dân tộc.
Trả lờiXóaTôi biết rằng ông TT 3X cũng có một thời kỳ khói lửa như vậy. Nhưng thật đáng tiếc, ngày nay ông ta đã thực sự thoái hóa biến chất hoàn toàn.
Nếu ông ta có còn được vài % như những ngừoi lính trong câu chuyện này thì có lẽ đất nước ta đã đổi khác. Nhưng đó chỉ là hy vọng hão huyền, ông ta ngoài mặt thì kết luận Vụ án Đoàn Văn Vươn (cũng là một cựu chiến binh như ông ta) là do chính quyền làm sai pháp luật (cưỡng chế sai), nhưng bên trong thì chỉ đạo cho thuộc hạ kết án rất nặng những người cựu chiến binh giữ đất.
Có lẽ đời sau sẽ có những người viết lại nhưng câu chuyện hiện nay, giống như bác MD viết những càu chuyện cách đây 1 đời người.
Không ai biết trước được điều gì phải không các bác.
Trả lờiXóaCho nên đừng nghe hứa hẹn, hãy đấu tranh cho ngày hôm nay.
Tôi là Lê Văn Khánh, ( Quỳnh Phụ, Thái Bình )là một người lính trong đơn vị C4,D2,E239. Tôi biết đồng chí Lưu Bá Ứơc lúc nhận nhiệm vụ phá bom và anh dũng hy sinh ở bến Mễ Sở là tiểu đội phó , trung đội ca nô do đồng chí Nguyễn Văn Lộc quê Thanh Hóa phụ trách.Hành động của đồng chí Lưu Bá Ứơc đúng như anh MD đã viết, lẽ ra phải được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang, nhưng đến nay vẫn chưa được tuyên dương.Năm kia nhóm CCB C4, D2, E239 chúng tôi đã ký tên đề nghị Bộ tư lệnh Cong Binh giài quyết trường hợp đồng chí Lưu Bá Ứơc.Cảm ơn Minh Diện và Bùi Văn Bồng không quên đồng đội cũ.
Trả lờiXóaMột nhà văn Nga viết:" Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn váo anh bằng đại bác!"
Trả lờiXóaHiện nay nhiều kẻ đang bắn vào quá khư bằng đại bác, tương lai sẽ bắn vào chúng bằng thứ vũ khí gì? Tôi đồng ý với bác MD, là nếu quên quá khứ nghĩa là quên nòi giống tổ tiên, quên truyền thống của dân tộc mình, như vậy là không biết suy nghĩ, mà không biết suy nghĩ thì đích thị không phải là một con người!Qúa chuẩn!Sự khinh bỉ còn hơn mọi thứ vũ khí.
Danh hiệu anh hùng cho liệt sĩ Lưu Bá Ước cũng vẫn phải đòi, nhưng khó khăn quá thì cũng không cần phải buồn, vì Anh đã là người anh hùng trong lòng Minh Diện, Lê Văn Khánh, Bùi Văn Bồng... của toàn thể những người có lương tri rồi.
Trả lờiXóaBai viet qua hay va cung that xot xa!
Trả lờiXóaĐồng chí Lưu Bá Ươc hy sinh trên bến Mễ Sở tháng 7 -1967, hôm đó còn một đồng chí đại đội phó C2 D1 E239 hy sinh.Tôi lúc đó là chiến sỹ trung đội mố do trung đội trưởng Doanh chỉ huy. Rất mong các đồng chí ở Bộ tư lệnh công binh xác minh làm đề nghị tuyên dương anh hùng cho các đồng chí đó (Hòa Hải, Quỳnh Phụ, Thái Binh)
Trả lờiXóaTôi thường đọc bài của nhà báo Minh Diện thấy viết đầy "chất lữa" và giàu tính nhân văn. Cám ơn 2 nhà báo Minh Diện và Bùi Văn Bồng đã tạo ra mối đồng cảm.
Trả lờiXóa