* Gs. TRẦN HỮU DŨNG
Từ cuộc Cách mạng Công nghiệp cuối thế kỷ 18 đến nay,
thế giới đã chứng kiến hai sự kiện chưa từng có trong lịch sử: Một là sự tăng
vọt mức sống của con người (nói gọn là phát trỉển kinh tế), và hai là ngày càng
nhiều quốc gia trở thành dân chủ. Tuy hai làn sóng này xảy ra không đồng đều
mọi nơi, và thường gián đoạn, có lúc giật lùi, không thể không nghi ngờ rằng
chúng có liên hệ ít nhiều với nhau. Liên hệ ấy, và nói chung là liên hệ giữa
phát triển kinh tế và thể chế chính trị, không những là quan tâm của những
người hoạt động chính trị mà còn là một chủ đề học thuật hàng đầu. Trong lịch
sử trí thức cận đại, có thể xem nó như "hậu thân" của cuộc tranh biện
giữa "kế hoạch" và "thị trường", và xa hơn nữa là giữa tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề có thể gút lại qua hai câu hỏi căn bản: (1) các
quốc gia chuyên chế có phát triển nhanh hơn các quốc gia dân chủ?, và (2) phát
triển có sẽ đem lại dân chủ? Rất tiếc, hai câu hỏi này thường được đặt ra không
phải để thực tâm nghiên cứu một cách khách quan, khoa học, song chỉ có tính tu
từ, hùng biện, với câu trả lời đã định trước, nhằm biện hộ cho một thể chế
chính trị nào đó.[1] Vì không ai có thể phủ nhận phát triển kinh tế là cần thiết,
người ủng hộ chuyên chế thì tìm cách chứng minh rằng các nước chuyên chế phát
triển nhanh hơn (hoặc ít ra là không chậm hơn) những nước được xem là "dân
chủ". Tất nhiên, những người ủng hộ dân chủ thì khẳng định ngược lại: muốn
phát triển nhanh, vững, thì phải có dân chủ.[2]
Nhìn từ góc độ khoa học thì sự việc không đơn giản như
vậy. Khoa học không cho phép chủ quan lựa chọn vài đặc điểm trong kinh nghiệm
cá biệt của vài nước (nhất là khi kinh nghiệm ấy có nhiều cách diễn dịch khác
nhau), trong một giai đoạn nào đó, rồi suy diễn (thậm chí khẳng định) cho những
nước khác, trong một giai đoạn khác. Một công trình nghiên cứu chỉ có sức
thuyết phục khi nó căn cứ trên một khối lượng thống kê dồi dào và khả tín,
trong nhiều lãnh vực (không chỉ kinh tế) về nhiều nước, qua nhiều thời kỳ. Rồi
cũng phải có những mô hình đủ quy mô, phương pháp phân tích đủ "cơ
bắp" để khai thác khối dữ kiện ấy.
Nên để ý rằng liên hệ nhân quả (nếu có) giữa dân chủ
và phát triển, không chỉ là từ quá khứ đến hiện tại mà còn tùy vào kỳ vọng ở
hiện tại hướng về tương lai. Một thí dụ đơn giản: nếu dân chủ có ảnh hưởng đến
thành tựu kinh tế thì một phần không nhỏ của ảnh hưởng này hẳn là xuyên qua
những quyết định về đầu tư, tức là tùy thuộc vào kỳ vọng. Như thế, triển vọng
dân chủ tương lai sẽ là một nhân tố quyết định thành tích kinh tế hiện tại.
Điều này có nghĩa là, để thẩm định tác động kinh tế của dân chủ, ta phải nhìn
xa hơn chế độ đương thời, xét cả đến kỳ vọng của dân chúng (thậm chí của cả
giới đầu tư nước ngoài) về sự ổn định của chế độ ấy. Muốn bíết kỳ vọng này thì
cần những cuộc thăm dò ý kiến quy mô, hay khảo sát tác động của tin tức (qua
các phương tiện truyền thông) trong sự thiết lập kỳ vọng. Tất cả đều là những
thách thức vô cùng to lớn cho nhà khoa học muốn thực tâm nghiên cứu.
Công bình mà nói, cho đến khoảng những năm 1980, giới
nghiên cứu khó làm gì hơn được vì "hộp đồ nghề" phân tích định lượng
(như kinh lượng học) còn tương đối thiếu sót, thô sơ. Rất may, gần đây họ được
hai cú hích. Cú hích thứ nhất là tiến bộ trong kỹ thuật phân tích, cách đặt vấn
đề, phương pháp "xoa nắn" dữ kiện, đặc biệt là những dữ kiện không
thể định lượng. Cú hích thứ hai là sự thu thập nhiều dữ liệu khá phong phú từ
nhiều quốc gia, khắp các châu lục, qua nhiều năm.[3] Nhờ hai tiến bộ này, một số
nghiên cứu quy mô về liên hệ giữa chế độ chính trị và thành tích kinh tế đã
xuất hiện.[4] Tuy vẫn còn nhiều "khoảng trống" to lớn trong kiến thức
về vấn đề này, giới học thuật đã phát hiện một số kết quả đáng lưu ý.
Hầu hết mọi nghiên cứu đều đồng ý rằng khó tìm ra câu
trả lời trắng đen cho câu hỏi: liệu hể có một thể chế chính trị nào đó thì phát
triển tất sẽ nhanh? Song, cũng chẳng phải là không có một kết luận rõ rệt nào
cả. Điều cần thiết là phải gọt giũa câu hỏi cho có ý nghĩa khoa học, tránh
những ý niệm mơ hồ, chung chung, và nhất là phải tìm những kỹ thuật thích hợp
để phân tích, sàng lọc khối lượng thông tin, dữ kiện (dù không bao giờ là đầy
đủ) mà, may mắn thay, giới học thuật thu thập ngày càng nhiều.
Bài này lược duyệt một số khảo cứu kinh điển về liên
hệ giữa phát triển và thể chế chính trị, đặc biệt là giữa phát triển và dân
chủ. Phần I tóm lược những ý kiến tạm gọi là "xưa", đa số xuất hiện
trong những năm 60, 70, 80 thế kỷ trước. Đại để, những ý kiến này căn cứ trên
vài "ấn tượng" tương đối rời rạc về một số quốc gia (phần lớn là ở
châu Âu) nhìn qua lăng kính kinh tế tân cổ điển và những suy luận xã hội học.
Phần II tường thuật những phát hiện của Adam Przeworski (và các cộng sự) về
thành tích kinh tế và dân chủ hóa. Dấu ấn của nhóm học giả này là cách họ đặt
đối tượng nghiên cứu: nhìn dân chủ hoá như một tiến trình, rồi xem mức độ phát
triển có ảnh hưởng gì không đến (a) sự xuất hiện, và (b) sự tồn tại, của dân
chủ. Phần III tóm tắt các công trình của Francesco Giavazzi và Guido Tabellini.
Hai nhà kinh tế này nêu câu hỏi: chính trị và kinh tế liên hệ với nhau ra sao
trong thứ tự thời gian của "cởi trói"? Phần IV là kết luận.
I. Những
quan điểm "xưa"
Cho đến khoảng giữa những năm 1980, hầu như mọi ý kiến
về liên hệ giữa phát triển kinh tế và dân chủ đều có tính giai thọai (ghi nhận
chấm phá về một vài nước) và căn cứ vào khung phân tích kinh tế tân cổ điển. Ở
đây, "tiếp cận tân cổ điển" có thể được hiểu là quan niệm cho rằng
tiết kiệm và đầu tư (thay vì tiêu dùng) là yếu tố quyết định của tăng trưởng.
(Nói cách khác, trong tiếp cận này, vai trò của lịch sử, điạ lý, thể chế, giáo
dục, v.v. , trong tăng trưởng chưa được để ý nhiều như ngày nay.) Như vậy, theo
những người có ý kiến này, "dân chủ" sẽ giảm tốc tăng trưởng bởi lẽ,
trong thể chế ấy, (a) người có thu nhập thấp, là đa số, sẽ đòi phân bố tài sản
từ người giàu (có khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư cao) sang người nghèo (có
tiết kiệm và đầu tư thấp), và (b) nhà nước sẽ bị áp lực của đông đảo cử tri sử
dụng ngân sách cho những tiêu dùng ngay hiện tại, thay vì đầu tư cho tương lai.
Có thể phân biệt hai dòng ý kiến (không hẳn là trái
ngược nhau): Dòng thứ nhất xuất phát từ khẳng định rằng phát triển sẽ đem lại
dân chủ, hoặc nói khác hơn, chuyên chế không thể tồn tại trong một xã hội đã
phát triển. Dòng thứ hai cho rằng phát triển cần chuyên chế.
1.
Phát triển sẽ đem lại dân chủ?
Ý
kiến cho rằng kinh tế phát triển sẽ từng bước tạo nên các định chế dân chủ,
cuối cùng là dân chủ toàn bộ, thường dựa vào năm lập luận chính.
Thứ
nhất, phát triển kinh tế sẽ bành trướng giai cấp trung lưu, có học. Khi đủ lớn,
thành phần này sẽ đòi hỏi dân chủ, và chính họ sẽ là chỗ dựa cho chế độ dân chủ
ấy. Seymour Martin Lipset (1959) có lẽ là học giả đầu tiên đưa ra lý giải này.
Theo ông, dân chủ vừa là một hậu quả, vừa là một nhân tố của phát trỉển kinh
tế.
Thứ
hai, phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tư duy của đa số trong xã hội: hướng
tư duy ấy về cá nhân thay vì tập thể, tăng ý thức về cái riêng, về tự do cá
nhân và quyển tự quyết. Nói cách khác, phát triển kinh tế sẽ khơi dậy những
"giá trị chính trị" (political values) lấy cá nhân làm gốc. Theo
những người có ý kiến này, những giá trị ấy là mầm móng của dân chủ.
Thứ ba, kinh tế phát triển sẽ nâng cao dân trí. Khi
biết rõ hơn về cơ cấu chính trị, ý thức hơn về quyền lợi và quyền hạn của họ,
người dân sẽ bảo vệ quyền của họ tích cực hơn, theo những đường lối có hiệu quả
hơn. Đó là dân chủ.
Thứ tư, phát triển sẽ làm giàu khu vực tư, tăng cường
khả năng khu vực này trong các hoạt động độc lập, không lệ thuộc vào nhà nước,
tăng sức nặng của xã hội dân sự như một đối trọng đối với khu vực công. Hơn
nữa, khi đời sống ngươì dân càng sung túc thì xã hội càng hài hoà, giảm đi
những đòi hỏi tái phân bố của cải, dân chủ nhờ thế mà ổn định hơn.
Thứ năm, vì phát triển thường đòi hỏi mở cửa kinh tế,
một quốc gia phát triển cũng là một quốc gia nhiều tiếp xúc với thế giới về văn
hóa, xã hội cũng như chính trị. Sự giao lưu này sẽ làm thông thoáng hơn các
luồng thông tin mà chính quyền chuyên chế khó kiểm soát, đồng thời kềm hãm sự
chuyên chế ấy qua áp lực cuả các đối tác quốc tế.
Về mặt kiểm nghiệm, những công trình theo chân Lipset
thường bị chỉ trích là có giá trị khá hạn chế vì chúng chỉ dùng những dữ kiện
về mức thu nhập của nhiều nước vào cùng một thời điểm. Lipset cũng nhìn nhận rằng
ý kiến của ông là rút từ kinh nghiệm của Tây Âu, và có thể không đúng cho nơi
khác.
2.
Phát triển có cần chuyên chế?
Khác với quan điểm trên đây (cho rằng dân chủ là hậu
quả tất nhiên của phát triển kinh tế) là quan điểm cho rằng các chính sách kinh
tế sẽ có hiệu quả hơn dưới chế độ chuyên chế. Có thể nói rằng theo quan điểm
này thì dân chủ là một xa xí phẩm, chỉ nên có khi quốc gia đã phát triển.[5]
Dân chủ bị cho là không thuận lợi cho phát triển vì
nhiều lý do. Một là, quyền sở hữu (property rights) của người giàu sẽ không
được đảm bảo, bởi lẽ người nghèo, là đa số, có thể dùng lá phiếu của họ để đòi
phân chia tài sản. Hai là, họat động chạy chọt (rent seeking) của các hội đoàn
tranh giành quyền lợi (special interest groups), qua các vận động chính trị với
các đảng phái, các cơ quan chính phủ, chẳng những sẽ làm phung phí nguồn lực
quốc gia mà còn bóp méo chính sách nhà nước. Ba là, bị áp lực của cử tri, các
chính phủ dân chủ sẽ chi tiêu quá mức cho hiện tại thay vì đầu tư cho tương lai
[Galenson (1959), Schweinitz (1959) Huntington (1968, 1975)]
Chuỗi nhân quả được mô tả như sau: (1) Người có thu
nhập thấp muốn tiêu dùng ngay, (2) khi lao động có tổ chức (thành công đoàn)
thì họ sẽ "đẩy" lương lên, giảm lợi nhuận cho giới kinh doanh, làm
nãn lòng người đầu tư, (3) áp lực của cử tri sẽ làm nhà nước có khuynh hướng
phân phối thu nhập ra khỏi đầu tư (hoặc là đánh thuế nguời giàu thật nặng để
phân phát cho người nghèo, hoặc là tiêu ít hơn vào các dự án đầu tư công), (4)
đầu tư thấp đi thì sẽ giảm tốc tăng trưởng.
Những
ý kiến trên đây dựa vào giả định căn bản: (i) Vốn vật thể là nhân tố cốt lõi
của tăng trưởng. (ii) Chính quyền do dân bầu thường bị áp lực phải tiêu xài cho
hiện tại.[6] Đây là những giả định không phải luôn luôn đúng: ngoài vốn vật thể
còn có những yếu tố khác cần thiết cho phát triên (ví dụ sự trong sạch của thể
chế) mà chuyên chế thường không có, và chưa chắc là chính phủ dân cử nào cũng
thiển cận vung vãi tiêu xài thay vì chắt bóp để đầu tư. Hơn nữa, ý kiến cho
rằng phát triển sẽ nhanh hơn trong chuyên chế so với dân chủ là dựa vào những
lập luận tiêu cực thay vì tích cực. Những người đưa ý kiến này không viện dẫn
ưu thế (dù là chỉ theo họ) của chuyên chế mà chỉ vạch ra những nhược điểm (theo
họ) của dân chủ.[7] Để thấy một lỗ hổng của lập luận ấy, chỉ cần hỏi: Dù dân
chủ quả có ba nhược điểm nói trên, có gì bảo đảm rằng chuyên chế không có những
nhược điểm ấy?
Xem vấn đề bảo đảm quyền sở hữu chẳng hạn. Trong
chuyên chế thì tư pháp và lập pháp đều trong một tay nhóm nhỏ, họ có toàn quyền
đánh thuế, sung công, bội tín trong các nghĩa vụ tài chính. Thực vậy, lịch sử
cho thấy hầu hết các chế độ chuyên chế đều có khuynh hướng lấy của công làm của
riêng. Sao có thể cho rằng quyền sở hữu sẽ được đảm bảo hơn trong chế độ ấy? Ví
dụ nữa: Để giữ quyền lực, các lãnh tụ độc tài thường ban phát đặc quyền, đặc
lợi cho thuộc hạ (độc quyền kinh doanh, trợ cấp, miễn thuế). Như vậy, hoạt động
chạy chọt - và những lãng phí của nó ̶ đâu phải là không có trong chế độ chuyên
chế?
II. Phát
triển kinh tế và sự bền vững của dân chủ
Cùng mục đích xác định tương quan giữa dân chủ và phát
triển nhưng Adam Przeworski[8] nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác những người
đi trước. Ông cũng muốn biết chế độ chính trị có ảnh hưởng đến thành tích kinh
tế hay không, và ra sao, nhưng ông nghĩ rằng vấn đề ấy không thể tách rời khỏi
câu hỏi: Phát triển kinh tế có ảnh hưởng gì đến sự xuất hiện và tồn tại của các
chế độ chính trị? Theo Przeworski, chỉ sau khi xem chế độ chính trị xuất hiện
trong hoàn cảnh nào và tồn tại ra sao, thì mới có thể phân biệt được (1) đâu là
ảnh hưởng của thực trạng xung quanh một chế độ chính trị, và (2) đâu là tác
động của chính chế độ ấy. Nói cách khác, theo Przeworski, phải tách hai câu hỏi
ra khỏi nhau: (1) kinh tế phát triển có đẫn đến dân chủ không? và (2) dân chủ
có giúp phát triển nhanh hơn không?
A.
Lỗi lầm thường gặp
Przeworski lưu ý ba điểm chính:
Một là, mỗi nước một khác, mỗi thời một khác, không
thể so sánh nước này với nước nọ, giai đoạn này và giai đoạn kia. Chính
Przeworski đưa ra ví dụ: vào năm 1985, Mali là một quốc gia độc tài, có tốc độ
tăng trưởng tương đối thấp (5,35%), song không thể kết luận rằng nếu năm ấy
Mali là dân chủ thì sẽ tăng trưởng nhanh hơn, vì đâu có quốc gia nào giống hệt
Mali, nhưng dân chủ, để so sánh? Cũng năm ấy thì nước Pháp (quả là dân chủ) chỉ
tăng trưởng với tốc độ 1,43%! Ai dám bảo rằng nếu Pháp là độc tài thì sẽ tăng
trưởng nhanh hơn?[9] Nói chung, theo Przeworski, dù có thấy rằng, vào một thời
điểm nào đó, đa số nước nghèo là độc tài và đa số nước giàu là dân chủ, cũng
chưa thể kết luận rằng tăng trưởng là nhanh trong dân chủ hơn trong độc tài.
Tốc độ tăng trưởng của một quốc gia tuỳ thuộc vào xã hội, lịch sử, địa lý...
của quốc gia ấy, không nhất thiết là hậu quả của chỉ những gì mà chính phủ nước
ấy đang làm.
Hai là, nếu không nhìn vào diễn biến trong khoảng thời
gian dài thì khó tránh những kết luận sai lầm. Ví dụ các quốc gia dân chủ dễ bị
chao đảo khi có khủng hoảng kinh tế (mà nguyên nhân có thể là do tác động từ
ngoài), còn các quốc gia độc tài thì ổn định hơn. Điều này sẽ dẫn đến hiện
tượng "ngược đời" là dân chủ có vẻ tăng trưởng nhanh hơn! Song (theo
Przeworski) ta thấy như vậy chỉ vì các chính thể dân chủ thường bị sụp đổ khi
kinh tế gặp khó khăn, và trở thành độc tài, có khả năng tồn tại, có thể sống
được trong hoàn cảnh khó khăn ấy. Nói cách khác, chế độ độc tài bị "mang
tiếng" (trong trường hợp này) là làm chậm phát triển có thể chỉ vì nó kế
thừa một nền kinh tế đã trên đà suy thoái.
Ba
là, hãy nghĩ đến trường hợp có một yếu tố nào đó (tạm gọi là yếu tố X), tuy
không hiển hiện thường xuyên, đều đặn, song tác động đến chế độ chính trị lẫn
tốc độ tăng trưởng. Giả dụ yếu tố X là sự "sáng suốt", nhìn xa thấy
rộng của cấp lãnh đạo, và vì sự sáng suốt ấy mà cấp lãnh đạo vừa chọn dân chủ,
vừa có những chính sách phát triển kinh tế hữu hiệu. Trong trường hợp này, nếu
kết luận rằng tăng trưởng nhanh là nhờ dân chủ, thì quả là sai, bởi vì sự thành
công kinh tế ấy là do yếu tố X, không phải do dân chủ.
Tóm lại, một phân tích khoa học phải phân biệt bối
cảnh (kinh tế, xã hội, lịch sử...) xung quanh một chế độ, và sự thành bại của
chế độ ấy. Muốn như vậy, cần xem: trong tình huống nào mà chế độ xuất hiện, và
hoàn cảnh nào mà chế độ vẫn tồn tại, hoặc sụp đổ. Chỉ khi biết rõ như thế thì
mới có thể xác minh thành tích kinh tế nào là do thể chế chính trị, thành tích
nào là do các yếu tố khác. Đây là một bài toán phân tích cực kỳ khó khăn, may
là James Heckman (1976, 1988) đã phát minh nhiều thủ thuật kinh lượng để làm
việc này.
B.
Kết quả của Przeworski
Przeworski phát hiện một điều nổi bật: chế độ chính
trị không ảnh hưởng đến suất đầu tư và tốc độ tăng trưởng của tổng thu nhập cả
nước. Tuy nhiên, vì dân số thường tăng nhanh hơn trong các quốc gia độc
tài,[10] thu nhập đầu người thường tăng nhanh hơn trong các nước dân chủ. Przeworski
kết luận: Không có lý do nào để hy sinh dân chủ cho phát triển.
Năm phát giác khác của Przeworski cũng đáng để ý:
(a)
Không có bằng cớ nào cho thấy phát triển kinh tế bao giờ cũng đem lại dân chủ.
Đặc biệt, nếu một quốc gia đã khá giàu có mà vẫn là độc tài thì ít khi quốc gia
ấy sẽ trở thành dân chủ.
(b)
Tuy đa số các nước giàu hiện nay là dân chủ, không có một mức thu nhập nào mà
hể trên mức ấy là độc tài sẽ sụp đổ, dân chủ sẽ xuất hiện.
(c)
Cũng không rõ ràng là tốc độ tăng trưởng có ảnh hưởng, hay không, đến sự bền
vững của chuyên chế. Trung bình, khả năng tồn tại của chính quyền độc tài trong
một nền kinh tế đang tăng trưởng thì cũng ngang bằng khả năng mà chế độ ấy tụt
dốc trong một, hai, hoặc ba năm. Vài chế độ độc tài sụp đổ sau nhiều năm tăng
trưởng liên tục, song cũng có chế độ độc tài sụp đổ sau nhiều năm kinh tế suy
sụp liên tục.
(d)
Vì không đủ thông tin, khó xác định ảnh hưởng của phân phối thu nhập. Tuy
nhiên, dường như độc tài càng dễ sụp đổ khi phân bố thu nhập càng chênh lệch.
(e)
Khi đem yếu tố khác (ví dụ như quá khứ chính trị, sự đa dạng ngôn ngữ, tỷ lệ
các tôn giáo chính, và truyền thống thuộc địa) vào mô hình thì kết quả cũng
không rõ rệt gì hơn.
Przeworski
nhận xét: các chế độ độc tài "chết" trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Đôi khi nó sụp đổ khi kinh tế khủng hoảng, lúc khác thì sau một thời kỳ thịnh
vượng lâu dài. Nhiều khi thì độc tài chết theo người sáng lập ra nó, lúc khác
thì độc tài chấm dứt khi một quốc gia bị thất trận. Và cũng có khi độc tài sụp
đổ vì áp lực quốc tế.
Sự
bền vững của dân chủ
Przeworski khám phá rằng dù xuất hiện qua lộ trình
lịch sử nào, dân chủ cũng bền vững hơn trong các nước đã phát triển. Đặc biệt,
chưa hề có một nền dân chủ nào sụp đổ khi thu nhập đầu người vượt trên ngưỡng
$6000/năm (đo bằng đô la năm 1965). Giáo dục (đo theo số năm đến trường) cũng
làm dân chủ bền vững hơn. Tuy nhiên, dù giáo dục và thu nhập có tương quan khá
chặt chẽ, Przeworski đã có thể xác định là ảnh hưởng của giáo dục không mạnh
bằng ảnh hường của thu nhập đối với sự tồn tại của dân chủ. Nôm na: nước giàu
mà dốt thì dân chủ khó sập hơn nước có học nhưng hơi nghèo! Przeworski cũng
phát giác rằng khó xác định ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến sự tồn vong
của dân chủ. Đúng là dân chủ yếu và thu nhập trì trệ là hai hiện tượng thường
đi đôi, song khó biết là dân chủ thoi thóp vì nó không hiệu quả, hoặc nó không
hiệu quả vì (dân chúng cảm thấy là) nó sắp không còn?
Tuy rằng giáo dục, phân bố thu nhập, định chế chính
trị, và tương quan giữa các lực lượng chính trị đều có vài ảnh hưởng đến sự bền
vững của dân chủ độc lập với thu nhập đầu người, ảnh hưởng của mức độ thu nhập
là lớn nhất.
Przeworski
(2002) lý giải như sau: Ở các nước giàu, mọi người đều ủng hộ dân chủ bởi lẽ
nếu chống nó thì có thể mất mát rất nhiều. Ở các nước nghèo thì trái lại: của
cải xã hội không có là bao, cho nên nhóm nào chống lại dân chủ, dù bị thất bại,
cũng không có gì nhiều để mất. Ở các nước nghèo, thu nhập của những người dưới
ách độc tài cũng không thấp hơn thu nhập của những người sống trong dân chủ (dù
họ có thắng cử hay không). Ở nước giàu thì khác: khoảng chênh lệch thu nhập
giữa những người trong phe thất cử (trong dân chủ) và những người bị đàn áp
trong chế độ độc tài là rất lớn. Nói cách khác, ví dụ ngay như một nhóm nào đó
hi vọng là thu nhập của họ khi họ quay chống dân chủ sẽ là cao hơn trong dân
chủ, cái "cơ may" (possibility) là họ sẽ là bên bại trận sau khi độc
tài thiết lập là rất lớn (trong xã hội phồn thịnh) và do đó họ sẽ ngại chống
dân chủ. Nói chung, theo lập luận của Przeworski, thu nhập càng cao thì cái có
thể bị mất mát càng lớn, do đó ngay đến nhóm luôn luôn thất cử cũng thà chấp
nhận kết quả bầu cử còn hơn. Chính thái độ tránh rủi ro (risk aversion) là động
cơ khiến mọi người các nước trù phú tuân theo kết quả bỏ phiếu.[11]
Przeworski tóm tắt: Lý do các nước dân chủ thường là
các nước kinh tế phát triển, và ít khi là các nước nghèo, không phải vì dân chủ
thường xuất hiện như là hậu quả của phát triển, song vì nó có hi vọng sống lâu
hơn nếu nó may mắn xuất hiện trong quốc gia đã phát triển. Đúng là lộ trình mà
dân chủ xuất hiện là rất đa loại, khó thể tiên đoán, nhưng, một khi nền dân chủ
đã thành hình thì sự tồn tại của nó tuỳ thuộc vào một số yếu tố rất dễ thấy.
Đứng đầu danh sách các yếu tố ấy là mức độ phát triển kinh tế, như được đo bằng
thu nhập đầu người. Các định chế chính trị cũng có ảnh hưởng.
C.
Đánh giá Przeworski
Một chỉ trích Przeworski và Limongi (xem Lời Dẫn Nhập
của Bhardan trong Journal of Economic Perspectives [1993]) là hai ông này chỉ
dùng thu nhập làm thước đo tăng trưởng. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy là
thu nhập có ảnh hưởng (dù không lớn) đến dân chủ. Chẳng hạn như Londregan và
Poole (1996) cho biết nếu tăng thu nhập gấp đôi thì sẽ tăng "mức độ dân
chủ" của các chế độ chuyên chế khoảng 30% nếu nước ấy là chuyên chế
"vừa phải" (moderately authoritarian), nhưng nếu nước ấy là cực kỳ
chuyên chế thì tăng đôi thu nhập như thế chỉ tăng mức dân chủ chừng 5-15% mà
thôi. Và nếu nước ấy đã tương đối phóng khoáng thì tăng đôi thu nhập không tăng
thêm mức độ dân chủ.
Cũng nên kể thêm là kết quả của Barro (1996, bản thảo
1994) cho thấy là liên hệ giữa dân chủ và phát triển có thể có dạng chữ U
ngược: Tăng trưởng là chậm nhất ở các quốc gia thiếu tự do nhất. Ở những nơi
này, nếu thêm dân chủ một chút là tăng trưởng tăng thấy rõ, đạt đến cao đỉnh
vào khoản thu nhập trung bình. Và ảnh hưởng này yếu đi khi dân chủ tăng lên ở
các quốc gia thu nhập cao hơn thêm.
III. Cởi
trói kinh tế và cởi trói chính trị
Như đã lược thuật ở Phần I, phần lớn ý kiến
"xưa" về liên hệ giữa thể chế chính trị và phát triển đều dựa vào
nhận định đơn giản: muốn phát triển thì cần đầu tư, vậy chế độ nào có tác động
tăng đầu tư thì sẽ tốt cho phát triển. Nhận định này ngày càng bị cho là thiếu
sót. Những năm gần đây manh nha một lối nhìn khác, với nhận định là phát triển
cần cả một định chế chính trị thuận lợi, không chỉ ở mức độ đầu tư. Do đó, muốn
biết liên hệ giữa ảnh hưởng của chế độ chính trị đến phát triển thì phải xem
ảnh hưởng của chế độ ấy đến các định chế cần thiết cho phát triển (xem thêm Rodrik
[2004]). Các định chế ấy gồm (1) luật pháp bảo vệ quyền sở hữu, (2) luật phát
bảo vệ tự do cá nhân (vì tự do ấy được xem như cần thiết để thúc đẩy óc sáng
tạo và tinh thần kinh doanh), và (3) những cơ chế "kiềm chế và đối
trọng" (checks and balances) để ngăn ngửa tham ô, lấy của công làm của
riêng, thường thấy ở các quốc gia chuyên chế.
Francesco Giavazzi và Guido Tabellini định nghĩa
"cởi trói kinh tế" như là những cải cách toàn diện để nới rộng thị
trường, nhất là thị trường quốc tế, và dùng cụm từ "cởi trói chính
trị" như đồng nghĩa với dân chủ hoá.
Trong một loạt bài từ đầu những năm 2000, hai nhà kinh
tế ngưới Ý này đặt bốn câu hỏi: (1) cởi trói kinh tế và cởi trói chính trị có
ảnh hưởng đến thành tích kinh tế (chẳng hạn như tăng trưởng và đầu tư), đến
chính sách vĩ mô (chẳng hạn như lạm phát và ngân sách), và chính sách cơ cấu
(ví dụ như bảo vệ quyền sở hữu và kiềm chống tham nhũng) hay không? (2) Có quả
là cởi trói kinh tế khích động (induce) cởi trói chính trị, hoặc ngược lại?
Hoặc hai loại cởi trói ấy không dính dáng gì đến nhau? (3) Hai loại cởi trói
này tương tác qua lại ra sao (nói cách khác, hiệu quả của hai loại cởi trói,
nếu thực thi cùng lúc, có lớn hơn tổng cộng của chúng nếu thực hiện riêng rẽ?)
(4) Thứ tự thời gian của hai đợt cởi trói ấy (đợt nào trước, đợt nào sau) có
quan hệ gì không? Nói cách khác: nếu một nước đang "đóng cửa", và
không dân chủ, quyền định "mở cửa" trong cả hai lãnh vực, thì khởi
điểm của nước ấy có quan hệ gì không?
Tất nhiên, đây không phải là lần đầu tiên mà các câu
hỏi ấy được đặt ra (ngay cả Przeworski và Limongi cũng đã đề cập đến chúng),
song trước Giavazzi và Tabellini (và Persson cũng có đóng góp) thì hầu như tất
cả đều phân tích hai loại cởi trói đó riêng rẽ, bỏ mất cơ hội xem xét ảnh hưởng
qua lại giữa chúng.
Cởi
trói nào trước?
Tiên nghiệm (a priori) thì chiều nhân quả nào cũng là
có thể: Thương mại có khuynh hướng đem lợi ích cho đa số và chỉ tổn hại thiểu
số, vậy có thể là số đông (trong dân chủ) sẽ "đẩy" tự do thương mại
(nhiều kết quả thực nghiệm xác nhận điều này). Song cũng có thể là một nền kinh
tế cởi trói sẽ tạo sức ép "đẩy" chính trị về phía dân chủ, chẳng hạn
vì nó tăng sức mạnh và quyển lực (kinh tế) của giới trung lưu (như quan điểm
"xưa", nói ở Phần I). Theo Giavazzi và Tabelllini thì chiều nhân quả
có khuynh hướng đi từ chính trị đến kinh tế thay vì ngược lại (nói nôm na, đừng
tưởng là dân giàu thì sẽ đòi dân chủ!)
Những quốc gia mà cải cách kinh tế đi trước dân chủ
gồm: Hàn Quốc, Đài Loan , Chile , Mexico . Ngươc lại thì có thể kể: Argentina , Brazil ,
Philippin, và Bangladesh .
Theo kết quả của Giavazzi và Tabellini, những quốc gia cải cách "kinh tế
trước, chính trị sau" có những thành tích tốt hơn. Cụ thể:
(1)
Thứ nhất, cởi trói kinh tế bởi một chính quyền chuyên chế có công hiệu hơn bởi
một chính quyền dân chủ. Có hai bằng cớ. Một là, khi nhà nước chuyên chế cởi
trói kinh tế thì kim ngạch ngoại thương sẽ tăng nhiều hơn khi nhà nước đó đã là
dân chủ. Hơn nữa, khi nhà nước đó trở thành dân chủ sau này thì mức tăng đó
cũng còn kéo dài hơn. Hai là, nếu cởi trói kinh tế trước (khi chính trị vẫn còn
là chuyên chế) thì lạm phát sẽ giảm nhanh hơn.
Theo Giavazzi và Tabellini, sự khác biệt về mức công
hiệu (và ảnh hưởng đến ngoại thương) nói trên có thể là vì nội dung các chính
sách kinh tế vĩ mô. Khi một chính quyền chuyên chế ban bố thì nội dung này là
khác khi nhà nước dân chủ ban bố. Xem vấn đề mở cửa kinh tế chẳng hạn. Những
nước dân chủ, khi mở cửa kinh tế, cũng còn đặt nhiều rào cản thương mại (vì bị
áp lực của các thành phần kinh tế "nạn nhân" của mở cửa). Trong lúc
đó, dù rằng các nước chuyên chế thường ít mở cửa hơn, song khi mở cửa thì họ
không bị áp lực của các "nhóm lợí ích" (interest group) trong nước,
và do đó ít có rào cản thưong mại hơn.[12]
(2)
Thứ hai, dân chủ hoá được tiến hành trong một không khí kinh tế "tự
do" sẽ đem đến một nền dân chủ "tốt" hơn. Có nhiều cách giải
thích hiện tượng này.
Giải
thích thứ nhất là, khi một chế độ chuyên chế chính trị cởi trói kinh tế thì
chẳng những tăng trưởng nhanh hơn mà môi trường cũng có nhiều cạnh tranh hơn.
Nhờ thế, khi quốc gia ấy truất phế nhà độc tài và trở thành dân chủ thì nó sẽ
là một nền dân chủ tốt hơn bởi hai lý do. Một là, nó đã sẳn mở cửa cho thương
mại và cạnh tranh, và hai là, nhờ đã phát triển khá, quốc gia ấy có đủ nguồn
lực để phân phối cho dân chúng, một điều mà mọi chính thể dân chủ đều cần làm.
Mặt khác, một nền dân chủ phôi thai, trong một nền kinh tế còn tương đối đóng
kín, sẽ dễ bị tê liệt do các thế lực đòi phân bố thu nhập, và sẽ đi quá xa
trong những chính sách thoả mãn quần chúng (populist policies), có tính lãng
phí.
Giải thích thứ hai là, có thể chính sự cởi trói kinh
tế trước cởi trói chính trị là lộ trình do một lãnh tụ nhìn xa thấy rộng định
trước. Trái lại, khi dân chủ hoá đến trước thì nó thường là hậu quả của một
cuộc cách mạng (hay đảo chánh) đột ngột, có tính xáo trộn. Như vậy, nó thường
đi kèm với những xáo trộn kinh tế.
Tóm
tắt, cởi trói kinh tế sẽ có hậu quả tốt về mọi mặt, bởi vì nó sẽ đưa đến những
chính sách tốt về cơ cấu cũng như về những mặt vĩ mô. Cởi trói chính trị, trái
lại, không có ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và đầu tư, dù có vẻ tăng chất
lượng của các chính sách cơ cấu. Ảnh hưởng của cởi trói chính trị đến chính
sách vĩ mô thì có khi tốt, khi xấu. Tuy nhiên, Giavazzi và Tabellini khám phá
rằng, những quốc gia cởi trói kinh tế lẫn chính trị là khá hơn cả.
Persson
and Tabellini (2006) đề nghị ý niệm "vốn dân chủ" (democratic
capital) mà họ giải thích như sau: Sự cảm nhận của dân chúng đối với giá trị
của dân chủ không phải ngày một ngày hai mà có. Trái lại, nó là một tiến trình
dần dần, từng bước, như là tích lũy "của cải" dân sự và xã hội, khi
mà quốc gia ấy học được từ kinh nghiệm của chính họ cũng như kinh nghiệm của
các nước láng giềng.
IV. Kết luận
Cần khẳng định rằng những nghiên cứu định lương (hay
cố gắng về hướng đó) như lược duyệt trong bài này không nhất thiết sẽ là gần
"chân lý" hơn những phân tích không định lượng.[13] Tuy nhiên, khảo
hướng này vạch trần những khó khăn trong việc tim hiểu những liên hệ phổ quát
giữa dân chủ và phát triển, những khó khăn mà mọi nghiên cứu khách quan, khoa
học, cần lưu tâm và khắc phục.
Dù
rằng liên hệ giữa phát triển kinh tế và thể chế chính trị (cụ thể là dân chủ)
đã được nhiều người khẳng định (và là một cương lĩnh tuyên truyền của nhiều
chính phủ), cho đến nay chứng cớ khoa học cho liên hệ này vẫn chưa rõ ràng và,
theo tôi, sẽ không thể rõ ràng, vì có quá nhiều thông số. Nó hết sức phức tạp,
tùy vào thể chế, lịch sử cuả quốc gia và, thật vậy, vào chính mức độ phát triển
hiện tại của quốc gia ấy nữa. Ngay từ căn bản: thế nào là phát triển, và thế
nào là mức độ dân chủ, cũng khó có một thước đo mà mọi người đều đồng ý, và như
Tabellini và Giavazzi nhấn mạnh, mỗi hình thức dân chủ (dân chủ đại nghị, dân
chủ tổng thống, vv ) có những hậu quả khác nhau.
Nhưng đặt câu hòi về liên hệ giữa dân chủ và phát
triển (như đo bằng mức thu nhập) có thể là quá hẹp hòi, bởi vì "dân
chủ" phải đuợc xem như một phương tiện để thực hiện những ao ước khác của
con người, đó là sống một cuộc đời mà khả năng được phát triển toàn vẹn. Đó là
tự do.
Người phân tích sâu sắc nhất về tự do và phát triển có
lẽ là Amartya Sen
(1999).
Theo ông, sự bành trướng tự do[14] là (1) mục tiêu bậc nhất (primary end) và
(2) phương tiện chính (principal instrument) của phát triển. Có thể gọi vai trò
thứ nhất của tự do là vai trò thành tố, và vai trò thứ hai là vai trò công cụ.
Theo Sen, phát triển, chính nó, có thể được xem như là một tiến trình mở rộng
tự do cho con người, nói cách tổng quát. (Nên nhớ là trong vai trò công cụ, tự
do có nhiều loại (a) tự do chính trị, (b) tự do kinh tế, (c) cơ hội thăng tiến
trong xã hội, (d) bảo đảm tính minh bạch (transparency guarantees).) Như vậy,
theo Sen, câu hỏi thật sự quan trọng là liên hệ giữa tăng trưởng và tự do,
không phải giữa dân chủ và phát triển. Và nếu hỏi như vậy thì, theo Sen, câu
trả lời thật quá rõ ràng: tự do sẽ gia tốc tăng trưởng, và tăng trưởng sẽ nới
rộng tự do (cụ thể là không còn bị đe dọa bởi đói khát, có nhiều cơ hội học
hành, ...)[15]
Tách rời dân chủ và phát triển (không phủ nhận, cũng
không khẳng định) như hai mục tiêu khác nhau còn giúp "giải phóng"
nhà khoa học khỏi những thiên kiến ngoài kinh tế. Cần tập trung vào những yếu
tố không thể phủ nhận (1) tham nhũng, lãng phí, bất công xã hội chắc chắn sẽ
làm trì trệ phát triển, và (2) "tự do" có một giá trị to lớn, tự tại,
biệt lập với phát triển kinh tế. Cũng nên thêm một nhận xét: dù có cho rằng dân
chủ sẽ có lợi cho phát triển, lộ trình dân chủ hoá của một quốc gia không đang
là dân chủ tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử, xã hội, và chính trị cá biệt của
quốc gia ấy. Hoặc có cho rằng dân chủ và phát triển là hai mục tiêu đánh đổi,
thì vấn đề tiếp theo sẽ là thể chế nào là tốt nhất để làm quyết định đánh đổi
này.
Tr.H.D
-----------------
*Department of Economics, Wright State
University , Dayton , OH 45435 , USA .
Bài này là viết lại báo cáo tại Hội Thảo Hè "Dân chủ và phát triển",
28-29 tháng 7, 2006 tại Berkeley ,
California (Hoa Kỳ).
Chú thích
[1] Trong số này cũng có thể kể một bài
báo khá nổi tiếng gần đây, tuy có nhiều nhận xét mới lạ và hữu ích, nhưng khá
phiến diện và không có tính học thuật cao, đó là bài của De Mesquita và Downs
(2005). Đúng ra, hai tác giả này chỉ là áp dụng lý thuyết của Chong (1991) và
Chwe (1998, 2001) cho "thời đại Internet".
[2] Tuy nhiên, cũng có nhiều người không
đồng ý là phát triển là cần thiết, thậm chí dân chủ cũng là không cần thiết.
Xem, chẳng hạn, Gordon Graham, The case against the democratic state, Imprint
Academic, 2002. Về vấn đề phát triển có thực sự đem lại hạnh phúc cho con người
không, xem, chẳng hạn, Richard Layard, Happiness: Lessons from a new science,
Penguin, 2006
[3] Đó chưa nói đến cac máy tính điện tử
ngày càng mạnh và rẻ.
[4] Hai bài "mở đường" cho
những tiến bộ này là Lucas (1988) và Barro (1991), nhưng công trình có ảnh
hưởng nhất phải là Barro (1996) - tuy được in năm 1996 nhưng bản thảo đã được
giới học giả chuyền tay nhau xem từ đầu thập kỷ 1990.
[5] Điển hình là Galenson (1959),
Schweinitz (1959), La Palombara (1963), Huntington
và Nelson (1976)
[6] Một giả định nữa là thu nhập càng
thấp thì khuynh hướng tiêu dùng càng cao. Giả định này giải thích tại sao dân
chủ là có thể đi đôi với tăng trưởng khi mức thu nhập (bình quân) đã là cao,
nhưng không như vậy khi thu nhập (bình quân) còn là thấp.
[7] Xem, chẳng hạn, Minxin Pei
(1999)
[8] Giáo sư chính trị học, đại học New York
[9] Quốc gia độc tài trù phú nhất giữa
1951 và 1990 là Singapore, có thu nhập đầu người là $11.698, tức là cũng không
giàu bằng Pháp.
[10] Đây là một sự thật mà tôi chưa thấy
ai giải thích
[11] Độc giả quen thuộc với thuyết trò
chơi (game theory) hẳn đã thấy ngay ảnh huởng của thuyết này trong lý giải của
Przeworski.
[12] Tôi không nghĩ điều này là đúng.
[13] Xem, chẳng hạn, Fukuyama ,
"Remembering Seymour
Martin Lipset", American Interest "blog", mùa thu 2006
[14] Theo tôi, cụm từ "bành trướng
tự do", thay vì chỉ "tự do", diễn tả chính xác hơn ý của Sen
[15] Một khái niệm khá có ích trong
khung cảnh này là khái niệm "vô tự do" (unfreedom)
Tham khảo
Adsera, Alicia, và Carlos Boix, 2002,
"Trade, Democracy, and the Size of the Public Sector: The Political
Underpinnings of Openness," International Organization 56, 2, Mùa xuân,
tr. 229 -262
Barro, Robert J., 1991. "Economic
Growth in a Cross Section of Countries," Quarterly Journal of Economics,
Bộ 106, tháng 5, tr. 407-443.
Barro, Robert J., 1996, "Democracy
and Growth," Journal of Economic Growth, Bộ 1, Số 1, tháng 3, tr. 1-27…
--------------
Trả lờiXóaXin chia vui cùng Người Kiev Dân tộc Ukraine - Bao giờ Hà Nội yêu dấu ? Bao giờ Việt Nam dấu yêu ? ? ?
***********************************
http://www.youtube.com/watch?v=dnlbgfFBpoA
Người dân Ukraine đang chờ đợi Dân chủ
Không chút ngại ngần
Bất bạo động chống lại Bạo động
Ánh Tự do đang tỏa sáng trên Quảng trường Độc lập Manda
Điều đó đã không bao giờ có trong gần Thế kỷ qua
Và Thế giới Tự do đang đếm ngược chầm chậm từ 10
10
Nơi đây Quảng trường Độc lập Manda
Ánh Thái dương đang chiếu đến
9
Nơi đây Kiev
Toàn dân Kiev đang vùng dậy !
8
Sao Mai trên chân trời Kiev !
Ôi Sao Hôm vẫn trong bầu trời Ha Nội !!
Bao giờ lũ Trọng Lú - Ba Ếch - Hùng Hói -Tư Sâu
Như Lê Chiêu Thống cuốn gói chạy theo Khựa về Tàu .. ..
7
Đây Kiev Trái tim Ukraine
Mặt trời đến rồi mang Bình minh tiếng kèn
6
Đây Kiev
Đây Quảng trường Độc lập Manda
Vitaly Klitschko - Người Kiev
Nhà Siêu vô địch quyền Anh thế giới dấn thân
Vitaly Klitschko - Người con mến yêu của Kiev
Vì Tự do - Dân chủ - Nhân quyền
Dám hiến dâng mình cho Ánh sáng xóa tan Bóng tối
5
Mùa Đông băng tan trên Quảng trường Độc lập Manda
Cựu Nữ Thủ tướng xinh đẹp tóc vàng mắt xanh
Vừa thoát ngục tù trên xe lăn
Đang hùng biện trước Người Kiev
Thế giới từ đây không có chỗ cho bọn chuyên chính độc tài
4
Mùa Đông băng tan trên Quảng trường Độc lập Manda
70 Mùa Đông vẫn kéo dài trên Quảng trường Ba Đình
Trong Lăng vẫn tên đại tội đồ Trần DâM Tiên Hồ Chí Minh
http://www.youtube.com/watch?v=stK3YPz6WTc
3
Người Kiev đấu tranh kiên cường trên Quảng trường Độc lập
Đâu rồi Người Hà Nội hùng anh ? ?
2
Đây Quảng trường Độc lập Manda
Vitaly Klitschko - Người Kiev
Nhà Siêu vô địch quyền Anh thế giới dấn thân
Vitaly Klitschko - Người con mến yêu của Kiev
Vì Tự do - Dân chủ - Nhân quyền
Dám hiến dâng mình cho Ánh sáng xóa tan Bóng tối
Tung quả đấm thép hạ gục độc tài
1
Mặt trời đến rồi !
Mặt trời tỏa sáng trên hàng triệu Người Kiev
Tự do vui Dân tộc Ukraine
Dân chủ Pháp quyền sau gần Thế kỷ tăm tối
Nhân quyền trong tay hàng chuc triệu dân Ukraine
Mặt trời bừng cháy lên Chân Thiện Mỹ
Phá vỡ hàng vạn nắm đấm côn an côn đồ
Và cả Thế giới Tự do đang đếm ngược chầm chậm từ 10
http://www.youtube.com/watch?v=_RwOq2l6jrw
10
Nơi đây Quảng trường Độc lập Manda
Ánh Thái dương đang chiếu đến
9
Nơi đây Kiev
Toàn dân Kiev đang vùng dậy !
8
.. . ..
2
Đây Quảng trường Độc lập Manda
Vitaly Klitschko - Người Kiev
Nhà Siêu vô địch quyền Anh thế giới dấn thân
Vitaly Klitschko - Người con mến yêu của Kiev
Vì Tự do - Dân chủ - Nhân quyền
Dám hiến dâng mình cho Ánh sáng xóa tan Bóng tối
Tung quả đấm thép hạ gục độc tài
1
Mặt trời đến rồi !
Mặt trời tỏa sáng trên hàng triệu Người Kiev
Tự do vui Dân tộc Ukraine
Dân chủ Pháp quyền sau gần Thế kỷ tăm tối
Nhân quyền trong tay hàng chuc triệu dân Ukraine
Mặt trời bừng cháy lên Chân Thiện Mỹ
Và cả Thế giới Tự do cùng ca ngợi Nước Ukraine
TRIỆU LƯƠNG DÂN
http://www.youtube.com/watch?v=yHAywlBxFFQ
Sự đấu tranh của nhân dân đã làm cho Ukraina có TT mới!
Trả lờiXóaSuy cho cùng con người sinh ra phải được SỐNG được TỰ DO và được quyền MƯU CẦU HẠNH PHÚC .Tự do của con người phải đi liền với DÂN CHỦ . Mọi chế độ độc tài,độc quyền,nhân dân đều mất tự do dân chủ, mất quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc,CHÉ ĐỘ ĐỘC TÀI phải bị nhân dân loại bỏ .miễn bình ./.
Trả lờiXóaNói Ucaren sắp có dân chủ e hơi sớm. Truất phế tổng thống, nhưng cũng phải bầu lên tổng thống mới. Có gì đảm bảo TT mới lên làm lãnh đạo sẽ không theo vết xe cũ, lại độc tài, lại tham nhũng, lại sống xa hoa trong khi kinh tế èo uột....tránh vỏ dưa, lại gặp vỏ dừa.
Trả lờiXóaQuyền lực mà không được kiểm soát thì dẫn đến tha hóa chẳng mấy hồi.
Muốn có Dân chủ, Dân Ucaren nên sang học tập VN, nơi đã có "dân chủ" gấp vạn lần tư bản, đất nước luôn ổn định, không biết biểu tình, bạo lực, phế truất là cái gì.
Người Ucaren chắc sẽ nghĩ : Không biết ai phải học ai nhỉ ?
"Học" gì ở VN? Chẳng ai muốn đâu. Họ ở tầm cao hơn để suy nghĩ và hành động. Tôi từng ở Liên Xô. Họ gọi VN là "bọn đầu đen", cả nghĩa bóng lẫn đen.
XóaCao siêu qá!
Trả lờiXóaBài nài nên gửi thẳng cho bác lú, anh y tá, chú sâu, chị vạn lần, em vác-xin, anh tư lệnh.....
Một khi nhân dân muốn là được , lật đổ chế độ đâu phải là phạm tội như hiến pháp VN viết .
Trả lờiXóaVợ chồng không đạt được mục đích của hôn nhân, sẽ:
Trả lờiXóa1. Ly thân
2. Tiến tới ly dị
3. Nếu không ly dị được, có khả năng xảy ra bạo lực, đánh giết nhau.