Nếu chuyến
thăm Mỹ gần đây của ông Tập Cận Bình làm nổi bật quan hệ Trung-Mỹ đang xấu đi,
và chuyến thăm Việt Nam sắp tới của ông làm rõ hơn quan hệ Trung-Việt đang căng
thẳng, thì chuyến thăm Việt Nam vào cuối năm nay của ông Barack Obama sẽ làm
nổi bật quan hệ đối tác Mỹ-Việt đang xích lại gần nhau. Dù tốt lên hay xấu đi,
thì chuyển động trong quan hệ tay ba này đang định hình lại bức tranh địa chính
trị tại Biển Đông, và tác động đến quá trình cởi mở chính trị tại Việt Nam. Bởi
vì sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc đang đe dọa an ninh khu vực Đông
Á, nên Nhật Bản và các nước khác buộc phải chạy đua vũ trang và liên kết chặt
chẽ hơn với Mỹ, trong một trò chơi quyền lực đầy nguy hiểm.
Biển Đông
không của riêng ai
Trước chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình, có một số
diễn biến đáng lưu ý. Trong khi thái độ của Washington muốn hòa hoãn (để tránh đối đầu)
thì thái độ của Bắc Kinh lại càng cứng rắn. Trung Quốc không hề giảm nhịp độ
xây dựng sân bay và hạ tầng quân sự trên các đảo nhân tạo tại Biển Đông, bất
chấp phản đối của Mỹ và các nước khác. Những hình ảnh vệ tinh mà CSIS cung cấp
kịp thời (trong khi ông Tập thăm Mỹ) đã chứng minh rõ.
Trước đó, Bắc Kinh còn cho 5 tàu chiến đến ngoài khơi Alaska (nơi tổng thống
Obama đang đến thăm) để thách thức và thử gân ông Obama. Máy bay chiến đấu của
Trung Quốc đã bay ngang chặn đường máy bay trinh sát của Mỹ trên không phận
biển Hoa Đông. Cả hai lần, Nhà Trắng đã lờ đi không muốn làm to chuyện. Cho đến
gần đây, Nhà Trắng vẫn chưa cho Bộ Quốc Phòng điều tàu chiến đến tuần tiễu (để
khẳng định quyền tự do hàng hải) trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các đảo
nhân tạo mà Trung Quốc đang xây hạ tầng quân sự, vì ông Obama không muốn gây ra
sự cố nào trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình.
Nhưng thái độ hòa hoãn của Washington có thể phản tác dụng. Thứ nhất,
nó có thể làm cho đồng minh và bạn bè hoang mang, mất lòng tin vào Mỹ. Lãnh đạo
Hà Nội đã bị ám ảnh bởi mối lo Trung Quốc và Mỹ có thể “đi đêm” thỏa thuận ngầm
với nhau sau lưng Việt Nam. (Điều này đã từng xảy ra trong quá khứ). Thứ hai,
nó có thể làm cho Bắc Kinh ngộ nhận rằng ông Obama mềm yếu không dám hành động
(vì sắp hết nhiệm kỳ), nên Bắc Kinh càng tranh thủ cơ hội để lấn sân và biến
những gì còn đang tranh chấp thành chuyện đã rồi.
Vì vậy, tại buổi họp báo chung ở Nhà Trắng (25/9/2015)
trước mặt tổng thống Obama và giới truyền thông quốc tế, ông Tập không ngần
ngại lớn tiếng khẳng định“Các quần đảo ở Nam Hải từ thời cổ đại là lãnh thổ của
Trung Hoa”. Thái độ ngang ngược bất chấp luật pháp này tự mâu thuẫn với bài
diễn văn ông Tập đọc tại LHQ ngay sau đó, với những lời lẽ hoa mỹ, “Những nước
lớn, mạnh, giàu không nên hiếp đáp các nước nhỏ, nghèo và yếu”.
Bà Clinton nói không oan rằng ông Tập “đạo đức giả” và
“không biết xấu hổ” (shameless) khi đề cập đến vấn đề nữ quyền. Về vấn đề Biển
Đông cũng như vậy. Thái độ hai mặt (nói một đằng làm một nẻo) là một "đặc
sản Trung Hoa".
Trong quan hệ với Việt Nam , Trung Quốc luôn ngạo mạn và
bắt nạt (như thiên triều đối với chư hầu). Ví dụ, gần đây Bắc Kinh ngầm dọa Hà
Nội là nếu không thôi chỉ trích Trung Quốc xây đảo nhân tạo tại Biển Đông, thì
ông Tập Cận Bình có thể bỏ chuyến đi thăm Việt Nam vào tháng này (mặc dù họ
biết nếu bỏ sẽ bất lợi cho Trung Quốc). Họ còn nói nhỏ với lãnh đạo Việt Nam là
họ không muốn ngoại trưởng Phạm Bình Minh được vào Bộ Chính Trị.
Chính thái độ và cách hành xử đó của Trung Quốc đang
xô đẩy Việt Nam càng gần hơn với Mỹ. Dường như Trung Quốc vẫn chưa học
được bài học Miến Điện. Có thể nói quá trình “Miến Điện hóa” (Myanmarization)
đang diễn ra trong quan hệ Trung-Việt. Trên thực tế, quá trình “Thoát Trung” đã
được đẩy mạnh kể từ khi Trung Quốc đem giàn khoan HD-981 vào Biển Đông, gây sốc
và làm vỡ mộng cả những người thân Trung Quốc trong lãnh đạo Hà Nội. Đó là một
bước ngoặt lớn, như một “hệ quả không định trước” (unintended consequence).
Thoát Trung
như thế nào
Muốn “Thoát Trung” thì trước hết phải thoát ra khỏi
“cái bẫy ý thức hệ” (ideological trap) đã trói buộc số phận Việt Nam
với Trung Quốc mấy thập kỷ nay (đặc biệt là sau Thỏa thuận Thành Đô, 1990);
phải thoát ra khỏi “cái bẫy lệ thuộc kinh tế” (economic dependency trap). Muốn
“Thoát Trung” về kinh tế thì tự mình phải mạnh lên bằng cách thay đổi thể chế,
và liên kết kinh tế với Mỹ-Nhật (thông qua sân chơi mới TPP và Tầm nhìn Đông Á).
Nếu Việt Nam tiếp tục đi với Trung Quốc thì phải lệ thuộc
và nghe theo Trung Quốc, không được chơi với Mỹ và Phương Tây (họ dùng chiêu
bài “diễn biến hòa bình” để dọa); không được dân chủ hóa mà phải duy trì chế độ
độc tài, độc đảng (giống như Trung Quốc); và không được dùng ASEAN làm đối
trọng với Trung Quốc tại Biển Đông…
Nếu đi với Mỹ thì Việt Nam vẫn có thể chơi với Trung
Quốc (nhưng bình đẳng và độc lập hơn); Việt Nam không cần phải thay đổi chế độ
(nhưng phải dân chủ hóa); Việt Nam sẽ có vai trò và lợi ích lớn hơn trong ASEAN
và Đông Á (với sân chơi mới TPP). Đi với Mỹ không có nghĩa là để chống Trung
Quốc, mà chỉ để “tái cân bằng” một quan hệ “mất cân bằng”.
Muốn hay không, quá trình này đang diễn ra rồi. Hà Nội
không có nhiều sự lựa chọn. Cánh của cơ hội có thể mở ra, có thể khép lại. Thời
cơ và thời điểm là rất hệ trọng. Hà Nội đã từng đánh mất những thời cơ vàng vào
những thời điểm hệ trọng đối với vận mạng quốc gia. Từ nay đến cuối năm 2015 là
một thời cơ và thời điểm như vậy. Liệu lịch sử có lặp lại hay không, và Việt Nam có
đánh mất cơ hội một lần nữa hay không?
Tại lề Đại Hội đồng LHQ ở New York (28/9/2015) chủ
tịch Trương Tấn Sang đã lên tiếng đáp lại tuyên bố ngang ngược của ông Tập Cận
Bình, khẳng định hành động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông là vi
phạm luật pháp quốc tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và an toàn hàng
hải. Đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực mới của lãnh đạo Hà Nội, ngay sau
khi ông Obama gặp ông Tập Cận Bình (25/9/2015). Có lẽ lãnh đạo Hà Nội đã thở
phào vì thấy Mỹ đã không “đi đêm” với Trung Quốc (như Hà Nội vẫn lo sợ).
Tiếp theo chuyến thăm Mỹ chính thức của chủ tịch
Trương Tấn Sang (24-26/7/2013) và của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
(6-10/7/2015), có lẽ chuyến thăm Mỹ lần này của ông Tập Cận Bình đã góp phần
thúc đẩy Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Điều đáng nói là không phải chỉ
có phái cải cách, mà cả phái bảo thủ cũng đang chuyển thái độ. Trong bối cảnh
hiện nay, hãy ủng hộ xu hướng nào đỡ xấu hơn cho đất nước. Đây là lúc các bên
nên dẹp bớt ân oán để hợp tác, từng bước thay đổi thực trạng, đặt lợi ích dân
tộc lên trên lợi ích cá nhân và phe nhóm, trước nguy cơ mất hết chủ quyền biển
đảo và Bắc thuộc.
Hình như lãnh đạo Hà Nội tự tin hơn, đã quyết định họp
Hội nghị Trung Ương 12 sớm hơn dự kiến, để bàn về nhân sự cho Đại hội (mà không
chờ ông Tập Cận Bình sang thăm). Tuy quyết định cuối cùng về 4 vị trí cao nhất
(còn gọi là “Tứ Trụ”) vẫn chưa ngã ngủ, phải chờ đến Hội nghị Trung Ương chót
(phút 89), nhưng dù dàn xếp thế nào thì xu hướng đã khá rõ. So sánh thực lực sẽ
thấy dù có phải thỏa hiệp, thủ tướng sẽ thâu tóm thực quyền. Tuy còn nhiều đồn
đại, hỏa mù, hay bất ngờ vào phút chót, nhưng xu hướng này khó lòng đảo ngược.
Một dấu hiệu mới là chỉ vài ngày sau khi kết thúc cuộc
gặp Tập Cận Bình và Obama, báo chí nhà nước đã đưa tin Tòa án nhân dân Hà Nội
công khai xét xử vụ một nhà báo bị truy tố về tội danh “làm gián điệp” (có liên
quan đến cơ quan tình báo Trung Quốc). Tuy còn những dấu hiệu khác, nhưng đó là
một dấu hiệu rõ ràng nhất (mà trước đây không thể có).
Đồng sàng dị
mộng
Trên thực tế, chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình có
ba mục tiêu chính, mục tiêu nào cũng quan trọng, nhưng kết quả có thể khác
nhau. Thứ nhất là đến Seattle
nơi ông Tập gặp 15 CEO của các công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ (Business
Summit). Thứ hai là đến Washington
DC nơi ông Tập gặp tổng thống
Obama (Political Summit). Thứ ba là đến New
York nơi ông Tập phát biểu tại Đại Hội đồng LHQ (UN
Summit).
Đáng lưu ý là chương trình tại Seattle do Paulson Institute bố trí. Ông Hank
Paulson là cựu chủ tịch Goldman Sachs trước khi làm bộ trưởng tài chính (thời
chính quyền Bush). Ông Paulson và các đồng nghiệp phố Wall đã từng giúp Trung
Quốc cải tổ hệ thống ngân hàng (như mua 10% Bank of China và giúp niêm yết trên
sàn chứng khoán HK). Có thể nói Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ
hai thế giới là nhờ một phần vào sự hợp tác và tiếp tay của giới kinh doanh Mỹ.
Nay muốn tháo gỡ khó khăn kinh tế, hai bên tiếp tục phụ thuộc lẫn nhau (dù muốn
hay không) như một “cái bẫy” kinh tế (co-dependancy trap).
Hợp tác Trung-Mỹ là một "đám cưới tiện lợi"
(marriage of convenience) chứ không phải do tình yêu (vì hai chế độ rất khác
biệt), vì vậy nó không thể lâu bền. Người Mỹ hy vọng cứ làm ăn với nhau (theo
lộ trình “constructive engagement”) rồi người Trung Quốc sẽ dần dần thay đổi
(như kinh nghiệm với người Nhật). Nhưng đến nay người Mỹ bắt đầu thất
vọng, vì không hiểu được người Trung Quốc (lại càng không hiểu được ông Tập Cận
Bình là ai).
Chính người Mỹ đã hợp tác đắc lực giúp ông Tập Cận
Bình đối phó với các đối thủ chính trị như Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang (được
Giang Trạch Dân hậu thuẫn), qua vụ Vương Lập Quân chạy vào lãnh sự quán Mỹ tại
Thành Đô (7/2/2012), đem theo nhiều bí mật quốc gia. Người Mỹ đã cộng tác với
người Trung Quốc không phải chỉ về kinh tế, mà cả an ninh chính trị. Ông Tập
không thể thoát hiểm, để mạnh tay “đả hổ diệt ruồi” như vậy, nếu không có người
Mỹ hỗ trợ. Thế mà hai bên vẫn không hiểu nhau thì đúng là “đồng sàng dị mộng”.
Người ta ví ông Obama và Tập Cận Bình đối thoại với
nhau như hai người máy được vận hành bởi hai hệ điều hành khác hẳn nhau. Đến
bây giờ người Mỹ mới nhận ra điều này có lẽ là quá muộn và hơi ngây thơ. Ngay
từ năm 1995, ông Nixon trước khi qua đời đã thừa nhận một sự thật trần trụi,
“Có lẽ chúng ta đã tạo ra một con quái vật Frankenstein”.
Tuy chủ trương “tham dự có tinh thần xây dựng”
(constructive engagement) vẫn còn đất sống, nhưng nó bị chỉ trích ngày càng
nhiều và đang được thay thế bằng chủ trương “xoay trục sang Châu Á” hay “tái
cân bằng chiến lược” (strategic rebalancing), với nội hàm là “ngăn chặn Trung
Quốc” (containing China). Nhưng vì Mỹ và Trung Quốc bị mắc kẹt trong “cái bẫy”
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, nên quan hệ Trung-Mỹ đầy mâu thuẫn và nan giải.
Cuộc hôn nhân vụ lợi có thể dẫn đến kết cục đổ vỡ một cách đau đớn. Điều đáng
chú ý là khi hai con voi làm tình hay đánh nhau, những kẻ yếu hơn bên cạnh phải
rất thận trọng.
Xu hướng đang diễn ra ở cả Mỹ và Trung Quốc là người
ta chỉ chú ý đến những yếu tố tiêu cực chứ không còn quan tâm đến những yếu tố
tích cực trong quan hệ hai nước. Đà suy thoái trong quan hệ đối tác giữa hai
nước lớn này rất đáng lo ngại, nhưng những bế tắc không được tháo gỡ trong dịp
gặp cấp cao vừa qua. Trong chính quyền cũng như trong quốc hội, người ta đang
tìm lý do để trả đũa Trung Quốc, trong vấn đề thâm hụt cán cân thương mại (mỗi
ngày một tỷ USD) cũng như vấn đề tấn công mạng (cyberhacking).
Không biết ông Kissinger có tính trước được hệ quả này
hay không, nhưng cái bóng dài của ông ta vẫn còn phủ lên chính sách Trung Quốc
của Mỹ. Mỗi khi đề cập đến Trung Quốc, không thể thiếu được ông Kissinger (như
là “bố già”). Điều này được minh họa bằng tấm hình chụp ngoại trưởng John Kerry
phát biểu trong bữa tiệc chiêu đãi ông Tập Cận Bình, trong đó “bố già”
Kissinger ngồi hàng ghế đầu như một cây đại thụ.
Kết quả của “business summit” tại Seattle phản ánh hai sự thật khác nhau về
quan hệ Trung-Mỹ. Một là, hai bên vẫn cần nhau (vì cái bẫy kinh tế). Hai là,
hai bên không thể nói chuyện được với nhau (vì hai hệ điều hành khác hẳn nhau).
Hai bên đã có một cơ hội tuyệt vời để đối thoại một cách cởi mở và xây dựng (do
sự dàn xếp khéo léo của ông Hank Paulson). Nhưng ông Tập đã không tận dụng được
cơ hội này. Trong khi 15 CEO Mỹ (đại diện cho $2.5 trillion tài sản) đến dự và
tưởng sẽ được đối thoại cởi mở, thì ông Tập chỉ bắt tay, chụp ảnh kỷ niệm, đọc
một bài diễn văn 10 phút, rồi…phắn! Chắc ông Hank Paulson rất buồn.
Cuộc gặp “thượng đỉnh” giữa tổng thống Barack Obama và
chủ tịch Tập Cận Bình (đại diện hai cường quốc mạnh nhất hành tinh) mà hai bên
trông đợi và chuẩn bị rất công phu, cũng không giải quyết được bế tắc nào. Nó
giống như một màn kịch được dàn dựng công phu nhưng kết thúc bằng “anti-climax”
(mà không bên nào “lên đỉnh”).
Tại LHQ, ông Tập Cận Bình đã diễn xuất một cách khá ấn
tượng bằng những lời hoa mỹ trong một bài diễn văn rất mỵ dân, và bằng một kiểu
ngoại giao “ký séc” (checkbook diplomacy) mà trước đây người Nhật đã nổi tiếng.
Ông Tập đã cam kết đóng góp 1 tỷ USD cho quỹ phát triển TQ-LHQ (China-UN
Development Fund), 100 triệu USD cho African Union để ứng phó với các trường
hợp khẩn cấp, và 8000 quân cho lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ…
Chính sách ngoại giao dùng tiền để mua chuộc lòng
người và xây dựng uy tín quốc tế vẫn còn tác dụng trong một thế giới đang khủng
hoảng kinh tế. Nhưng về lâu dài, dùng tiền và sức mạnh để mua chuộc lòng người
(charm offensive) không hiệu quả. Hiện nay, Trung Quốc có rất nhiều tiền và sức
mạnh cứng, nhưng đáng tiếc lại thiếu sức mạnh mềm. Tại sao 64% người trung Quốc
có tài sản trên 1,6 triệu USD đã hoặc định di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth
Economy). Xu hướng này là gót chân Asin của Trung Quốc.
Khi mặt trời
mọc lại
Có hai sự kiện sẽ đi vào lịch sử như bước ngoặt làm
thay đổi cục diện địa chính trị tại khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Thứ nhất
là Trung Quốc biến tranh chấp quần đảo Điếu Ngư (Senkaku islands) thành khủng
hoảng quan hệ Trung-Nhật, áp đặt “khu vực nhận diện phòng không” (ADIZ) tại
biển Hoa Đông (23/11/2013). Thứ hai là Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 tại
vùng lãnh hải của Việt Nam tại Biển Đông (1/5/2014), xây đảo nhân tạo và hạ
tầng quân sự, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt và xung đột lợi ích
Trung-Mỹ.
Hệ quả của các hành động vũ đoán này của Trung Quốc
dường như không thể tính trước được (“unintended consequences”). Có lẽ Trung
Quốc không hề muốn thúc đẩy Nhật Bản thay đổi hiến pháp để tái vũ trang, và
cũng không định xô đẩy Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ. Trước đây, nhắc đến
Nhật Bản tái vũ trang và quân sự hóa là một điều cấm kỵ, không những đối với
các nước láng giềng, mà còn đối với cử tri Nhật. Không một chính khách Nhật nào
dám cả gan và dại dột như vậy, vì điều đó đồng nghĩa với tự sát chính trị.
Nhưng hiện nay chính điều đó đang diễn ra, biến điều
không thể thành có thể, biến điều cấm kỵ thành chính đáng và được hoan nghênh.
Thủ tướng Abe sẽ đi vào lịch sử như là thủ tướng đầu tiên của Nhật từ sau Đại
chiến II đã làm được một điều phi thường là thay đổi hiến pháp để tái vũ trang,
mở đường cho Nhật trở thành một cường quốc quân sự ở Đông Á. Tuy đây là ác mộng
đối với Trung Quốc, nhưng chính sự đe dọa của Trung Quốc mới làm được điều này.
Có lẽ người Nhật phải cám ơn người Trung Quốc đã tháo xích cho nước Nhật.
Nhưng có một lý do nữa đã thúc đẩy người Nhật ủng hộ
ông Abe trong quá trình cải cách hiến pháp để tái vũ trang, đó chính là “tiếng
kèn ngập ngừng” của người Mỹ. Mặc dù chính quyền Obama nhận thức được sự trỗi
dậy đầy thách thức của Trung Quốc đang đe dọa lợi ích của Mỹ và đồng minh ở
Đông Á, và đang triển khai chính sách “xoay trục sang Châu Á” để cân bằng chiến
lược và ngăn chặn Trung Quốc, nhưng hành động của Mỹ lại ngập ngừng, thiếu nhất
quán làm đồng minh lo ngại. Đã đến lúc Nhật Bản phải tự lo cho mình.
Trong khi một số nước trong khu vực sợ cái gậy (hay
cần củ cà rốt) của Trung Quốc, nên phải có thái độ hai mặt, thì một số nước
khác đẩy mạnh tái vũ trang và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ để làm
đối trọng với Trung Quốc. Vì ASEAN yếu và chia rẽ trước sự thao túng của Trung
Quốc, nên cần một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á, trong đó Nhật Bản là
nước có vai trò đầu tàu. Nói cách khác, vì Trung Quốc giơ gậy đe dọa và Mỹ lại
chơi kèn ngập ngừng, làm Nhật lo ngại bức xúc, nên Mặt trời đang mọc lại ở Đông
Á.
Trong bối cảnh đó, tam giác Mỹ-Trung-Việt càng trở nên
nhạy cảm, không những ở Biển Đông mà còn ở cả khu vực Đông Á. Muốn tam giác
Mỹ-Trung-Việt chuyển đổi theo hướng tích cực (Mỹ-Việt gần nhau hơn) để duy trì
an ninh khu vực, thì cần sự hỗ trợ của một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á
hiệu quả hơn ASEAN.
Cơ chế này có thể bao gồm 5 nước thành viên nòng cốt
(Japan, Korea, Vietnam, the Philippines, Indonesia) và 3 đối tác chiến lược (America,
Australia, India) để hình thành một cơ chế mở: “5+3 security partnerships”.
Hãy cùng
xoay trục
Muốn “xoay trục” để thoát Trung và tái cân bằng quan
hệ với các nước lớn, Việt Nam
phải dựa vào một liên minh mới do Mỹ-Nhật đứng đầu tại Đông Á, để làm đối trọng
với Trung Quốc. Vai trò của Nhật tại Đông Á sẽ ngày càng quan trọng hơn, không
những về hợp tác kinh tế, mà còn về hợp tác an ninh khu vực. Quan hệ đối tác
chiến lược với Mỹ và Nhật sẽ dựa trên khuân khổ TPP cũng như cơ chế an ninh tập
thể Đông Á.
Đã đến lúc Việt Nam phải xem xét lại chính sách
ngoại giao “3 không”, vì không thể làm vừa lòng tất cả các bên (nhất là Trung
Quốc). Một trong những vấn đề nổi cộm là vai trò của quân cảng Cam Ranh. Đối
với Philippines , thì quân
cảng Subic trở thành một điểm tựa quan trọng trong chiến lược xoay trục sang
châu Á và tái cân bằng lợi ích an ninh của Mỹ. Đối với Việt Nam , thì quân
cảng Cam Ranh cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.
Một điều kiện tiên quyết để trở thành đối tác chiến
lược với Mỹ và tham gia sân chơi TPP là cải thiện hồ sơ nhân quyền. Đây vừa là
thỏa hiệp trước mắt theo “luật chơi” (rule of engagement) vừa là mục tiêu phát
triển lâu dài của một quốc gia tiến bộ. Quốc hội Việt Nam trì hoãn
việc thông qua dự luật về lập hội tuy là một hành động cụ thể nhưng có thể cản
trở quá trình hợp tác chiến lược và dẫn đến hậu quả đáng tiếc nếu xung đột
Trung-Việt xảy ra ngoài ý muốn. Các chuyên gia quân sự cảnh báo “giai đoạn cuối
2016 và đầu 2017 là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc chiếm toàn bộ phần còn lại
của Trường Sa” (Joshua Kurlantzick).
Trong cuộc họp báo chung với ông Tập Cận bình tại Nhà
Trắng (25/9/2015) tổng thống Obama ông đã bày tỏ “lo ngại đáng kể về việc lấn
biển, xây dựng và quân sự hóa khu vực tranh chấp” và nhấn mạnh là Hoa Kỳ sẽ
“tiếp tục dùng tàu thủy và máy bay đi qua và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà công
pháp quốc tế cho phép.” Nhưng nếu ông Obama không biến tuyên bố thành hành
động, thì sẽ mất uy tín với đồng minh, và bị lãnh đạo Trung Quốc coi thường.
Theo Foreign Policy (2/10/2015) Bộ Quốc phòng Mỹ đã
thúc giục Nhà Trắng bật đèn xanh cho chiến dịch “tuần tra vì quyền tự do lưu
thông trên biển”, nhưng chưa được chấp thuận. Một trong những lý do khiến chính
quyền Obama dè dặt, là không muốn gây sự cố trước chuyến thăm của Tập Cận Bình,
trong bối cảnh hai nước đang có bất đồng nghiêm trọng.
Nhưng sau chuyến thăm của ông Tập, chính quyền Obama
đã tỏ ra thất vọng và đang chuẩn bị những biện pháp cứng rắn hơn để đối phó với
Trung Quốc. Theo Financial Times (8/10/2015) Hoa Kỳ sắp cho các chiến hạm đi
đến gần các hòn đảo nhân tạo của Trung quốc ở Biển Đông. Một quan chức cao cấp
của Hoa Kỳ nói rằng các chiến hạm này sẽ đi vào bên trong khu vực 12 hải lý mà
Trung Quốc nói là lãnh hải của họ quanh những hòn đảo nhân tạo mà họ đã xây
dựng ở Quần đảo Trường Sa, và việc này sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần nữa…
Đô đốc Scott Swift (Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương)
đã khẳng định tại Hội chợ Thái Bình Dương năm 2015 tại Sydney (8/10/2015), “hơn
bao giờ hết, Hoa Kỳ kiên quyết duy trì cam kết sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải”
và “Tự do hàng hải phải được duy trì bất chấp những tranh chấp chủ quyền biển đảo,
bất chấp những vụ tranh chấp này kéo dài bao lâu và bất chấp các đảo này là do
thiên nhiên tạo ra hay bàn tay con người tạo ra.”
Căn cứ vào Công ước LHQ về Luật Biển, thì 4 bãi ngầm
Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), Xu Bi (Subi) trước lúc
tôn tạo, thuộc diện “bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (Low-tide elevations), nên chỉ
được quyền có hải phận 50 mét bao quanh. Ba bãi còn lại là Đá Châu Viên
(Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross) và Gạc Ma (Johnson) thì được coi là “đảo
đá” (rocks), có lãnh hải 12 hải lý, nhưng không có vùng đặc quyền kinh tế.
Theo báo Diplomat (4/10/2015), có thể Mỹ sẽ chọn
phương án cho tàu chiến tiến sâu vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các thực
thể như Xu Bi và Vành Khăn, vì là bãi cạn nửa chìm nửa nổi trước lúc được bồi
đắp, nên chỉ được phép tối đa có 50 mét bao quanh. Hãy chờ xem Mỹ triển khai
“xoay trục” như thế nào để đối phó với Trung Quốc (trước khi quá muộn).
N.Q.D/(Viet- Studies)
-------------
Trung Quốc hung hăng khốn nạn thì cả thế giới này đều thấy rõ.
Trả lờiXóaMỹ thực lực hơn hẳn TQ nhưng Mỹ thận trọng hơn bao giờ hết, vì để ra đụng độ dẫn đến chiến tranh thì chẳng có lợi cho ai.
Cuối cùng là thái độ của VN là quan trọng nhất.
Nếu VN thấy được cơ hội và trách nhiệm của mình trước nguy cơ bành trướng của TQ thì hãy nghiêm túc, can đảm đứng thẳng lên và hãy dựa hẳn vào Mỹ, VN sẽ được ủng hộ tối đa và chắc chắn thái độ của TQ sẽ khác.
Bộ quốc phòng VN đang được cải tổ và đang ngày càng kiên định hơn.
Hãy tin rằng không một mệnh lệnh đầu hàng nào của bọn theo đuôi TQ có thể đảo chiều được nữa.
Vậy cán cân tay ba MỸ TRUNG VIỆT này sẽ biến chuyển ngày một rõ hơn
cho mỹ thuê cảng cam ranh để họ trông giúp biển đông
Trả lờiXóaNẾU CẦN CHO MỸ MƯỢN LUÔN .89 TRIỆU NGƯỜI DÂN VIỆT NAM ỦNG HỘ.CÒN LẠI CHỈ TRÊN DƯỚI 1 TRIỆU KẺ TAY SAI TÀU CỘNG THÌ KHÔNG CHẤP .
Trả lờiXóaCần nói thẳng với mấy ông lãnh đạo ĐCS VN: Đại đa số người VN trong đó có nhiều cán bộ đảng viên của các ông đang "tự diễn biến" theo chiều hướng căm ghét TQ, muốn dựa vào HK để giữa nước đấy. Các ông tính sao?
Trả lờiXóaHình như bài viết này là người VN nhưng quan sát từ nước ngoài thì phải, quan trọng nhất là thay đổi từ bên trong nội bộ ĐCS, có lẽ phải 10-15 năm nữa mới thay đổi thực sự.
Trả lờiXóa