Translate

Trang BVB1

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

QUYỀN LỰC của KHÔNG QUYỀN LỰC - Phần 11

  
* VÁCLAV HAVEL 
 (tiếp theo - Phần 11)
... XVI.
Hệ thống hậu toàn trị đồng nghĩa với cuộc tấn công tổng lực vào con người, và con người đứng lên chống lại nó một cách cô độc, bị bỏ quên và cô lập. Cho nên, rất tự nhiên là mọi "phong trào bất đồng chính kiến" đều là các phong trào tự vệ rõ rệt: chúng tồn tại để bảo vệ con người và những mục tiêu chân chính của cuộc sống chống lại các mục tiêu của hệ thống.
Ngày nay, nhóm KOR Ba Lan được gọi là "Ủy ban vì Tự vệ Xã hội". Từ "tự vệ" xuất hiện trong những cái tên của các tổ chức khác ở Ba Lan, nhưng thậm chí Nhóm quan sát Helsinki ở USSR (Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết) và chính Hiến chương 77 của chúng ta cũng có tính tự vệ trong bản chất.
Theo chính trị học truyền thống, cương lĩnh tự vệ này là dễ hiểu, mặc dù nó có vẻ nhỏ bé, tạm thời và về bản chất là tiêu cực. Nó không đưa ra bất kì một khái niệm, mô hình hay ý thức hệ mới nào, và vì thế, không phải là chính trị theo nghĩa thích hợp của từ này, bởi chính trị học luôn giả định một cương lĩnh "tích cực" và hiếm khi có thể tự giới hạn mình vào việc bảo vệ ai đó khỏi cái gì đó.
      => Quyền lực  Phần 1;> Phần 2;> Phần 3 ;> Phàn 4 ;> Phần 5 ; > Phần 6 ;>Phần 7 ; >Phần  8 ;> Phần 9 ;>Phần 10   
Cái quan điểm như thế, tôi nghĩ, bộc lộ những nhược điểm trong cách quan sát chính trị truyền thống về sự vật. Hệ thống hậu toàn trị, rốt cuộc, không phải sự biểu hiện một đường lối chính trị nào đó được thực thi bởi một chính quyền nào đó. Nó là một cái gì đó rất khác: nó là sự xâm phạm lâu dài, nghiêm trọng và phức tạp vào xã hội, hơn là sự tự xâm phạm của xã hội. Nếu chống lại nó bằng cách đơn giản là vạch ra một đường lối chính trị khác, và đấu tranh cho một sự thay đổi trong chính quyền không những chỉ là không thực tế, mà nó còn hoàn toàn không phù hợp, bởi vì nó không bao giờ chạm tới được gốc rễ của vấn đề. Đã từ lâu, nó không còn nằm gọn trong các đường lối chính trị hay cương lĩnh nữa: nó là vấn đề của chính cuộc sống.
Do đó, bảo vệ các mục tiêu của cuộc sống, bảo vệ nhân bản không chỉ là cách tiếp cận thực tế hơn - do chỗ nó có thể bắt đầu ngay lúc này và có tiềm năng trở nên đại chúng hơn vì nó quan tâm đến đời sống thường nhật của con người, mà đồng thời (và có lẽ đúng hơn là vì chính vì điều này), nó còn là cách tiếp cận triệt để hơn nhiều lần, bởi vì nó nhắm đúng vào bản chất của sự vật.
Có những lúc ta phải lặn xuống đáy sâu của sự thống khổ của ta để hiểu sự thật, cũng như chúng ta phải trồi lên từ đáy giếng để nhìn những ngôi sao trong ánh sáng ban ngày quang đãng. Tôi cảm thấy rằng, ngày nay, chính cái cương lĩnh "nhỏ bé", "tạm thời" và "tiêu cực" này, chính sự bảo vệ con người "đơn thuần" này, theo một nghĩa nhất định (và không chỉ trong môi trường mà chúng ta đang sống), là một chương trình tối ưu và tích cực nhất, bởi vì nó buộc chính trị phải trở về cái xuất phát điểm duy nhất phù hợp - nếu như ta muốn tránh tất cả những sai lầm cũ - đó là con người cá nhân. Trong xã hội dân chủ, nơi mà bạo lực với loài người không rõ ràng và tàn khốc bằng [trong xã hội của chúng ta], cuộc cách mạng cơ bản trong chính trị học này vẫn còn chưa xảy ra, và sự việc có lẽ phải trở nên tồi tệ trước khi nhu cầu cấp thiết cho cuộc cách mạng ấy được chính trị học nhận thức ra. Trong thế giới của chúng ta, chính bởi sự tồi tệ mà chúng ta đang sống, có vẻ là chính trị đã trải qua sự hóa thân ấy rồi: quan tâm chính của tư tưởng chính trị không còn là những tầm nhìn trừu tượng của một mô hình "positive" và self-redeeming (và tất nhiên cả những hành vi chính trị cơ hội vốn là mặt trái của tấm huy chương), mà là con người - những người mà cho đến này vẫn chỉ bị nô dịch bởi những mô hình ấy và cuộc thực thi chúng.
Đương nhiên, mọi xã hội đòi hỏi một mức độ tổ chức nào đó. Tuy thế, nếu sự tổ chức ấy là để phục vụ con người, chứ không phải ngược lại, thì con người phải được giải phóng, và không gian phải được tạo ra để họ có thể tự tổ chức theo những cách có ý nghĩa. Sự suy đồi của cách tiếp cận đối ngược, trong đó con người phải được tổ chức theo cách này hay cách khác (bởi ai đó, người luôn hiểu hơn ai hết "cái nhân dân cần") để sau đó được báo cáo là đã được giải phóng, là cái chúng ta đã quá thấm thía.
Để tóm lại: Hầu hết những người quá lệ thuộc vào phương pháp tư duy chính trị truyền thống đều thấy sự yếu ớt của "phong trào bất đồng chính kiến" trong đặc điểm tự vệ thuần túy của chúng. Ngược lại, tôi coi đó là sức mạnh to lớn nhất của chúng. Tôi tin rằng đây chính là chỗ mà các phong trào này đã thay thế kiểu chính trị cũ của những người vẫn ôm những cương lĩnh lạc hậu.

XVII.
Trong các "phong trào bất đồng chính kiến" của khối Xô viết, sự tự vệ của con người thường dưới hình thức bảo bệ các quyền dân sự và quyền con người như chúng đã được khắc sâu trong Tuyên ngôn Toàn cầu về các Quyền Con người, các Công ước Quốc tế về Quyền con người, Luật cuối cùng của Hội nghị Helsinki và các hiến pháp của các quốc gia. Các phong trào này được dựng nên để bảo vệ bất kì ai đang bị kết án vì đã hành động theo tinh thần của những quyền này, và đến lượt chúng lại hành động theo đúng tin thần ấy, bằng cách nhất quyết đòi chính quyền ghi nhận và tôn trọng các quyền dân sự và con người, và bằng cách thu hút sự chú ý tới những lĩnh vực của đời sống nơi mà các quyền này vẫn chưa được ghi nhận.
Công việc của chúng, do vậy, dựa trên nguyên tắc về tính hợp pháp: chúng vận hành công khai, khăng khăng không những rằng các hoạt động của chúng là phù hợp với pháp luật, mà còn rằng đòi hỏi tôn trọng pháp luật là một trong những mục đích chính của các phong trào ấy. Nguyên tắc về tính hợp pháp này, cái đã cung cấp cả xuất phát điểm và khung cho các hoạt động của chúng, là điểm chung cho mọi nhóm "bất đồng chính kiến" trong khối Xô viết, mặc dù các nhóm riêng rẽ không bao giờ viết ra một thỏa thuận chính thức về điểm này. Hoàn cảnh này gợi ra một câu hỏi quan trọng: Tại sao, trong những điều kiện mà sự lạm dụng quyền lực tràn lan và tùy tiện là luật chơi, lại tồn tại sự chấp nhận chung và ngay lập tức nguyên tắc về tính hợp pháp?
Ở tầm mức sơ đẳng, sự nhấn mạnh vào tính hợp pháp này là một biểu hiện tự nhiên của các điều kiện đặc thù tồn tại trong các hệ thống hậu toàn trị, và là kết quả của một sự nhận thức sơ đẳng về tính đặc thù này. Nếu về cơ bản chỉ có hai cách đấu tranh cho một xã hội tự do - tức là, qua những phương tiện hợp pháp, và qua cách mạng (có vũ trang hay không có vũ trang) - thì ngay lập tức sẽ rõ là cách thứ hai là không thích hợp chút nào trong hệ thống hậu toàn trị. Cách mạng chỉ thích hợp khi các điều kiện đã có những chuyển động rõ ràng và công khai, chẳng hạn, trong một cuộc chiến tranh, hay trong các tình huống mà xung đột xã hội hay chính trị đã lên tới đỉnh điểm. Trong các nền độc tài cổ điển thì tình huống thích hợp chính là lúc một nền độc tài vừa mới thành hình, hoặc đang trong tình trạng sụp đổ. Nói cách khác, nó phù hợp ở nơi mà các lực lượng xã hội có sức mạnh tương đương (ví dụ như một chính quyền chiếm đóng với một dân tộc đấu tranh cho độc lập) đang đối đầu nhau trên bình diện sức mạnh thực tế, hay nơi tồn tại sự phân định rạch ròi những kẻ bóp nặn quyền lực và dân chúng lầm than, hay khi mà xã hội thấy mình đang trong tình trạng của một cuộc khủng hoảng công khai. Đương nhiên, các điều kiện trong hệ thống hậu toàn trị - trừ những tình huống quá bùng nổ như ở Hungary năm 1956 - lại trái ngược hẳn. Chúng tĩnh và ổn định, và các cuộc khủng hoảng xã hội, hầu hết, đều tồn tại ngấm ngầm (mặc dù chúng chạy xuống sâu hơn). Xã hội không bị phân cực hóa quá mức trên bình diện sức mạnh thực tế, nhưng, như ta đã thấy, lằn ranh cơ bản của xung đột chạy xuyên qua mỗi con người. Trong tình huống này, không một nỗ lực cách mạng nào có hi vọng tạo nên dù chỉ một sự cộng hưởng tối thiểu trong phần còn lại của xã hội, bởi vì xã hội này bị "ru ngủ", chìm sâu trong một cuộc ganh đua tiêu thụ và hoàn toàn dính líu vào hệ thống hậu toàn trị (tức là, tham gia vào đó và hành xử như là các nhân viên của "sự vận hành tự động" của nó), và nó sẽ nhận ra rằng những gì đại loại như cách mạng đều không chấp nhận được. Xã hội ấy sẽ giải thích cách mạng như là sự tấn công vào nó, và thay vì ủng hộ cách mạng, rất có thể nó sẽ phản ứng bằng việc làm tăng cường độ thiên vị về phía chính quyền, bởi vì, trong mắt nó, ít nhất thì hệ thống cũng có thể cho nó một sự nửa-hợp pháp nào đó. Nếu cộng thêm thực tế là hệ thống hậu toàn trị có trong tầm tay một cơ chế theo dõi trực tiếp và gián tiếp rất phức tạp, có một không hai trong lịch sử, thì hiển nhiên là không những bất kì cố gắng cách mạng nào đều sẽ dẫn tới ngõ cụt về mặt chính trị, mà còn bất khả thi về mặt kĩ thuật. Hầu như chắc chắn là nó sẽ bị phong tỏa ngay trước khi nó có cơ hội chuyển các dự định thành hàng động. Thậm chí nếu cách mạng là có thể, thì nó cũng chỉ là cái khoát tay lẻ loi của vài cá nhân riêng lẻ, và họ sẽ bị đàn áp không chỉ bởi bộ máy khổng lồ của quyền lực quốc gia (và siêu quốc gia), và còn bởi chính cái xã hội mà dưới cái tên của nó, họ đã thúc đẩy cuộc cách mạng của mình từ ban đầu. (Tuy nhiên, điều này cũng là một lí do khác giải thích tại sao chính quyền và bộ máy tuyên truyền của nó vẫn thường gán các mục tiêu khủng bố cho các "phong trào bất đồng chính kiến" và buộc tội chúng dùng các thủ đoạn đen tối và phi pháp).
Tuy nhiên, tất cả những điều này đều không phải là lí do chính tại sao các "phong trào bất đồng chính kiến" ủng hộ nguyên tắc về tính hợp pháp. Lí do chính ẩn sâu hơn, ở cấu trúc sâu xa nhất của thái độ "bất đồng chính kiến". Thái độ này chính là và phải là thù địch với quan niệm thay đổi bằng bạo lực như thế đối với hệ thống - trong khi mọi cuộc cách mạng, về cơ bản, đều hướng tới sự thay đổi thông qua bạo lực - đơn giản vì chúng đặt niềm tin vào bạo lực. (Nói chung, thái độ "bất đồng chính kiến" chỉ có thể chấp nhận bạo lực như là cái xấu cần thiết trong những tình huống cực đoan, khi mà bạo lực trực tiếp chỉ có thể được đáp lại bằng bạo lực và nơi mà thụ động đồng nghĩa với ủng hộ bạo lực: cho phép chúng tôi nhắc lại sự mù quáng của chủ nghĩa hòa bình châu Âu như là một trong những yếu tố chuẩn bị chiến trường cho Thế chiến II. Như tôi đã đề cập, "nhà bất đồng chính kiến" có khuynh hướng nghi ngờ về tư tưởng chính trị dựa trên niềm tin rằng các thay đổi xã hội cơ bản chỉ có thể đạt được thông qua sự thay đổi (bất kể bằng cách nào) trong hệ thống hay trong chính quyền, và niềm tin rằng những thay đổi như thế - vì chúng được coi là "căn bản" - có thể biện minh cho sự hi sinh những thứ "không cơ bản bằng", hay nói cách khác, sinh mạng con người. Ở đây, sự tôn trọng các khái niệm lý thuyết nặng hơn sự tôn trọng cuộc sống con người. Và đây chính là điều đe dọa sẽ biến nhân loại thành nô lệ một lần nữa.
"Các phong trào bất đồng chính kiến", như tôi đã cố gắng chỉ ra, chia sẻ quan điểm hoàn toàn ngược chiều. Họ hiểu các thay đổi hệ thống như là cái hời hợt, thứ yếu, cái gì đó mà tự thân nó thì chằng đảm bảo cho cái gì hết. Do đó, thái độ ngoảnh mặt với các tầm nhìn chính trị trừu tượng của tương lai để nhìn về những con người cụ thể, và những cách bảo vệ họ một cách hiệu quả, ở đây và ngay lúc này, là đồng hành tự nhiên với một sự thù ghét mọi hình thức bạo lực được thực hiện dưới cái tên "một tương lai tốt đẹp hơn", và bởi một niềm tin sâu sắc rằng một tương lai nếu được đảm bảo bằng bạo lực có thể sẽ còn tồi tệ hơn cái hiện tại; nói cách khác, tương lai có thể bị nguyền rủa đến chết bởi chính các phương tiện vốn để bảo vệ nó. Đồng thời, không nên nhầm lẫn thái độ này với chủ nghĩa bảo thủ chính trị hay ôn hòa chính trị. Các "phong trào bất đồng chính kiến" không lẩn trốn ý tưởng lật đổ chính trị thông qua bạo lực bởi vì ý tưởng này quá cấp tiến, mà ngược lại, chính vì nó không đủ cấp tiến. Với họ, vấn đề nằm quá sâu để có thể giải quyết qua sự thay đổi hệ thống đơn thuần, về chính quyền hay về công nghệ. Một số người, trung thành với các học thuyết Marxist cổ điển của thế kỉ 19, hiểu hệ thống của chúng ta như là sự thống trị của giai cấp bóc lột trên đầu giai cấp bị bóc lột, và từ phỏng đoán rằng, bọn bóc lột sẽ không bao giờ tự nguyện từ bỏ quyền lực của mình, họ tìm thấy giải pháp duy nhất ở cách mạng để đánh đổ bọn bóc lột. Tự nhiên là, họ coi việc đấu tranh cho các quyền con người như thể là cái gì đó hợp pháp tới mức tuyệt vọng, lòe bịp, cơ hội và rốt cuộc là sai lầm bởi vì nó dựa trên một giả định đáng ngờ rằng có thể đối thoại chân thành với những người bóc lột anh trên cơ sở một tính hợp pháp giả tạo. Vấn đề là họ đã không thể tìm ra ai đủ quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng này, và kết quả là họ trở nên yếm thế, hoài nghi, thụ động và cuối cùng là vô cảm - nói cách khác, họ kết thúc đúng vào nơi mà hệ thống muốn đặt họ vào. Đây là một ví dụ của việc con người có thể lầm lạc đến mức nào nếu cứ áp dụng máy móc, trong các điều kiện hậu toàn trị, những mô hình ý thức hệ đến từ thế giới khác và từ thời đại khác.
Đương nhiên, người ta không cần phải là người biện hộ cho cách mạng bạo lực thì mới có thể chất vấn rằng liệu đòi hỏi về tính hợp pháp có chút ý nghĩa nào không trong khi luật pháp - đặc biệt là các luật chung liên quan đến quyền con người - không hơn là mặt tiền, một khía cạnh của thế giới vỏ hình thức, một trò chơi đơn thuần mà đằng sau nó chỉ chứa đựng sự giật dây thuần túy. "Họ có thể phê chuẩn mọi thứ bởi vì đằng nào họ cũng sẽ tiếp tục làm bất kì cái gì họ thích" - đây là một ý kiến mà ta thường phải đối mặt. Chẳng phải là mãi "tin những gì họ nói", kháng nghị cái luật pháp mà mọi đứa trẻ đều biết là chỉ có hiệu lực chừng nào chính quyền còn thích, rốt cuộc cũng chỉ là một thứ đạo đức giả, một kiểu chủ nghĩa cản trở Svejkia và, cuối cùng, chỉ là một cách khác chơi trò chơi, một kiểu tự dối mình khác mà thôi? Nói cách khác, liệu cách tiếp cận hợp pháp có tương thích với nguyên tắc "sống trong sự thật" không?
Câu hỏi này chỉ có thể được trả lời bằng việc đầu tiên là xem xét các ẩn dụ rộng hơn về cách mà các đạo luật vận hành trong hệ thống hậu toàn trị....
(còn tiếp)
---------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét