Một sự giới hạn khác nữa của kinh tế học tự do là
những phân tích của nó thường ở trạng thái đứng im. Ít nhất là trong ngắn hạn,
các nhu cầu tiêu dùng, khung thể chế, và môi trường công nghệ được giả định là
không thay đổi.
Chúng được xem như là những giới hạn và những cơ hội mà trong
đó các quyết định kinh tế và các sự đánh đổi được thực hiện. Các câu hỏi về
nguồn gốc, hay các phương hướng, của các thể chế kinh tế và bộ máy công nghệ là
những vấn đề thứ yếu đối với những nhà tự do. Các nhà kinh tế học tự do là
những người tiệm tiến, tin rằng những cấu trúc xã hội thường thay đổi một cách
chậm chạp khi phản ứng lại những thay đổi giá cả. Mặc dù những nhà kinh tế tự
do cố gắng phát triển lý thuyết về sự thay đổi kinh tế và công nghệ, các biến
số quan trọng về xã hội, chính trị, và công nghệ ảnh hưởng tới sự thay đổi
thường được coi là đến từ bên ngoài và nằm ngoài biên giới của các phân tích
kinh tế. Như những nhà Mác xít đã chỉ ra chủ nghĩa tự do thiếu một lý thuyết về
sự vận động của kinh tế chính trị thế giới và thường đưa ra các giả định về sự
ổn định và tính chất của hiện trạng kinh tế.
Kinh tế học tự do, với quy luật tối đa hóa lợi ích,
được dựa trên những giả định khá hạn chế. Không xã hội nào đã từng hoặc có thể
chỉ bao gồm những “con người kinh tế” thực sự của lý thuyết tự do. Một xã hội
vận hành đòi hỏi các mối quan hệ tác động qua lại và sự nhún nhường các lợi ích
cá nhân vì lợi ích xã hội lớn hơn; nếu không thì xã hội sẽ sụp đổ (Polanyi,
1957). Dẫu vậy, xã hội Tây Âu đã tiến xa trong việc kìm hãm xu hướng cơ bản của
con người là hành động quá đáng vì lợi ích bản thân để có một nền kinh tế và xã
hội tốt hơn (Baechler, 1971). Thông qua việc giải phóng cơ chế thị trường thoát
khỏi các hạn chế xã hội và chính trị, văn minh phương Tây đã đạt được đến một
mức độ giàu có chưa từng có và đã đặt ra một hình mẫu cho những nền văn minh
khác muốn cạnh tranh với nó. Tuy nhiên, nó đã đạt được điều đó với cái giá phải
trả là đánh mất những giá trị khác. Như kinh tế học tự do đã chỉ rõ, không có
gì đạt được mà không phải trả giá.
Đánh
giá chủ nghĩa dân tộc kinh tế
Sức mạnh quan trọng nhất của Chủ nghĩa dân tộc kinh tế
là việc coi nhà nước như là chủ thể quan trọng trong quan hệ quốc tế và là một
công cụ phát triển kinh tế. Mặc dù nhiều người cho rằng sự phát triển kinh tế
và công nghệ hiện đại đã làm cho quốc gia-dân tộc trở nên lỗi thời, nhưng vào
cuối thế kỷ 20 hệ thống quốc gia-dân tộc thực sự đang mở rộng; các xã hội trên
thế giới đang tìm cách để tạo ra các nhà nước mạnh có đủ khả năng tổ chức và
quản lý nền kinh tế quốc gia, và số quốc gia trên thế giới đang gia tăng. Thậm
chí ở các quốc gia ra đời sớm hơn, tinh thần dân tộc chủ nghĩa có thể dễ dàng
được thổi bùng lên, như đã xảy ra trong cuộc chiến tranh Falkland
năm 1982. Mặc dù những chủ thể khác như các tổ chức quốc tế và liên quốc gia
tồn tại và có ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế, hiệu quả kinh tế và quân sự của
quốc gia làm cho nó vượt trội hơn các chủ thể khác.
Sức mạnh thứ hai của chủ nghĩa dân tộc nằm ở sự nhấn
mạnh của nó đối với tầm quan trọng của các lợi ích chính trị và an ninh trong
việc tổ chức và tiến hành các quan hệ kinh tế quốc tế. Không cần chấp nhận sự
nhấn mạnh của chủ nghĩa dân tộc đối với tầm quan trọng của an ninh thì người ta
cũng phải thừa nhận rằng an ninh quốc gia là điều kiện cần đầu tiên để có được
sức mạnh chính trị và kinh tế trong một hệ thống các quốc gia cạnh tranh và vô
chính phủ. Một quốc gia mà không thể đảm bảo được an ninh cho mình thì không
thể giữ được độc lập. Mặc cho mục tiêu của xã hội là gì đi chăng nữa, tác động
của các hoạt động kinh tế đối với sự độc lập chính trị và phúc lợi trong nước
luôn luôn đứng đầu trong các mối quan tâm của các quốc gia (Strange, 1985).
Thế mạnh thứ ba của chủ nghĩa dân tộc là sự đề cao
khuôn khổ chính trị của các hoạt động kinh tế, việc công nhận thị trường phải vận
hành trong một thế giới của các quốc gia và các nhóm cạnh tranh lẫn nhau. Mối
quan hệ chính trị giữa các chủ thể chính trị ảnh hưởng tới sự vận hành của thị
trường cũng giống như thị trường ảnh hưởng các mối quan hệ chính trị. Thực ra,
hệ thống chính trị quốc tế tạo thành một trong những cản trở quan trọng nhất và
là nhân tố quyết định thị trường. Bởi vì các nhà nước tìm cách tác động tới thị
trường theo hướng có lợi nhất cho mình, vai trò của quyền lực là hết sức quan
trọng trong việc tạo ra và duy trì các quan hệ thị trường; thậm chí ví dụ cổ
điển của Ricardo về sự trao đổi len của Anh lấy rượu Bồ Đào Nha không thoát
khỏi ảnh hưởng quyền lực của nhà nước (Choucri, 1980). Như Carr đã lập luận,
thực sự mỗi hệ thống kinh tế phải dựa vào một cơ sở chính trị vững chắc (Carr,
1951).
Một điểm yếu của chủ nghĩa dân tộc là khuynh hướng tin
rằng quan hệ kinh tế quốc tế luôn luôn là một trò chơi có tổng bằng không, có
nghĩa là một quốc gia được lợi thì nhất thiết quốc gia kia phải thua thiệt.
Thương mại, đầu tư, và các quan hệ kinh tế khác được các nhà dân tộc chủ nghĩa
chủ yếu coi là mang tính đối kháng và bên được bên thua. Dẫu vậy, nếu hợp tác
xảy ra, thị trường có thể mang lại những lợi ích cho tất cả các bên (mặc
dù không nhất thiết phải bằng nhau), như những nhà tự do đã khẳng định. Khả
năng có được lợi nhuận cho tất cả mọi người là nền tảng của nền kinh tế thị
trường thế giới. Một điểm yếu khác của chủ nghĩa dân tộc bắt nguồn từ thực tế
rằng sự theo đuổi quyền lực và theo đuổi sự giàu có thường mâu thuẫn lẫn nhau,
ít nhất là trong ngắn hạn. Phát triển và thực thi sức mạnh quân sự cũng như
những dạng quyền lực khác dẫn đến những phí tổn đối với xã hội, làm giảm hiệu
quả kinh tế. Do đó, Adam Smith lập luận rằng các chính sách trọng thương của
các quốc gia thế kỷ 18 coi tiền đồng nghĩa với sự giàu có đã làm tổn hại sự gia
tăng thịnh vượng thực sự thông qua tăng năng suất lao động; ông chỉ ra rằng tốt
hơn các quốc gia nên đạt được sự giàu có thông qua các chính sách thương mại tự
do. Tương tự, khuynh hướng ngày nay đồng nhất hóa công nghiệp với quyền lực có
thể làm nền kinh tế của một quốc gia bị suy yếu. Sự phát triển các ngành công
nghiệp mà không để ý đến thị trường hoặc các lợi thế so sánh có thể làm cho xã
hội yếu đi về mặt kinh tế. Mặc dù các quốc gia khi gặp xung đột thỉnh thoảng
cần phải theo đuổi các mục tiêu và chính sách trọng thương, nhưng về dài hạn,
việc theo đuổi những chính sách như vậy có thể gây hại cho chính quốc gia đó.
Thêm nữa, chủ nghĩa dân tộc thiếu một lý thuyết thỏa
đáng về xã hội trong nước, nhà nước, và chính sách đối ngoại. Nó thường giả
định rằng xã hội và nhà nước tạo thành một thực thể thống nhất và do đó chính
sách đối ngoại thường được quyết định bởi các lợi ích quốc gia khách quan. Dẫu
vậy, như các nhà tự do đã nhấn mạnh một cách đúng đắn, xã hội là đa
nguyên, bao gồm các cá nhân và các nhóm (liên minh giữa các cá nhân) cố
gắng giành quyền quyết định chức năng nhà nước và buộc nhà nước phục vụ mục
đích chinh trị và kinh tế của mình. Mặc dù các quốc gia sở hữu các mức độ tự chủ
xã hội và độc lập khác nhau trong việc hoạch định chính sách, chính sách đối
ngoại (bao gồm chính sách kinh tế đối ngoại) phần lớn là kết quả của cuộc tranh
giành giữa các nhóm áp đảo trong xã hội. Bảo hộ thương mại và phần lớn những
chính sách khác của những nhà dân tộc thường là kết quả của các nỗ lực của một
nhân tố sản xuất nào đó (vốn, lao động, hay đất đai) để giành vị thế độc quyền
và thông qua đó gia tăng tỉ lệ lợi nhuận kinh tế của mình. Các chính sách của
những nhà dân tộc chủ nghĩa thường được thiết kế để tái phân phối thu nhập từ
người tiêu dùng và xã hội nói chung vì lợi ích của các nhà sản xuất.
Chủ nghĩa dân tộc do đó có thể được hiểu như là một lý
thuyết về xây dựng nhà nước hay là một lá chắn cho lợi ích của một nhóm các nhà
sản xuất có khả năng ảnh hưởng đến chính sách quốc gia. Không thừa nhận đầy đủ
hoặc không chịu phân biệt hai ý nghĩa của chủ nghĩa dân tộc kinh tế như trên,
các nhà dân tộc chủ nghĩa có thể sai lầm khi không áp dụng, cả ở cấp độ trong
nước lẫn trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, giả định của họ cho rằng
khuôn khổ chính trị ảnh hưởng đến kết quả kinh tế. Họ đã không tính tới một
cách đầy đủ thực tế là các nhóm chính trị trong nước thường sử dụng lập luận
của chủ nghĩa dân tộc, đặc biệt là lý do an ninh quốc gia, nhằm thúc đẩy các
lợi ích riêng của họ.
Trong khi trong quá khứ, đất đai và tư bản là những
thứ khơi dậy tình cảm chủ nghĩa dân tộc, thì trong các nền kinh tế tiến tiến
lao động đã trở thành yếu tố mang tính dân tộc chủ nghĩa và có xu hướng bảo hộ
cao nhất trong ba nhân tố của sản xuất. Trong một thế giới mà các nguồn lực sản
xuất mang tính lưu chuyển cao, lao động tìm cách sử dụng nhà nước để thúc đẩy
các lợi ích bị đe đọa của mình. Sức mạnh gia tăng của lao động trong một nhà
nước phúc lợi đương đại, như tôi lập luận dưới đây, đã trở thành một lực lượng
chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế.
Tính đúng đắn của việc nhấn mạnh bảo hộ và công nghiệp
hóa của chủ nghĩa dân tộc là khó có thể khẳng định hơn. Đúng là tất cả các tập
đoàn công nghiệp lớn phải được hậu thuẫn bởi các quốc gia mạnh vốn bảo vệ và
thúc đẩy các ngành công nghiệp trong các giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hóa và nếu không có sự bảo vệ như vậy, các ngành công nghiệp non trẻ của
các nước đang phát triển có thể sẽ không sóng sót được trước sự cạnh tranh của
các tập đoàn mạnh của các nước phát triển hơn. Dẫu vậy, cũng có trường hợp sự
bảo hộ cao ở nhiều nước đã dẫn đến việc ra đời các ngành công nghiệp kém hiệu
quả và thậm chí làm đình trệ sự phát triển kinh tế (Kindleberger, 1978). Trong
một phần tư cuối của thế kỷ 20, các nền kinh tế như Đài Loan và Hàn Quốc vốn
hạn chế chủ nghĩa bảo hộ và ưu ái các ngành xuất khẩu cạnh tranh đã hoạt động
tốt hơn những nền kinh tế các nước kém phát triển, những nước cố gắng công
nghiệp hóa phía sau bức tường thuế quan và theo đuổi chiến lược thay thế nhập
khẩu.
Sự thiên vị sai lầm của những nhà dân tộc chủ nghĩa
dành cho công nghiệp so với nông nghiệp cũng cần phải được xem xét lại. Đúng là
công nghiệp có một số lợi thế nhất định so với nông nghiệp và việc áp dụng các
công nghệ công nghiệp vào xã hội sẽ có những tác động lan tỏa và thường có xu
hướng làm chuyển đổi và hiện đại hóa tất cả các mặt của nền kinh tế vì nó giúp
nâng cấp chất lượng lao động và nâng cao khả năng sinh lợi của đồng vốn. Dẫu
vậy chúng ta phải nhớ rằng rất ít xã hội phát triển mà không có một cuộc cách
mạng nông nghiệp trước đó và một nền nông nghiệp có năng suất cao (Lewis,
1978). Thực ra, một số các nền kinh tế thịnh vượng của thế giới, ví dụ như Đan
Mạch, vành đai nông nghiệp của Mỹ, và miền Tây Cananda, đều dựa vào những nền
nông nghiệp hiệu quả (Vincer, 1952). Hơn nữa, trong tất cả các xã hội này, nhà
nước đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Một số người có thể kết luận rằng các nhà dân tộc chủ
nghĩa đã đúng khi tin rằng nhà nước phải đóng một vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế. Một nhà nước mạnh là cần thiết để thúc đẩy, và trong một số
trường hợp, là để bảo vệ các ngành công nghiệp và tạo ra một nền nông nghiệp
hiệu quả. Dẫu vậy, vai trò tích cực này của nhà nước, mặc dù là một điều kiện
cần, chưa phải là một điều kiện đủ. Một nhà nước mạnh và có chính sách can
thiệp không bảo đảm phát triển kinh tế; thực ra, nó có thể kìm hãm phát triển
kinh tế. Điều kiện đủ cho phát triển kinh tế là tổ chức hiệu quả công nghiệp và
nông nghiệp, và trong hầu hết các trường hợp điều này đạt được thông qua sự vận
hành của thị trường. Những điều kiện cả về kinh tế và chính trị này đã tạo nên
những nền công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa nhanh trong hệ
thống quốc tế đương đại.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng, cho dù điểm mạnh
và điểm yếu của chủ nghĩa dân tộc kinh tế là gì đi chăng nữa, thì chủ nghĩa dân
tộc kinh tế vẫn có những sức hút mạnh mẽ. Trong suốt lịch sử hiện đại, vị trí
quốc tế của các hoạt động kinh tế đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia. Từ thế kỷ 17 trở đi các quốc gia đã theo đuổi các chính sách phát
triển công nghiệp và kỹ thuật một cách có chủ đích. Nhằm đạt được sức mạnh quân
sự ổn định và xuất phát từ niềm tin cho rằng công nghiệp cung cấp những giá trị
gia tăng lớn hơn nông nghiệp, quốc gia-dân tộc hiện đại đã có mục tiêu chủ yếu
là thành lập và bảo vệ sức mạnh công nghiệp. Đến khi nào hệ thống quốc tế đầy
xung đột vẫn còn tồn tại, chủ nghĩa dân tộc kinh tế vẫn có những sức hút mạnh
mẽ của riêng mình.
Đánh giá chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác đã đúng khi đặt vấn đề kinh tế – việc
sản xuất và phân phối các của cải vật chất – vào hoặc gần trung tâm của đời
sống chính trị. Trong khi chủ nghĩa tự do thường bỏ qua vấn đề phân phối và các
nhà dân tộc chủ nghĩa lại quan tâm chủ yếu đến sự phân phối quốc tế của cải,
thì chủ nghĩa Mác tập trung vào cả những tác động trong nước và quốc tế của
kinh tế thị trường đối với sự phân chia của cải. Họ kêu gọi chú ý đến những
cách mà các luật lệ hoặc những thiết chế điều chỉnh thương mại, đầu tư, và
những quan hệ kinh tế quốc tế khác ảnh hưởng đến sự phân chia của cải giữa các
nhóm và các nhà nước (Cohen, 1977). Tuy nhiên, không cần phải dùng đến cách
hiểu duy vật lịch sử hay sự quan trọng của đấu tranh giai cấp mới có thể hiểu
rằng cách tạo ra và phân phối của cải là những yếu tố quyết định đến cấu trúc
xã hội và các hành vi chính trị…
(còn nữa)
------------------
dài tóa... làm cuốc xe ôm kiếm cân gạo xấu đã.....
Trả lờiXóaNói đến anh Mác là phải dài, vì căn bản anh ta cũng nói dai, nói dài, nói dở!
Xóa