* ALAN CHARLES KORS
(tiếp theo và hết)
…Hãy
thử tưởng tượng nếu Đại chiến thứ Hai kết thúc với phe quốc xã Châu Âu thành
lập một đế quốc trải dài từ rặng U-ran đến eo biển Măng-sơ, và chẳng mấy chốc
bắt đầu sản xuất được vũ khí nguyên tử, đối đầu trong thế một mất một còn với
Hoa Kỳ, và hoà bình thế giới chỉ là kết quả của sự ngăn ngừa lẫn nhau.
Hãy tưởng
tượng Albert Speer lên nối nghiệp Hitler. Liệu khi đó, con cái của những người
cánh tả có còn muốn bắt nhịp cho người ta hát các lời ca như "Chúng tôi
chỉ mưốn nói một điều, là cho hòa bình một cơ hội" khi họ đứng dưới các
biểu tượng của phong trào đòi đơn phương giải giáp các vũ khí hạt nhân? Thử
hỏi, khi ấy Hoa Kỳ có bị lên án vì chống ảnh hưởng của quốc xã trên toàn thế
giới, chưa nói đến việc chống quốc xã thiết lập những căn cứ trên Tây Bán cầu,
và bị ngay người trong nước chụp mũ là đế quốc "sen đầm quốc tế" hay
không? Thử hỏi, khi đó các nhà trí thức của chúng ta sẽ nhạo báng hay hoan hô
cụm từ "đế chế tàn ác"? Điều gì khác sẽ xảy ra? Chết chóc? Những trại
tập trung? Sự ly tán của phần xác và phần hồn?>> ** Xem từ >> Kỳ 1 ; Kỳ 2 ; Kỳ 3 ; Kỳ 4 ; Kỳ 5
Còn điều này nữa, nếu chưa có
lời giải đáp thoả đáng thì những xác chết vẫn chưa được yên nghỉ. Hãy nhớ là
chúng ta đã ăn mừng ngày sụp đổ của chủ nghĩa quốc xã và bắn sập biểu tượng chữ
Vạn tưng bừng như thế nào. Ngược lại, chúng ta đã câm nín như thế nào vào năm
1989, trong khi lẽ ra ít nhất chúng ta đã phải, và vẫn phải, kỷ niệm một cách
trang trọng sự sụp đổ của bộ Búa Liềm hùng mạnh nhất thế giới, một biểu tượng
của sự tàn sát triệt để. Nếu biểu tượng bị sụp đổ sau hai thế hệ chiến tranh
lạnh là chữ vạn của Đức quốc xã (chứ không phải là búa liềm cộng sản-ND) thì
chắc hẳn niềm vui sướng và xúc động sẽ thắp sáng những thành phố trên khắp nơi.
Thử hỏi các nhà trí thức, các chính trị gia, và các giảng viên của chúng ta, họ
tin hay không tin điều mà Solzhenitsyn đã phát biểu trực diện về chính quyền Sô
Viết:
"Không
có chế độ nào trên trái đất này có thể so sánh được với nó về số nhân mạng đã
bị đưa vào cõi chết, về sự thô bạo, về tầm vóc của các tham vọng, về tính toàn
trị triệt để không nhân nhượng - không, ngay cả chế độ của tên học trò của nó
là Hitler cũng không thể sánh kịp."[18]
Sau
nhiều thế hệ tranh chấp giữa hai hệ thống, bây giờ có ai còn hứng thú khảo cứu
đối chiếu hai hệ thống này không? Lịch sử giờ đây đã mở ra cho các kinh tế gia,
các nhà khoa học xã hội về phái tính và tình dục học, cho tới các nhà môi sinh
học, v.v... một vùng đất rộng lớn để nghiên cứu thực tế về những khác biệt giữa
tư hữu và công hữu, giữa thị trường và kế hoạch, và giữa quyền cá nhân và quyền
lợi tập thể. Liệu những người trong Phong trào Xanh, khi họ viết những bài khảo
cứu đầy bức xức về nạn ô nhiễm không khí và nguồn nước do kế hoạch hoá từ trung
ương, họ có phát hiện ra được thảm kịch của tình trạng cha chung không? Các sử
gia, họ đã có thay đổi gì khi giảng dạy học trò của họ về những hậu quả của
những thị trường tự do trên đời sống con người, trong một thế giới có thật của
những hiện tượng có thể so sánh được? Và những người theo Foucault và những
người hậu hiện đại của chúng ta, liệu họ đã xét lại những tiền đề của họ sau
khi đã tham khảo các công trình nghiên cứu sâu rộng về phái tính và tình dục
sau bức Màn Sắt, hoặc, gần đây hơn, ngay tại Cu Ba không? Thật là một điều bất
thường khi chúng ta không có được những thống kê về mặt tri thức, luân lý, và
nhất là, lịch sử, để xem xét ai đúng ai sai, và tại sao như vậy, trong các công
trình phân tích về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội sau khi nắm quyền.
Chúng ta đang sống với một sự nguỵ tín đáng kinh sợ.
Sự
ganh đua về phương thức tổ chức xã hội và tầm nhìn giữa phe dân chủ tự do và
phe xã hội chủ nghĩa đã từng là điều kiện định dạng cho đời sống và tranh luận
ở Tây phương, vậy mà bây giờ chẳng có ai cất công làm một việc tính sổ lại về
thực tiễn và đạo lý? Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản chỉ gây được ảnh hưởng
tại Pháp (dẫu rằng, không lâu lắm sau khi cuốn sách này được xuất bản, một loạt
các dân biểu và bộ trưởng thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp vẫn đắc cử)
Còn nơi nào nữa? Tại sao nó không bao giờ xâm nhập đời sống nước Mỹ - hay chí
ít là các tiệm sách đại học - khi nó có lời giải đáp cho câu hỏi đáng lý phải
được đặt ra trước tiên trong tâm trí chúng ta? Chúng ta sẽ dạy con cái những
gì? Ví dụ, chiến thuật ngăn cản, có đáng bỏ công áp dụng hay không? Ngay sau
khi Bức tường Berlin sụp đổ, trường trung học của các con tôi, trong một học
khu bảo thủ - và đây không phải là một trường hợp ngoại lệ - bỏ một tuần ra để
học về chiến tranh lạnh. Tài liệu độc nhất để bổ sung vào việc thảo luận của
học sinh là cuốn phim phê phán đường lối quốc phòng Tuyệt đối không có sự cố
(Fail-Safe). Một năm sau, bắt đầu có sách giáo khoa dạy cho các cháu biết là
ông Gorbachev thánh thiện đã dìu dắt ông "cao-bồi" Reagan vào con
đường đi đến hoà bình như thế nào. Tệ, tệ hại hơn thế nhiều nữa, là con cái
chúng ta không biết những gì đã xảy ra, trong bất kỳ lãnh vực nào, trong các chế
độ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những người phụ thuộc vào thông tin từ các phương
tiện truyền thông đại chúng và phim ảnh của chúng ta chắc hẳn không biết được
những điều đó. Nền văn minh của chúng ta sẽ tiếp tục tồn tại, thịnh vượng và
hùng mạnh theo bất cứ tiêu chuẩn lịch sử nào, nhờ vào sức mạnh của một hệ thống
kinh doanh tự do, dù chỉ ở mức tương đối, và một chính quyền có quyền hành bị
giới hạn, dù cũng chỉ ở mức tương đối. Tuy nhiên nền văn minh đó tồn tại mà
không có niềm tin vào chính mình, mà không thấu hiểu ý nghĩa tinh thần của chỗ
đứng của mình trong cái bi kịch của lịch sử đời sống có tổ chức của loài người,
và không có một sự tính sổ đối với cả hai hạng mục - một bên là hàng chục triệu
người đã bỏ mạng và một bên là những chế độ và đức tin đã đẩy họ vào chỗ chết.
Không
thấy sự phục sinh của những nguyên lý đã phân biệt chúng ta với những nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Câu nói "Các anh đặt quyền tư hữu cao hơn con
người" vẫn còn là một lời nguyền rủa cực mạnh, cứ như là chúng ta chưa hề
học đủ bài học rằng, chính "quyền tư hữu" là cơ sở cho sự phồn thịnh,
tự do, phẩm giá, và đời sống của "con người" vậy. Câu "Các anh
để lợi nhuận lên trên người dân" vẫn còn có một sức mạnh tương tự như câu
trước, cứ như thể chúng ta chưa học đủ bài học rằng lợi nhuận chính là phương
tiện để thoả mãn các nhu cầu và ham muốn của người dân. Thật ra, chính vì muốn
tránh khơi sống lại các nguyên lý tự do cổ điển nên các thầy giáo, các giáo sư,
đội ngũ truyền thông, và các nhà làm phim đã lờ tịt đi nhu cầu khảo cứu đối chiếu
mà thời đại này đang cấp thiết đòi hỏi.
Thật
vậy, người ta sẽ không sửa đổi giáo trình chính là vì người ta không muốn dạy
những bài học mà tri thức và sự thật sẽ dạy. Ít ra là trong suốt một thế hệ, sự
dị ứng của giới trí thức đối với mô hình xã hội cởi mở - như một nền văn minh,
một tập hợp các định chế, một giải ngân hà của tư tưởng - luôn được đúc làm cốt
lõi của khoa học nhân văn và các ngành xã hội học mềm. Tình trạng này, không hề
giảm đi mà còn mỗi ngày một trầm trọng hơn, mặc dù bây giờ, trên bình diện tri
thức, không còn có lý do nào nữa để biện minh cho thái độ bỏ qua những sự thật
hiển nhiên. Chúng ta biết sự trao đổi tự nguyện giữa các cá nhân một cách có
trách nhiệm về mặt đạo lý, và phù hợp với quy định của pháp luật đã mang đến
cho con người cả sự sung túc lẫn cơ hội chọn lựa đa dạng chưa từng có. Mô hình
xã hội cởi mở còn là một điều kiện tiên quyết của trách nhiệm và quyền tự do cá
nhân. Ngược lại, các chế độ kế hoạch hoá tập trung đã tạo nên sự nghèo khó và
dẫn đến sự hình thành và phát triển tất yếu của chủ nghĩa toàn trị và những
hình thái lạm quyền ghê gớm nhất. Những xã hội có thị trường tự do, năng động,
với nền tảng là chủ nghĩa cá nhân thực quyền, đã thay đổi toàn bộ quan niệm của
con người về tự do và phẩm giá của những nhóm người mà trước đây đã bị xã hội
bỏ ngoài rìa. Ngược lại, toàn bộ cuộc "thí nghiệm xã hội chủ nghĩa",
đã chấm dứt trong bế tắc, xung đột sắc tộc, sự thiếu vắng của những tiền đề tối
thiểu cho sự khôi phục kinh tế, xã hội, và chính trị, và sự đè nén tuyệt đối đối
với cả việc phát triển cá nhân lẫn quyền lợi của các nhóm thiểu số. Con cái
chúng ta không biết sự khác biệt thực tế này.
Khi
các nhà lãnh đạo chính trị và truyền thông của chúng ta xem xét các chế độ cộng
sản đương đại - Trung Quốc, Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, và Cam Pu Chia - dù
những chế độ đó có thay đổi đến mức nào đi nữa và những tính chất nói trên có
khi hiện hữu, có khi không, nhưng trong nhận thức, họ phải ý thức được về thực
tế lịch sử mà chúng ta đã biết, và về những xác người mà chúng ta cố tình lờ đi
không muốn biết. Lại một lần nữa, chúng ta phải nghĩ về cái lối phán xét lịch
sử nước đôi, bất nhất đó. Khi nhân vật phái hữu Joerg Haider vừa gặt hái được
thành công chính trị tại nước Áo - bằng con đường dân chủ thực sự - các chính
quyền Tây Âu đã coi ông ta như một nhân vật hạ đẳng hay như một kẻ sống ngoài
vòng pháp luật vì hai thế hệ về trước, ông ta đã có những lời phát biểu hay
những biểu hiện có dính dáng đến Hitler. Thế cũng được đi. Nhưng đối với những
lãnh đạo cộng sản là những người kế thừa của Stalin và Mao hiện vẫn đang nắm
quyền thì sao? Về mặt chết chóc và đày ải, các trại lao cải Trung Quốc phải tai
tiếng hơn là những trại tập trung ở Đức và ở những nơi Đức xâm chiếm, và, thật
ra, một điều bất thường hơn là những trại lao cải đó vẫn đang tồn tại song song
với chúng ta. Theo những tính toán nghiêm túc nhất, có khoảng năm mươi triệu
người đã phải trải qua các trại cải tạo đó.[19] Những nghiên cứu có chất lượng
ước tính rằng vào những thập niên 1950 và 1960, khoảng 10 phần trăm những tù
nhân là người Tây Tạng không bao giờ trở về từ các trại tù, và quá trình đàn áp
chính trị và tiêu huỷ một trong những nền văn minh đáng chú ý của thế giới vẫn
được tiến hành không chút suy giảm.[20] Cu Ba, với dân số mười một triệu, nay
có hai triệu người đang sống ở nước ngoài, và chúng ta sẽ không bao giờ có
những thống kê đầy đủ về con số rất lớn những người đã mất mạng khi tìm cách
đào thoát.[21] Trên thực tế, tại tất cả các nước theo chế độ cộng sản, quyền di
trú - nói một cách dân dã nhất là "thương thì ở, ghét thì đi" mặc dù
thực tế còn khắc nghiệt hơn hàm ý đó nhiều lần, thực sự vẫn bị coi là một tội
hình. Tại Bắc Hàn, một quốc gia đang chế tạo vũ khí hạt nhân, cả một dân tộc
đang đói vì sự điên khùng của những kẻ lập kế hoạch nhà nước, trong khi đó, bên
kia biên giới, Nam Hàn đã phát triển một cách nhân bản và hiệu quả về cả hai
lĩnh vực kinh tế và chính trị chỉ trong một thế hệ ngắn ngủi. Đồng ý rằng, hoà
bình thế giới, ổn định toàn cầu, thậm chí một chiến lược nhằm thay đổi các xã
hội bị áp bức, rất có thể sẽ kêu gọi chúng ta nên bình thường hoá quan hệ với
tất cả các chế độ sát nhân kia. Tuy nhiên, chúng ta phải làm việc đó với nhãn
quan tỉnh táo, và phải làm tối đa những gì có thể làm được cho các nạn nhân.
Thêm vào đó, phải xác định rõ những lằn ranh đạo lý mà dứt khoát chúng ta không
được vượt qua.
Chúng
ta vẫn đang chờ đợi một cách vô vọng những lời hối lỗi, nhưng đa số vẫn tuyên
bố là họ không biết, hay chọn cách bưng mắt bịt tai không chịu biết. Khi
Eisehnower nghe được rằng những cư dân Đức tại một thị trấn lớn ngay gần một
trại giết người tập trung, gần đến độ mùi xác thối thế nào cũng đã bay tới tận
mũi, nói rằng họ "không biết" về trại này, ông bắt những thị dân này
ăn mặc chỉnh tề, xếp hàng đi ngang qua những xác người đang thối rữa, và bắt họ
giúp thu dọn những xác chết đó. Nay chúng ta thiếu uy quyền như của ông. Milan
Kundera, nhà văn đối kháng Tiệp trong thời kỳ cộng sản, dùng bi kịch - thể loại
văn chương duy nhất phù hợp, để viết về thực trạng đạo đức. Hãy lấy ví dụ cực
đoan nhất, ông đề nghị. Thế những người có thiện ý, sẽ ra sao đây? Ông hỏi
trong tác phẩm Kiếp người như lông hồng mà mang nặng tựa Thái Sơn (The
Unbearable Lightness of Being.) Thế thì với những người vô tri, những người đã
vô tình hành động với niềm xác tín, phải làm sao đây? Kundera đã viết như thế
này về Oedipus:
"Y
không biết người đàn ông y đã giết trên núi là cha của y, và người đàn bà y đã
cùng chăn gối là mẹ của y. Cùng trong lúc ấy, định mệnh đã mang tai hoạ đến các
thần dân của y, và đầy đoạ họ bằng những trận dịch hạch lan rộng. Một khi
Oedipus nhận thức được chính y là cội nguồn của những nỗi khổ đau của họ, y tự
móc mắt mình, và trở thành một người mù lang thang rời xa khỏi thành Thebes ... Không thể nào
chịu đựng nổi cảnh tượng của những điều bất hạnh y đã gây nên "vì không
biết", y tự móc lấy mắt, và trở thành một người mù lang thang rời xa khỏi
thành Thebes..."[22]
Ai
đọc câu chuyện trên mà chẳng cảm thấy ám ảnh? Về phần tôi, tôi xin mở một con
đường xá tội. Hãy để những người theo chủ nghĩa xã hội, những người đồng hành
của họ, những kẻ biện minh cho họ, những kẻ xét lại, công nhận những sự chết
chóc, hãy để họ chôn cất những người đã chết, dạy cho những người khác những gì
họ đã học được, và ăn năn hối lỗi với những nạn nhân đã chết. Nhược bằng, với mức
độ kinh hoàng của những tai hoạ đã xảy ra, hãy để họ tự tìm cách chuộc tội sau
khi đã tự móc lấy mắt, và trở thành những người mù lang thang rời xa khỏi
Mát-xcơ-va, Bắc Kinh, hay thành Thebes .
Hãy để các nhà trí thức Tây phương nhắc lại những câu thơ trong tập Requiem,
một tác phẩm được Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất nước Nga trong thế kỷ hai
mươi sáng tác trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin:
Mọi
lúc và mọi nơi,
Tôi
luôn nhớ về họ
Dù
vật đổi sao dời
Tôi
không thể quên họ.[23]
Những
xác người đang đòi một cuộc thống kê, một lời xin lỗi, và một lời ăn năn. Không
có những việc này, sẽ không có thời đại "hậu chủ nghĩa xã hội.".
------------------------
(Bản
tiếng Việt © 2008 talawas
Nguồn:
Alan Charles Kors, "Can there be an "after socialism"? Social
Philosophy and Policy 20 (01): pp.1-17 (2003).
Bản
dịch này được hoàn thành với sự chấp thuận của tác giả, Giáo sư Alan Charles
Kors, Đại học Pennsyslvania, USA, và định chế sở hữu bản quyền văn bản,
Cambridge University Press, the Edingburg Building. Shaftestbury Road , Cambridge
CB2 8RU UK .)
------------------
* Chú thích:
[1]
Ludwig von Mises, Chủ nghĩa xã hội: Một phân tích kinh tế và xã hội học
(Socialism: An Economic and Sociological Analysis), dịch. J. Kahane
(Indianapolis, IN: Liberty Classics, 1979), 1-2.
[2]
F. A. Hayek, Con đường đưa đến chế độ nông nô (The Road to Serfdom) (Chicago:
University of Chicago Press, 1944).
[3]
Sách đã dẫn, 134-52.
[4]
Sđd.
[5]
R. H. S. Crossman, Tuyển tập., Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed)
(New York: Harper, 1949).
[6]
Những câu trích dịch trong đoạn này rút từ R. H. S. Crossman,
"Introduction" trong sđd., 1-11.
[7]
Kinh cựu ước, Genesis 29 - chú thích của bản dịch.
[8]
Arthur Koestler, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That
Failed), Crossman biên tập, 74-75.
[9]
Ignazio Silone, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed),
Crossman biên tập, 113-14.
[10]
Richard Wright, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed),
Crossman biên tập, 157-62.
[11]
André Gide, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed),
Crossman biên tập, 179-95.
[12]
Louis Fischer, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed)
do Crossman biên tập, 225-28.
[13]
Stephen Spender, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That
Failed), Crossman biên tập 265-77.
[14]
Rất ít công trình nghiên cứu có thể được xem như không thể thiếu được cho một
cuộc tranh luận lương thiện trong thời đại chúng ta. Những cuốn sách sau đây
chính là những công trình đó: Stéphane Courtois et al., Cuốn sách đen về chủ
nghĩa cộng sản: Tội ác, khủng bố, đàn áp (The Black Book of Communism: Crimes,
Terror, Repression), dịch: Jonathan Murphy và Mark Kramer (Cambridge, MA:
Harvard University Press, 1999). Về con số tử vong của người Sô Viết cũng nên
xem Robert Conquest, Đại nạn khủng bố: Một lần tái thẩm định (The Great Terror:
A Reassessment) (New York: Oxford University Press, 1990), tài liệu này sử dụng
số liệu có được từ Glasnot.
[15]
Courtois et al., Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản, 487-96; xem thêm các công
trình và bài viết được tham khảo trong cuốn sách này.
[16]
Aleksandr I. Solzhenitsyn, Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) 1918-1956,
dịch giả HarryWilletts (New York: Harper and Row, 1978), 3:482.
[17]
Stephen Spender, tiểu luận trong Vị thượng đế đã thất bại (The God That
Failed), Crossman biên tập, 253.
[18]
Solzhenitsyn, Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago), 3:28. 14.
[19]
Xem Courtois et al., Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản (The Black Book of
Communism), 498-507 và các ghi chú tham khảo ở trong đó.
[20]
Sđd, 542-46 và các chú thích ở trong.
[21]
Sđd, 663-65.
[22]
Milan Kundera, Kiếp người nhẹ như lông hồng mà mang nặng tựa Thái sơn (The
Unbearable Lightness of Being), dịch giả, Michael Henry Heim (New York: Harper
Perennial, 1991), 175-77.
[23]
Anna Akhmatova, Tuyển tập thơ của Anna Akhmatova, chủ bút Roberta Reeder, dịch
Judith Hemschemeyer (Brookline ,
MA : Zephyr, 2000), 151.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét