Translate

Trang BVB1

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

MÙA RƯƠI

 * Ghi chép - MINH TÂM.
         Trên chuyến máy bay từ Sài Gòn đi Mỹ  lần đầu trong một tua du lịch, tình cờ tôi gặp một người cùng làng: Ông Thực. Ông trở lại Mỹ sau lần đầu tiên về thăm quê.  Suốt một chặng bay dài, hai người ngồi cạnh nhau, trở nên thân mật sau khi nhận ra nhau là người cùng sinh ra ở mảnh đất chiêm trũng gần bảy mươi năm trước. Khi  mới 15 tuổi, ông Thực  di cư  vào Nam năm 1954, sau giải phóng 1975 phải đi cải tạo hơn mười năm, năm 1992 sang Mỹ theo diện HO. Ông nói với tôi: “Tưởng chả bao giờ  quay về mảnh đất chôn rau cắt rốn , nhưng chú em   viết thư bảo phải về  xây  mộ cho ông bà nội không thể không về…”.  Câu chuyện trở lại quê nhà sau hơn nửa thế kỷ của ông Thực làm tôi xúc động, xin phép ghi lại theo lời kể của ông.
           Bao năm đi xa, hình ảnh làng An vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi. Giờ  trở lại giữa mùa thu, khí trời hơi se lạnh, gió heo may báo hiệu con nước mùa rươi, tôi càng bần thần nhớ cảnh cũ người xưa…
          Chú Thập, người em con ông chú ruột, dẫn tôi ra quán  rượu  đầu cầu Son  lên gác xép ngồi bên cửa sổ nhìn xuống dòng sông Son .
Năm mươi năm trước, đây  là  quán thịt chó Chú Phì.  Ngày ấy  quán vách đất, mái lợp  tranh, treo chiếc nia sứt cạp  viết ba chữ nguệch ngoạc bằng vôi  “Thịt chó Chú Phì” trước  dàn mơ lông và mấy khóm riềng .  Chú Phì đau mắt kinh niên, hai mắt toét nhèm, nhưng chặt thịt chó nhanh như chớp, miếng nào miếng nấy đều tăm tắp. Chiếc thớt gỗ nghiến của Chú Phì đen bóng như sừng, chặt thịt châng chấc, không ra tí mùn nào. Hễ có người khen chiếc thớt, là Chú Phì lại vênh mặt lên đầy kiêu hãnh: “Còn phải nói! Cái thớt nghiến này  từ  thời  ông nội tao truyền lại. Của gia bảo đấy!  Hàng ngàn chú khuyển đã lên  thớt rồi ”.
           Thập nói với tôi:
           - Chú Phì chết cách đây hơn ba chục năm rồi. Mua  con  chó điên về làm thịt bán, bị nó đớp cho một phát! Có người con trai, theo nghề ông cha truyền lại, nhưng  được ít lâu phải  bỏ ra Quảng Ninh nhặt than thổ phỉ.
            - Tại sao lại bỏ nghề gia truyền đi nhặt than? Tôi hỏi.
            Chú Thập nói:
            - Tay ấy hai mắt to như hai cái bóng đèn, nhưng chỉ soi vào túi tiền khách mà không soi vào miếng thịt của mình. Ai đời hắn bày nguyên cả miếng thịt còn lông  lên đĩa cho khách ăn… Với lại thời buổi này chỉ  rượu thịt chó suông đếch câu được khách!     
            Bây giờ quán “Thịt chó Phì” đã đổi tên thành “Returran Gió Mới”. Tấm bảng làm bằng mê ca thay chiếc nia sổ cạp.
Ngôi nghà gạch có gác xép thay căn nhà  đất lụp xụp. Giàn mơ lông và bụi riềng cũng biến mất, thay vào đó là hòn non bộ và con Tì Hưu đắp bằng xi măng. Ngôi nhà nghễu nghện như chú gà trống  khoe  bóng xuống sông, tường xây còn để thô, rêu bám loang lổ . Con Tì Hưu đắp vụng, giống hệt con chó, cũng nhếch nhác như ngôi nhà.  Chú Thập bảo tôi:
            - Thằng Quất con lão Côi xóm Dè, đi làm thuê nước ngoài kiếm được ít tiền,  về sang quán, đổi món rượu thịt chó  thành thịt chó  bia  ôm.  Thấy đông khách, có cả khách Tây, Tàu, hóa làm giàu.
            Giữa  buổi chiểu mưa rét,  quán vắng  teo, chỉ có hai anh em tôi.  Quất  khoảng ngoài bốn mươi, đầu đinh, răng vổ, hình thù ngổ ngáo,  hỏi:
          - Hai bác xơi gì ?
           Chú em tôi nói:
          - Cho một xị rượi đế với đĩa lạc rang !
           Quất cười bỗ bã :
          - Chỉ thế thôi à?
          - Thì thế  đã! Cần gì kêu sau.
          - O K!
           Tôi quay ra cửa sồ nhìn dòng sông. Đối với tôi sông Son  thân thiết từ thuở bé. Con  sông  từ làng Vọng  qua làng tôi  xuôi xuống  Tràng  rồi đổ ra cửa biển Diêm Điền.  Ngày xưa  sông  rộng hơn  bây giờ. Tôi còn nhớ những khi  thủy triều  lên , dòng sông mênh mang, nước tràn  ngập  cánh đồng  chiều, từng  đàn cá mương, cá rói , cá chày  vùng vẫy săn mồi. Chúng tôi bắt cào cào  làm mồi câu , giật lên những con cá rói  trắng phau  như thỏi bạc.  Cuối năm âm lịch là mùa rươi. Những ngày nước rươi về, dòng sông Son  đỏ thẫm từng mảng rươi  sâm chín lúc rạng đông. Dân  làng tôi không quản rét mướt rủ nhau  đi vớt rươi. Xuồng,  ghe , bè chuối  bập bềnh trên sóng nước …  Ông  nội tôi dẫn tôi đi theo. Ông  bảo: “ Con rươi sống âm thầm dưới lòng đất, nhưng rất chung thủy với con người, tháng Chín đôi mươi, tháng  Mười mùng năm, đúng hẹn là nó ngoi lên ”.
             Làng An  bây giờ đã thay đổi nhiều. Những căn nhà  gạch  thay những mái nhà tranh,  con đường làng  rợp bóng tre ngày xưa giờ rải nhựa, ngôi đình  đã bị phá… Nhưng dòng sông Son  vẫn chảy mải miết và vẫn còn mùa rươi. 
              Chú Thập nói với tôi:
              - Có một thời người ta ngăn sông , không cho nước thủy triều lên xuống , khoanh cánh đồng  chiều thành vùng  lúa đặc sản tám xoan.  Cánh đồng trở nên nổi tiếng, được ông Tố Hữu về thăm tặng thơ, nhưng mất mùa rươi, và  dân  làng  quanh năm không được ăn một  bữa cơm gạo tám xoan nào…
              - Tại sao cấy lúa  mà không được ăn? 
               Chú Thật uống một hớp rượu, cười nhạt,  rồi nhẩn nha nói:
             - Gạo chăm , gạo tép còn chả đủ nhét đầy bụng  nữa là?  Với lại dân làng này quanh năm toàn rau muống tương cà,ăn với cơm tám nó phí đi. Chả đã có câu ca dao đó thôi: “Tiếc thay hạt gạo tám xoan, thổi nổi đồng điếu lại chan nước cà”. Vì  thế  thu hoạch được bao nhiêu  nộp lên trên bấy nhiêu . Để  bán ở cửa hàng Tôn Đản, Hà Nội …
              Chú em họ tôi  nói  chuyện bằng cái giọng tưng tửng nửa đùa nửa thật. Nhưng nghe thấy cay mắt.  Năm 1954, khi gia đình  tôi di cư,  Thập mới 7 tuổi, cứ lẵng  nhẵng đòi đi theo. Ông nội tôi gói  bọc quần áo,  bảo  bố mẹ tôi cho Thập đi cùng.  Nhưng chú Thời , em bố tôi, giật  gói quần áo lại,  chỉ tay vào mặt  bố tôi nói: “Anh đã ngoan cố  theo giặc bán nước,  còn định đưa con  tôi theo?”. Gia đình  tôi  ngày ấy đã chia thành hai phe: Bố tôi đi lính cho Pháp, chú Thời tham gia cách mạng…
            Thập kể :
            - Sau khi gia đình  bác  di cư , đội cải cách ruộng đất về làng, ông  bà nội  bị quy thành phần  địa chủ, lại có con di cư vào Nam , bị ghép thêm tội phản động. Tài sản  bị tịch thu , bị  đuổi ra khỏi nhà … 
           - Ông bà  mất năm nảo?
           - Ông mất năm sáu mươi, bà mất năm sáu tư!
           - Còn cô út?
            - Bà chết một năm thì chiến tranh lan ra miền Bắc. Cô út  đi thanh niên xung phong . Năm sáu bảy  hy sinh ở  Quảng Bình.
           Cô út hơn tôi ba tuổi. Ngày  tôi di cư vào Nam, cô út tôi vừa tròn mười tám. Cô  xinh đẹp , ngoan hiền. Ông bà nội tôi đã nhận trầu cau  hứa  gả cô út  cho con trai  ông Hào, cùng làng.  Nhưng khi ông bà nội tôi thành phần địa chủ,  ông Hào ngãng ra không cưới.   Nghe Thập kể chuyện cô út buồn,đi thanh niên xung phong rồi chết bom ở Quảng Bình , tôi  cảm thấy như có bàn tay chẹn  lấy cổ họng,  không thở được. Tôi không trách ông Hào  không cưới cô út tôi cho con trai. Thời buổi ấy , ngay  ông Thời, chú  ruột tôi,  còn cắt đứt bố mẹ , vợ con nữa là.
           Có  người khách vào quán lên gác xép, câu chuyện  hai anh em tôi  phải dừng lại.  Người mới tới  mặc bộ quân phục cũ,  khuôn mặt dài  góc cạnh, tóc bạc ,  nhìn rất khắc khổ . Nhưng dưới  cặp lông mày vừa rậm vừa đen  đôi mắt sáng, hình như tất cả tinh lực  dồn vào đôi mắt .  Tôi nhìn ông  thấy quen quen, hình như đã gặp nhau ở đâu rồi.  Ông ta cũng  nhìn tôi,  rồi hỏi chú Thập...
           - Có phải đây  là?
           Chú Thập hồ hởi giới thiệu:
           - Vâng, đây là anh Thực   con bác Thụ , tôi vẫn kể với anh.
           Rồi Thập quay sang  tôi:
           - Đây là anh Lẫm con bác  Khán    ngoài xóm trại. Bạn chăn trâu với anh đấy! Anh Lẫm nói đã từng gặp anh sau Hiệp định Paris
           Lẫm chìa tay về phía tôi. Tôi đứng lên dè dặt cầm  bàn tay  xương xảu của Lẫm.  Mắt  Lẫm  sáng hẳn lên nhìn tôi , miệng cười cởi mở:
           - Bạn cũ gặp nhau  đây rồi!
           Tôi im lặng dè dặt nhìn Lẫm. Anh nói tiếp:
          - Còn nhớ bạn bè chứ?
          - Vâng, nếu anh vẫn cho phép tôi gọi như thế!
          - Không  bạn bè thì là gì? Còn nhớ trèo cây thị nhà cụ Chánh  hái trộm không?  Cả chuyện đánh đáo lỗ  ở sân đình Kênh …
          Chủ quán chọn đúng lúc thò cái  đầu trọc lên gác:
           - Có con mực  ngon tuyệt!  Các bác phải ăn  mừng hội ngộ chứ ạ!
          Chú em tôi nói:
         - Cho  một đĩa  luộc, một đĩa lòng!
         - O K! Có ngay!
          Tôi mời  Lẫm  ngồi vào bàn. Anh không  tỏ ra khách sáo,  ngồi xuống cạnh chú Thập .   Đĩa thịt  mang  lên , chúng tôi chạm ly. Lẫm móc túi áo, lấy gói thuốc lào vê một điếu rõ to  châm lửa hút, nhìn tôi qua làn khói , trầm ngâm suy nghĩ, rồi nói với Thập:
           - Tôi với ông Thực   đã choảng nhau  chí tử  ở chân núi Bà Đen…
           Đó là vào mùa  khô  năm 1973, sau  khi hiệp định Paris vừa ký kết. Tôi chỉ huy một đại đội bộ binh ở khu vực Mỏ Công  chân núi  Bà Đen. Đối diện với đơn vị tôi , chỉ  cách một con kinh nhỏ, phía   bên kia là  đơn vị Việt cộng.  Theo  hiệp định Pari,  hai bên  giữ nguyên vị trí . Những ngày đầu đối xử  với nhau khá thân thiện, hai bên mời nhau hút thuốc lá , nói chuyện tếu . Viên trung úy chỉ huy đơn vị Việt cộng  thỉnh thoảng cũng  xuất hiện,  không ngăn cấm binh lính nói chuyện tếu,  vẻ mặt khá  cởi mở . Một lần tôi  hỏi:
           - Anh quê đâu?
           Anh ta cười đáp:
           - Thái Lọ!
           - Làng nào?
           - Làng An.
           - Vậy anh là đồng hương với tôi!
           Chưa kịp làm quen thì bỗng  một đêm bất ngờ phía Việt cộng nổ súng  chiếm hết con kinh. Khi  bị đánh bật trở lại vị trí cũ, viên  trung úy  nói với tôi :“Mọi quyết định do trên. Tôi với anh là người lính, phải thi hành mệnh lệnh”.
            Không ngờ hơn bốn chục năm sau tôi và anh Lẫm lại gặp nhau ở quê nhà. Lẫm hỏi tôi :
            - Trận ấy bên anh mất mấy người?
            - Chết 2 bị thương 3. Còn bên anh?
            - Chết 3 bị thương 1!
             Anh  Lẫm bảo:
             - Rốt cục gà cùng một mẹ đá nhau!  Trong trận ấy chú Phúng con ông Phú làng ta  hy sinh. Anh có còn nhớ ông Phú không?
             - Có phải ông Phú quanh năm cởi trần đóng khố dậm cá bống dưới sông Son?
            - Phải! Tên là Phú nhưng nghèo. Đã nghèo của lại nghèo con. Hai ông  bà có mỗi chú Phúng   thì  hy sinh năm  hai  bảy tuổi , chưa kịp lấy vợ , giờ không có ai cúng giỗ. Cái bằng “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”không có người nhận.
             Ngừng một lát, anh Lẫm  nói với tôi:
            - Năm ngoái tôi  quay lại núi Bà Đen  tìm hài cốt  chú Phúng và  hai đồng đội hy sinh trận đó. Không đi thì áy náy, đi về càng buồn…
            - Không tìm được à?
            - Được cũng như không!
             Lẫm  kể:
             - Năm đó tôi  chôn trung đội trưởng  Phúng và hai chiến sỹ gần  bụi tre.  Anh còn nhớ bụi tre  gần  mỏm núi đầu sư cụ không?  Hơn bốn mươi năm sau quay lại, bụi tre  đó đã biến mất,  loay hoay  gần buổi sáng  mới   tìm thấy dấu vết mỏm đá đầu sư cụ.  Người ta phá núi lấy đá làm đường.  Cũng may ba nấm mộ  dưới khe  chưa bị phá. Nhưng  nước mưa đã san bằng, cây cối đã mọc kín. Tội nghiệp, họ   nằm đây suốt bốn chục năm không  ai nhìn ngó .  Tôi thắp mấy nén nhang khấn xin chú Phúng và hai  đồng đội tha thứ, rồi hăm hở cầm xẻng đào.  Muốn đào ngay lên xem xương cốt của anh em ra sao. Tim  đập thình thịch vì hồi hộp. Lâu ngày đất đã  cứng , rễ cây chằng chịt. Mấy anh em thay nhau đào bới  toát hết mồ hôi, rồi ngẩn ngơ thất vọng.  Xương thịt chú Phúng và hai người lính đã bị kiến, mối, rễ cây ăn hết, chỉ  còn lại  ba đôi dép cao su và những mảnh vải nhựa  nát vụn. Người ta nói tóc  lâu tiêu nhất,  nhưng cũng không còn sợi nào. Tôi  lấy tay bóp nặn cẩn thận, cố tìm một mẩu xương,  nhưng thất vọng. Tất cả đã thành đất . Mắt mấy  người cùng đi với tôi đều đỏ hoe. Một người nói:
         - Chả còn gì ! Thế này thì đào lên làm gì?
         Một người khác xuê xoa:
         - Thôi thì  để  cho  thân nhân họ yên lòng!
          Tôi bốc ba nắm đất gói  vào ba lá cờ, viết tên từng liệt sỹ rồi mang về. Hai liệt sỹ quê  ở Hưng Yên, chúng tôi  mang trao tận tay cho gia đình , còn  chú Phúng giao cho chính quyền xã  làm lễ truy điệu,  an táng ở nghĩa trang Vũ Hạ. Nhìn  người thân liệt sỹ ôm gói đất mừng mừng tủi tủi, tôi vừa buồn vừa xấu hổ. Nghĩ  đến  bây giờ rồi  mà mình vẫn còn lừa dối người ta.  Có tí  xương  nào đâu mà bảo hài cốt ? Nhìn người ta nâng niu, khóc, và trầm lắng trước một nắm đất vô tri vô giác, lương tâm ray rứt quá!
           Anh Lẫm  vê điếu thuốc lào nữa cho vào  điếu cày châm lửa hút, làn khói  trùm kín cả khuôn mặt  khắc khổ. Lẫm bảo anh  bị  mất ngủ từ dạo đó. Cứ chợp mắt là  hồn ma những người lính  hiện về , đứng ngay ở đầu giường. Có người khóc, có người tỏ thái độ căm giận. Nhiều đêm  anh  thức trắng từ chập tối đến sáng. Lẫm cười chua chát:
           - Bác sỹ  bảo tôi bị thần kinh hoang tưởng. Đảng thì chụp cho cái mũ “ nhụt lý tưởng”…            
           Có tiếng ồn ào bên dưới, tôi nhìn qua cửa sổ thấy người lố nhố ở chân cầu ,  nhưng không nhìn rõ họ làm gì vì những tầu lá chuối  ướt đẫm nước mưa che khuất.  Ngay lúc đó anh chủ quán xồng xộc chạy lên gác nói hốt hoảng:
          - Có người tự tử  các bác ạ!
           Chú Thật hỏi:
          - Ai?
          - Là  chị Xuân ở thôn Trung.
           Anh Lẫm nói:
           - Mới tháng trước  một vụ tự tử vì thua đề .
           Chúng tôi trả tiền rượu thịt  , rồi xuống chân cầu. Người   xúm đen xúm đỏ.  Xác nạn nhân đã vớt lên  mặt cầu,  đắp chiếu  chờ công an  huyện về khám nghiệm. Trời u ám, lất phất mưa, mấy cây nhang tắt ngấm.  Người làng bàn tán  về chị  Xuân,  chồng làm cán bộ  hải quan ở Hải Phòng  lấy vợ bé…       
          Chú Thập  nói với tôi:
           - Cô Xuân là con ông Hạo. Ông Hạo ra lệnh phá đình, bị ung thư chết, giờ con gái tự tử, không  biết có phải  quả báo không?
            Thím dâu tôi cũng có mặt ở đó, nói với chúng tôi:
           - Cái cô Xuân dại . Mình chết thì thiệt mình. nó có thương mình đâu? Còn mừng là đằng khác!  Ngày ông Thời  bỏ tôi lấy người khác, tôi chỉ lo mình chẳng may chết  để con bơ vơ... 
           Đã hơn tám chục tuổi nhưng thím dâu tôi còn khỏe mạnh.  Trên khuôn mặt hiền lành phúc hậu của thím  ẩn  nỗi buồn thầm kín. Tôi còn nhớ hồi còn trẻ  thím dâu tôi  không đẹp, không xấu, chỉ bình thường thôi. Thím có khuôn mặt trái xoan hơi gầy,nước da vàng vàng , được cái đôi mắt to, lông my dài , lòng trắng trong trẻo .
             Thím tên Cải, là con ông  Phó  xóm dè. Gia đình ông Phó  cũng thuộc loại khá giả , tương xứng với gia đình ông bà nội tôi. Có lẽ vì thế mà hai người kết thông gia với nhau.
             Thím Cải lấy chồng năm 17 tuổi, năm 18 sinh con trai đầu lòng, là Thời. Thím là người đảm đang công việc và rất căn cơ nên được  ông bà nội tôi  yêu quý.  Từ  ngày  gia đình tôi di cư vào Nam ,  một mình thím  chèo lái con thuyền đắm là gia đình ông bà nội tôi. Trong hoàn cảnh bố  mẹ chồng, bố mẹ đẻ  đều là địa chủ ,  chồng bỏ rơi ,từ  hai bàn tay trắng  thím đã tần tảo  nuôi hai bên nội ngoại, rồi mua lại  ngôi nhà của ông bà nội tôi hồi cải cách  bị tịch thu chia cho bần cố nông.  Thím nói với tôi:
            - Nhờ cái cối giã cua của  bà đấy. Đội  cải cách chia cho bần nông, họ  ngại nặng bỏ lại, bà xin  mang  ra gốc đa cuối chợ làm nghề bún riêu cua.  Tôi với cô út mỗi người một cái giỏ, một cái lẹm, mò mẫm hết cánh đồng chiều thì sang đồng Ngân, đồng Lác. Mỗi ngày  bắt được hai giỏ cua. Tối về lột mai , khêu gạch rồi giã cua , chẻ rau  muống, thái chuối non. Đêm nào cũng kỳ cạch từ chập tối đến khuya, để  sáng sớm có nồi riêu cua dọn ra gốc đa cho bà ngồi bán.
             Quán riêu cua của thím tôi  nổi tiếng khắp vùng. Những phiên chợ chính  nấu hai nồi cũng không đủ bán. Những bát bún  riêu nóng hồi , gạch cua vàng tươi, thơm nức ăn kèm với rau muống chẻ nhỏ , giá năm xu, vừa túi tiền  những người buôn thúng bán bưng  phiên  chợ quê. Nhờ tích cóp từng đồng bán riêu cua, thím Cải đã mua lại được ngôi nhà của ông bà nội tôi.  Hơn tám chục tuổi mà thím Cải còn nhớ dai lắm. Thím kể lại câu chuyện như nó mới xảy ra hôm qua hôm kia:
          - Ngôi nhà cùa ông ba gọng bừa, năm gian nhà trên, bốn gian nhà ngang, tường hoa  sân gạch . Ba người được chia cãi vã nhau quanh năm.  Rồi chả ai bảo ai  dỡ hết cánh cửa chính cửa sồ, cửa buồng ra bán . Những cánh cửa  gỗ mít ông bà quý hơn vàng  họ bán cho người ta có mấy đồng bạc . Rồi  dỡ  mái  nhà bán ngói và đòn tay rui mẻ gỗ xoan, lấy rạ lợp thay vào. Gạch dưới sân cũng nạy lên bán. Cuối cùng   mấy  chục cây mít, cây bưởi  trong vười cũng chặt làm củi bán hết.  Chỉ còn mỗi cây khế bên cầu ao họ không chặt bán vì gỗ khế xốp, củi không đượm  không ai mua, vả lại cây khế còn treo cái kẻng của hợp tác, họ không dám chặt…
             Ngôi nhà tan hoang ấy  giờ  như một ngôi biệt thự vườn khang trang . Thím Cải cứ nhắc đi nhắc lại : “ Nhờ cái cối giã cua của bà nội anh đấy!”. Rồi thím nói với tôi :
              - Trước khi nhắm mắt bà cầm tay tôi và cô út bảo: Nhờ cái cối giã cua  mà mẹ con ta tậu lại được nhà cửa vườn ao của thầy các con. Mẹ chết đi, dù sau này các con không làm nghề bán riêu cua cũng phài giữ lấy chiếc cối!
            Thím Cải  bọc  kỹ chiếc cối  bằng một vuông vài đỏ, đặt  trên bàn thờ.  Chiếc cối xinh xinh , nhẵn bóng. Tôi rưng rưng xúc động như nhìn thấy dáng bà nội tôi, cô út tôi đang lom khom giã từng mẻ cua đồng trong chiếc cối kia…
              Việc dời mộ ông bà tôi không khó khăn lắm. Thím dâu tôi và chú Thập  đã chuẩn bị chu đáo đâu vào đấy cả rồi. Hai ngôi mộ được xây kim tĩnh trên chỗ đất cao ráo,phần lăng mộ đã thuê người ta đúc sẵn , chỉ việc đặt  tiểu xuống dưới kim tĩnh, đạy tấm đan lại rồi  đặt  phần lăng lên trên  là xong. Điều tôi hồi hộp nhất là không biết hài cốt ông bà  nội tôi có còn không. Câu chuyện anh Lẫm kể cứ ám ảnh tôi mãi.  Nhưng thím dâu tôi khẳng định hai cốt ông bà nội tôi vẫn còn nguyên.Thím ấy nói:
           - Ba người ấy chôn nông, không có áo quan , giữa núi non như thế  mối nó xông  mới mục nát đi, chứ đằng này ông bà nội  anh  tôi đã sang cát cẩn thận lắm, tiêu làm sao được?
           Nghe thím tôi nói tôi yên tâm một chút, nhưng vẫn muốn mở  nắp tiểu ra tận mắt nhìn xương cốt ông bà nội.  Khi ông bà nội tôi mất, bố mẹ tôi và tôi đều không có mặt. Giờ bố mẹ tôi đều đã chết, tôi muốn được thay mặt bố mẹ tôi nhìn ông bà nội tôi lần cuối cùng. Mấy chục năm qua, có lẽ đó là giây phút hồi hộp và xúc động nhất trong đời tôi. Khi hai chiếc tiểu sành vừa được chú Thập và mấy người bê  lên từ dưới lòng đất, tôi quỳ thụp xuống , nước mắt trào ra .  Hình ảnh ông nội tôi cầm chiếc vợt đứng trên bè vớt rươi năm nào hiện lên trước mắt tôi.   Ngày đó ông nội tôi mới  60 tuổi, nhưng khó nhọc từ bé nên nhìn già lắm, hai má lõm sâu.  Ông tôi được học một ít chữ nho, không biết chữ quốc ngữ , quanh năm làm lụng vất vả tạo dựng lên một cơ nghiệp rồi bị cướp trắng tay.  Trời ơi, ông bà nội! Tôi bật khóc như một đứa trẻ khi nhìn thấy những mẩu xương vụn nát mầu nhợt nhạt của ông bà nội tôi…
            Bà con trong họ và hàng xóm đến “mừng  nhà mới” ông bà  nội tôi rất đông. Bữa tiệc sắp tàn thì có chiếc xe con chạy vào tận ngõ. Một người đàn ông khoảng năm chục tuổi mặc véc đen xuống xe, dè dặt bước vào. Sau khi lễ phép chào mọi người, anh ta nói:
        - Thưa các ông các bà! Cháu là Thành , con của bố Thời!
        Mọi người đổ xô nhìn người khách lạ, bàn tán. Ông Thời cắt đứt cha mẹ, vợ con, bỏ làng  đi  gần sáu chục năm không một lần  đoái hoài , bây giờ bỗng dưng có người con xuất hiện đúng ngày xây mộ mới cho ông bà nội tôi.  Chú Thập đang ngồi bên tôi và Lẫm đứng bật, miệng há hốc ra hầm hầm  bước tới trước mặt người khách lạ. Thím Cải buông rơi chiếc cối giã trầu trong tay…
         Người đàn ông tên Thành hình như đã lường trước tình huống căng thẳng,chắp hai tay vái thím Cải , và nói với mọi người bằng giọng nói rất chân thành:
        - Bố cháu mới mất tuần trước!
         Nghe mấy câu đó không khí bỗng chùng hẳn xuống. Thành cho mọi người biết chú Thời nghỉ hưu đã hơn hai chục năm, nhưng bị tai biến mạch máu não phải nằm một chỗ. Cách đây một tuần đột nhiên tỉnh táo, dặn vợ con  sau khi mình chết thì  hỏa thiêu  mang tro cốt về quê an tang bên cạnh cha mẹ. Thành nói:
          - Bố cháu  bảo , con thay mặt bố  lạy ông bà , xin ông bà tha thứ cho bố. Còn sống bố không dám gặp ông bà. Nay xin ông bà tha thứ cho bố gặp nơi suối vàng...
          Thím Cải vén vạt áo lau nước mắt. Khuôn mặt Thời bình tĩnh trờ lại . Tôi bắt tay Thành và tự giới thiệu về gia đình mình. Thành nói :
         - Bố em cũng có nhắc đến bác Thụ, anh Thập và anh.
          Không khí trở nên thân mật. Thập thắp ba  nén nhang  cho Thành  lạy ông bà nội , rồi mời ngồi chung bàn với tôi và Lẫm. Cuộc hòa giải tưởng vô cùng khó khăn , ai ngờ rất đơn giản. Thành nói hôm nay về quê,  là như đi tiền trạm,nếu thím Cải và gia đình cho phép thì sau 49 ngày sẽ đưa tro cốt ông Thời về …
           Đêm ấy tôi thấy thím cải không ngủ. Thím ngồi một mình ở góc giường cạnh bàn thờ nhai hết miếng trầu này đến miếng khác. Tôi hỏi thím Cải:
          - Thím có đồng ý đưa tro cốt chú về bên ông bà nội con không?
          Thím cải nói:
          - Chắc ông ấy cũng bị dày vò lắm rồi! Thôi thì để ông ấy toại nguyện!
          - Vậy sao thím không ngủ?
          - Nước rươi sắp lên người váng vất không ngủ được!
           Tôi cũng nghĩ như thím Cải. Bao năm qua  hình ảnh chú Thời chỉ vào mặt ba tôi mắng nhiếc  in đậm trong lòng tôi, giờ đã vơi nhẹ .  Chú cũng là một  người hiền lành chân chất như ông nội và bố tôi, chỉ vì chất men lý tưởng đã làm chú quá say mà trở nên như thế.
          Gần sáng hôm đó Lẫm đến rủ tôi đi vớt rươi. Chúng tôi ngồi trên chiếc ghe nhỏ chèo ra giữa dòng sông Son. Lẫm vừa lái vừa soi đuốc, tôi cầm vợt vớt rươi. Dòng sông  mới chiều qua còn hẹp, chảy từ từ, giờ  triều lên mênh mang cuồn cuộn, thuyền, ghe, bè mảng bập bềnh trong ánh đuốc. Tôi bỗng như sống lại quãng tuổi thơ ngắn ngủi, và lời ông nội tôi văng vẳng bên tai tôi: “Con rươi sống âm thầm dưới lòng đất nhưng rất thủy chung với con người. Tháng Chín đôi mươi, tháng Mười mùng năm đúng hẹn lại lên!”. Tôi cầu mong đừng bao giờ mất đi những mùa rươi cũng như những mùa hội hè khác. Tôi cầu mong con cháu chúng tôi không phài chịu cảnh chia xa như ông cha tôi và chúng tôi…                  
Đêm cuối năm 2014
    M T
--------------                                           

21 nhận xét:

  1. 2 tuần trước tôi đọc trên báo "TT và ĐS" có bài nói về 1 ông bộ đội kể "Đơn vị của ông 600 người sau chiến dịch chỉ còn 100"!
    Thanh niên chết vô kể, để giờ đây...

    Trả lờiXóa
  2. Viết hay quá. Đọc rớt nước mắt. Cần thật nhiều, thật nhiều những cuộc hòa giải như thế này. Đừng moi móc chửu bới, đùng bắt bớ nhau nữa . Hãy tha thứ cho nhau. Con rươi dưới lòng đất còn thủy chung huống hồ con người. Xin cảm ơn Minh Tâm và đại tá Bùi Văn Bồng .

    Trả lờiXóa
  3. Cảm ơn ông MT, cảm ơn ông chủ trang.
    Đọc xong bài viết, tôi thấy có mình trong đó. Ôi, một thời thơ ấu đã qua! Và tôi đã khóc không phải cho riêng mình mà cho tất cả nhân vật xuất hiện trong bài này.
    Vì đâu nên nỗi?!

    Trả lờiXóa
  4. Nhiều trận còn đi sạch nhưng không ai được phép có thông tin gì cho riêng mình, nên giờ toàn mang tên Liệt sĩ VÔ DANH!

    Trả lờiXóa
  5. truyện hay và cảm động quá,cang thương đất nước mình đã chịu nhiêuf cảnh sẻ nghé tan đàn

    Trả lờiXóa
  6. Bài viết thật cảm động...Mong rằng các đ/c ta đừng bao giờ gây ra cảnh huynh đệ tương tàn.
    Chỉ đánh ngoại xâm thôi...Người cùng một mẹ (Con Lạc Cháu Hồng) đừng bao giờ bắn giết nhau nữa!

    Trả lờiXóa
  7. Đạo đức, nhân cách con người, mà có những kẻ, không bằng con rươi. Câu chuyện sâu sắc, cảm động và nhiều ý nghĩa!

    Trả lờiXóa
  8. Tôi đọc cũng rớm nước mắt! Ở tuổi tôi hồi đó tôi cũng đã có mặt tại các cuộc đấu tố. Tôi chẳng hiểu gì hết, song cũng thấy thương mấy người làng bị trói giam ở cột cờ ngoài sân giữa nắng hè. Trẻ con chúng tôi thấy vậy nửa đùa nửa thương đi nhặt khế rụng xé ra cho ăn. Cho đến đâu họ ăn hết đên đó.
    Bố mẹ tôi là đảng viên cũng suýt bị bắt, may mà nhà không có gì. Nếu như có ổ lợn nái, con bò con trâu gì đó thì bố mẹ tôi không tránh khỏi. Sau này mới biết may nhà mình nghèo!
    Tôi nằm gần nhà chỗ họp nghe câu: Nhà thằng (tên bố tôi) có đếch gì mà bắt cho mất công!
    Thế đấy, nghèo cũng có cái may của nghèo đấy các bác ạ!
    Cảm ơn tác giả MT và ĐT thủ trưởng BVB!

    Trả lờiXóa
  9. Bài viết của MT rất gần gũi cảnh người vật ,thiên nhiên của KIM SƠN - PHÁT DIỆM quê mình . Rất cám ơn tác giả MT .

    Trả lờiXóa
  10. Mỗi lần đọc truyện ngắn của tác giả Minh Tâm viết về chủ đề này tôi đều thấy buồn vô hạn , một nỗi buồn khó nói thành lời ! ông bà nội tôi ở Thủy Nguyên - Hải phòng cũng bị quy địa chủ thời cải cách ruộng đất , rồi cũng phải quỳ trước sân đình để ông con nuôi đấu tố " thằng này con kia " ...! Khi lớn lên , mỗi lần nghỉ hè về quê thăm bà nội , tôi nhìn cơ ngơi của ông bà : một ngôi nhà nhỏ 3 gian lợp ngói với một cái ao nhỏ thả rau muống và thầm nghĩ tài sản của ông bà có thế này mà sao lại là địa chủ được nhỉ ? có phải cái lũ " đội cải cách ruộng đất " thời đó muốn vu oan giá họa cho ai thì chỉ cần quy cho là địa chủ thì coi như " xong " ! Cái tội tày trời này do ai , do cái đảng nào gây ra vậy ? Ấy thế mà cách đây không lâu chúng lại còn bày ra cái trò " triển lãm thành tựu cải cách ruộng đất " nửa dơi nửa chuột , dối trá một cách trơ trẽn ! Thiên hạ chửi rát tai đành phải " cúp đuôi chuồn thẳng " không kèn không trống .

    Trả lờiXóa
  11. Tui đọc bài này lòng quặn đau trước cảnh nước nhà điêu linh vì ý thức hệ , tranh giành ngôi vị bá chủ , lãnh tụ lãnh đạo-cai trị đất nước hình chữ S này , làm cho hàng triệu thanh niên lao vào bắn giết nhau ,đau đớn thay .
    Thẳng thắn trung thực mà nói đây là cuộc chiến Nam -Bắc vô nghĩa , tất cả dân ta chỉ là con tốt trên bàn cờ của các nước lớn .
    Ươc mong một ngày nào đó , lãnh đạo nhà nước của đất nước có tự do -dân chủ - nhân quyền đúng nghĩa , cùng người dân đến thắp hương cầu nguyện cầu siêu cho các chiến binh 2 phía trận tuyến được siêu thoát , lúc đó lòng người VN mới được THỐNG NHẤT - HÒA GIẢI .
    Mong lắm thay .
    Cảm ơn t/g MT và chủ nhà dăng bài viết hay . thanks.

    Trả lờiXóa
  12. Người ta có thể bực mình với lãnh đạo ngu nhưng cũng nghèo.
    Nhưng người ta không thể chịu đựng, vá tất yếu là căm hờn, không muốn sống chung, vớibọn nãnh đạo tham lam vô độ, vô đạo đức!

    Trả lờiXóa
  13. Rất chân thật những con người của hôm qua và hôm nay. Ông Thời cắt đứ bố mẹ , ông Lẫm bắn vào những người mới hôm trước nhận đồng hương...Tất cả chỉ tuân theo sự lãnh đạo của đảng. Hãy để nó qua đi . Hãy tha thứ cho nhau, tìm lại nhau. Câu nói của thím Cải rất hay " Chắc ông ấy cũng dằn vặt lắm rối!" Con rươi còn chung thủy sao con người lại xa lánh nhau. (Lê Văn Danh , Đại học quốc gia Hà Nội )

    Trả lờiXóa
  14. Lâu rồi mới đọc được một câu chuyện ngắn cảm động , như chạm vào tận tim can người đọc. Dù vật đổi, sao dời , giặc dã can qua , thế thái nhân tình đảo lộn nhưng tình máu mủ, ruột thịt vẫn chảy mãi , nối tiếp nhau từ đời này qua đời khác. Đó chính là văn hóa Việt, là sức mạnh Việt , là côi nguồn cho dân tộc Việt tồn trường dù có thế lực chính trị nào , kẻ ngoại bang nào cũng không thể khuất phục được.

    Trả lờiXóa
  15. Nhận xét 10:18 rất đúng. Một truyện ngắn rất cảm động . Bởi vỉ nó chân thực, nhân văn đúng bản chất con người Việt Nam.

    Trả lờiXóa
  16. Tôi không bỏ qua bất kỳ bài viết nào của Minh Tâm. Những bài viết của ông luôn gợi cho người đọc suy nghĩ về nhân tình thế thái, về cuộc đời. Và ông viết lời văn mộc mạc của người từng trải gần gũi với người nông dân miền Bắc chúng tôi.Nhân vật ông Lẫm trong chuyện này là rất thực. Tôi đã từng chỉ huy một đại đội sau Hiệp định Paris. Với chủ trương xáa thế cài răng lược chúng tôi được lệnh đánh tràn sang phía đối phương.Nhân vật ông Thời cũng là thật. Trong cải cách ruộng đất con cái là đảng viên hầu hết tuyên bố cắt đứt gia đình. Cái kết của truyện rất nhân hậu : Hãy tha thứ cho nhau và mong con cháu sau này không phải chịu cảnh như mình.

    Trả lờiXóa
  17. Truyện Mùa Rươi rất hay và cảm động. Cảm ơn Minh Tâm-Bùi Văn Bồng.(Thượng tá Nguyễn Văn Thân )

    Trả lờiXóa
  18. Hồn ma Hít Le:
    Nhờ anh Mẽo và chú Ba Tàu tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam...Thúc đẩy cuộc chiến đi đến đẫm máu và ác liệt giữa Nam và Bắc Việt nam mà dân số VN ngày nay có 90 triệu người. Nếu không có chiến tranh thì dân VN hiện nay đã hơn 500 triệu, làm gì còn đất cho các bác bán nữa.
    Trong họa lại có phúc ...
    Hảo lớ hảo lớ!

    Trả lờiXóa
  19. Những truyện ngắn của Minh Tâm thường nói về những ký ức của thời xa vắng , buồn thăm thẳm .

    Hình như không phải ông viết mà nhân vật tự cất lên thành lời . Tôi rất thích lối viết văn súc tích mà hàm nghĩa cao của Nam Cao và Phùng gia Lộc , và đặc biệt hay khi họ viết về nông thôn và người nông dân , nhưng tiếc thay cả hai ông không thể tiếp tục viết được nữa . May thay giọng văn của Minh Tâm đã làm tôi vơi bớt nỗi nhớ về họ , có lẽ đề tài nông thôn , chiến tranh và sự đau đớn , chia ly đã trở thành thương hiệu của ông . Thật lạ là người ta thường hay đọc và hay nhớ những gì đau đớn , chia ly , cách trở nhiều hơn là những cái gì cứ vống lên , tươi hơn hớn , nhưng không thật và chóng tàn , kiểu :

    “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm “ .

    Hay :

    “ Như mắt em sáng lên muôn niềm tin “

    “ Còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân “

    Nếu nhân vật “ Thím cải “ đã nhai rất nhiều trầu vì suy tư , thì tôi thường phải hút rất nhiều thuốc mỗi khi được đọc những truyện ông viết . Cảm ơn Bác Minh Tâm .

    Để gió cuốn đi

    Trả lờiXóa
  20. Do đâu mà có cảnh này
    con không nuôi mẹ chửi cha tối ngày
    cải cách tưởng để đổi thay
    ai dè vạ gió tai ba cả nhà

    Trả lờiXóa
  21. Thật xúc động, câu chuyện rất hay, đọc mà mường tượng ra được cả 1 giai đoạn lịch sử của đất nước, quê hương.

    Trả lờiXóa