Nguyên
do để Điện Biên Phủ
được cả ta và Pháp chọn làm điểm quyết chiến
* ĐẶNG VIỆT THỦY
Điện Biên Phủ được cả ta và quân Pháp chọn
làm điểm quyết chiến chiến lược, là cả một quá trình diễn ra cuộc đấu trí, đấu
lực, khi công khai, khi thầm lặng.
LTS: Ngày này 61 năm trước (7/5/1954),
Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu của quân và dân ta trong kháng chiến
chống Thực dân Pháp.
Nhắc
nhớ sự kiện này, Đại
tá Đặng Việt Thủy đã gửi tới Tòa soạn bài viết này, trân trọng
giới thiệu cùng độc giả.
Vài nét về Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ nay
thuộc tỉnh Điện Biên, trước đây thuộc tỉnh Lai Châu, có một vị trí chiến lược
quan trọng ở Tây Bắc Việt Nam cả Đông Dương. Nơi đây cũng là một vùng kinh tế
trù phú, rừng núi bao la điệp trùng đan xen những thung lũng màu mỡ.
Từ rất lâu, vùng
Điện Biên còn có tên gọi là Mường Then (Mường Trời) hoặc Mường Theng - vẫn quen
gọi là Mường Thanh. Trung tâm Điện Biên là cánh đồng Mường Thanh, nằm trên trục
đường từ Thượng Lào qua Lai Châu, xuống Sơn La, về Hà Nội… và từ Tây Nam Trung
Quốc xuống miền Trung Việt Nam, Trung Lào.
Với địa thế đó, Điện Biên đã được xem là
vùng đất mà một tiếng gà gáy, người dân ba nước (Việt Nam , Lào, Trung
Quốc) đều nghe. Cũng vì thế mà Điện Biên là điểm gặp, nơi hội tụ của nhiều dân
tộc, tiếng nói, văn hóa tộc người, phong tục tập quán khác nhau.
>> Hò kéo pháo
Bao bọc xung quanh
cánh đồng Mường Thanh là những dãy núi cao thấp khác nhau, muôn hình muôn vẻ.
Phía tây và nam là dãy núi Pú Xam Xao chạy dọc biên giới Việt - Lào, với đỉnh
cao nhất là 1.897 mét, tạo thành một dãy trường thành thiên nhiên, một bức bình
phong kỳ vĩ.
Phía bắc giáp với
Pú Xam Xao là dãy Tây Trang - một hệ thống núi đá vôi, có nhiều cây cối um tùm
và nhiều hang động tự nhiên khá hấp dẫn. Nơi đây có cửa khẩu Tây Trang - cửa
ngõ của Điện Biên và cả vùng Tây Bắc thông sang vùng Thượng Lào. Phía đông có
dãy núi cao từ 1.200 đến 1.700 mét. Từ dãy núi chính này xòe ra ba nhánh ôm lấy
cánh đồng Mường Thanh.
Cánh đồng Mường
Thanh nằm gọn giữa ba dãy núi lớn kể trên và còn được bao bọc bởi hai mươi ngọn
núi cao thấp, lớn nhỏ khác nhau. Với chiều dài gần hai mươi ki lô mét, rộng từ
sáu đến tám ki lô mét, Mường Thanh là cánh đồng phì nhiêu nhất của vùng Tây Bắc
Việt Nam .
Bởi vậy từ lâu nhân dân vùng Tây Bắc đã có
câu: “ Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”. Nghĩa là trong bốn cánh đồng, bốn vựa
lúa lớn của Tây Bắc thì Mường Thanh lớn và trù phú nhất, thứ hai là là Mường Lò
- cánh đồng Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái, thứ ba là Mường Than - tức cánh đồng
Than Uyên (Lai Châu - giáp Yên Bái), thứ tư là Mường Tấc - tức cánh đồng Phù
Yên ở phía nam tỉnh Sơn La.
Cuối cánh đồng Mường Thanh - về phía nam,
con sông Nậm Núa tỏa ra một nhánh sông có “tính khí” thất thường. Mùa nước cạn,
sông chảy hững hờ, hiền lành. Khi mưa lũ, sông trở nên hung dữ, như ngựa tụt
dây cương, nên được nhân dân đặt tên là Nậm Rốm.
Do Điện Biên ở vào
vị thế quan trọng và là miền đất trù phú nên từ xa xưa vùng đất này đã là nơi
quần tụ sinh sống của nhiều dân tộc anh em. Những dân tộc định cư lâu đời nhất
gồm có: người Thái, người Kinh, người Mông, người Tày, người Khơ-mú, người
Cống, người Lào, người Kháng, người Xinh-mun…
Nhân dân các dân
tộc anh em ở đây giàu truyền thống yêu nước, lao động cần cù, yêu chuộng hòa
bình, sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi thế lực áp bức và giặc ngoại xâm, bảo vệ
độc lập chủ quyền quê hương, đất nước. Họ cũng là chủ nhân của những điệu dân
ca trữ tình, những điệu múa mềm mại, uyển chuyển, đậm đà bản sắc dân tộc.
Điện Biên Phủ đã
bị thực dân Pháp chiếm từ năm 1888 sau khi tên thực dân khoác áo nhà thám hiểm
O-guyt-xtơ Pa-vi (Auguste Pavie) đã mò đến đây. Sau đó con đường mòn Lai Châu –
Điện Biên Phủ được mang tên hắn - đường Pa-vi. Từ đầu thế kỷ XX, Điện Biên Phủ
là “hạt nhân của đạo quan binh thứ 4” của Pháp ở Bắc Đông Dương.
Từ năm 1939, Điện
Biên Phủ đã có một sân bay dã chiến. Trong cuộc Nhật đảo chính Pháp ngày
9-3-1945, hàng ngàn quân Pháp đã qua con đường Lai Châu chạy sang Trung Hoa.
Năm 1945, quân Nhật rồi quân Tưởng đã có mặt ở Điện Biên Phủ. Khi ta ký Hiệp
định sơ bộ ngày 6-3-1946 với Pháp, Pháp đã yêu cầu được đưa hơn 800 quân trở
lại vùng này để làm nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng.
Ta tiến công Lai Châu, quân
Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ và Điện Biên Phủ được chọn làm điểm quyết
chiến chiến lược.
Năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược của nhân dân ta đã bước vào năm thứ tám. Tám năm đó là những năm
chiến đấu cực kỳ gian khổ và anh dũng của quân đội và nhân dân ta chống lại
quân đội xâm lược của đế quốc Pháp có can thiệp Mỹ giúp sức. Thắng lợi của quân
và dân ta trong hè thu 1953, đặc biệt là chiến thắng tây nam Ninh Bình, tạo
thêm thuận lợi để cả nước bước vào chiến cuộc Đông Xuân.
Trước đó, với
thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc mùa đông năm 1952 và chiến dịch Thượng Lào
cuối xuân - đầu hè năm 1953, cục diện chiến tranh ở Việt Nam nói riêng và ở
Đông Dương nói chung càng chuyển biến mạnh theo hướng có lợi cho quân và dân
ta, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Để cứu vãn tình
thế, Chính phủ Pháp tiến hành cải tổ bộ máy lãnh đạo và chỉ huy quân Pháp ở
Đông Dương, may chăng có được chính sách mới, tìm cho nước Pháp một “lối thoát
danh dự”.
Với hy vọng đó,
Hăng-ri Na-va, một viên tướng tài năng, đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ tư
lệnh lục quân Trung Âu thuộc khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) được điều
sang giữ chức Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương thay cho tướng Xa-lăng bị
triệu hồi. Tướng Na-va đã thông qua Hội đồng Quốc phòng tại Pa-ri bản kế hoạch
chiến lược mới của mình, được chính giới Pháp và Mỹ đánh giá rất cao, mang tên
là “kế hoạch Na-va”.
Cho tới những ngày
cuối tháng 10, đầu tháng 11 năm 1953, Na-va và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp ở Đông Dương còn rất chủ quan. Với một số kết quả hoạt động quân sự của
phía Pháp trong mùa thu 1953, Na-va cho rằng việc triển khai kế hoạch chiến
lược mới của quân Pháp đang trên đà phát triển thuận lợi và kế hoạch tác chiến
thu đông của ta đã bước đầu bị phá vỡ.
Vì thế, cuộc hành
quân Hải Âu đánh ra vùng tự do tây nam Ninh Bình vừa chấm dứt ngày hôm trước,
thì ngày hôm sau (7-11-1953) Na-va cho phát đi một bức thư gửi các sĩ quan,
binh lính thuộc quyền, trong đó ông ta giải thích: “ Tôi có nói với các bạn
rằng tôi sẽ nắm quyền chủ động bằng những cuộc hành quân lớn và tôi sẽ phóng vào
lúc và nơi mà tôi sẽ lựa chọn. Cuộc hành quân Hải Âu là đòn đầu tiên trong
những đòn mà tôi có ý định đánh vào đối phương.
Trong cuộc hành
quân đó, chúng ta đã đạt được mục tiêu của chúng ta: lợi thời gian, chúng ta đã
buộc Bộ tư lệnh Việt Minh phải xét lại kế hoạch tiến công và sẽ phải sửa đổi
lại tới một ngày mà họ mong có thể hoạt động mạnh mẽ. Chúng ta đã nắm quyền chủ
động và chúng ta muốn giữ vững quyền đó”.
Trong cuộc họp báo
ngày 7-11-1953, trung tướng Cô-nhi, tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, đã tuyên bố:
“…Tôi xin cải chính, cuộc hành quân Hải Âu không hề nhằm mục đích chiếm đóng
vĩnh viễn đất đai. Vùng Nho Quan không có lợi gì cả, ta cũng chưa có ý định
chiếm Thanh Hóa. Ta đổ bộ vào Duyên Hải Thanh Hóa là để đánh lừa Việt Minh mà
thôi.
Quả nhiên chúng đã
bị lừa, ta đã đạt được mục đích. Chúng ta đã thắng lợi, loại trừ được Sư đoàn
320 ra ngoài vòng chiến, giam chân Sư đoàn 304 ở Thanh Hóa, trì hoãn được cuộc
tiến công Thu Đông của Việt Minh vào đồng bằng Bắc Bộ, quân đội viễn chinh Pháp
đã thành công trong việc mở đầu một chiến thuật tiến công mới” (theo tin báo
Tia sáng, Hà Nội, ngày 9-11-1953).
Phụ họa những lời
tuyên bố của giới quân sự Pháp, các tờ báo xuất bản ở Pa-ri, Sài Gòn, Hà Nội
trong thời gian này đều đăng trên trang đầu nhiều bài ca ngợi “thắng lợi rực
rỡ” của phía Pháp trong cuộc đánh ra tây nam Ninh Bình. Tờ Paris Press (Bản tin
Pa-ri) ra ngày 2-11-1953 đưa ra lời bình luận: “Tướng Na-va đã thắng hiệp đầu
trong cuộc đọ sức tay đôi với tướng Giáp”.
Trong không khí
lạc quan như vậy, bỗng nhiên Na-va nhận được báo cáo “Đại đoàn 316 đóng
quân ở phía nam Hòa Bình từ ngày 15 tháng 11 sẽ di chuyển về xứ Thái, nơi mà nó
đã có sẵn một trung đoàn (trung đoàn 176). Dự kiến Đại đoàn 316 sẽ đến Tuần
Giáo vào khoảng từ ngày 7 đến 11 tháng 12 năm 1953”.
Tin này chứng tỏ
rằng hướng tấn công chủ yếu của đối phương trong chiến cuộc 1953-1954 không
phải là đồng bằng Bắc Bộ như ông ta và bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông
Dương đã phán đoán, mà có thể lại chính là Tây Bắc. Và như thế cả Thượng Lào
cùng kinh đô Luông Phra Băng đều bị uy hiếp.
Tiếp tục thực hiện
chiêu bài độc lập giả hiệu, ngày 22-10-1953 chính phủ Pháp đã ký với chính
quyền tay sai một hiệp ước công nhận Lào là một nước độc lập trong khối liên
hiệp Pháp. Việc để mất kinh đô Luông Phra Băng và Thượng lào ngay khi ký một
hiệp ước “phòng thủ chung” giữa Pháp và Lào vừa được ký kết, có thể dẫn tới
những hậu quả chính trị, quân sự khó lường.
Suy đi nghĩ lại,
cuối cùng Na-va thấy cần phải “đi trước hành động của Đại đoàn 316 bằng cách
tăng cường hệ thống bố trí ở xứ Thái, che chở cho Luông Phra Băng”. Để thực
hiện ý đồ đó, ngày 2 tháng 11, Na-va chỉ thị cho tướng Cô-nhi chuẩn bị chiếm
đóng Điện Biên Phủ bằng một cuộc hành binh không vận vào trước ngày 1 tháng 12
(tức là khoảng 15 ngày, trước khi Đại đoàn 316 có thể đến được vùng này.
Điện Biên Phủ là
một thung lũng rộng lớn như đã trình bày ở trên, cách Hà Nội khoảng 300 ki lô
mét đường chim bay, cách Luông Phra Băng khoảng 200 ki lô mét. Thung lũng này
nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba của nhiều tuyến đường quan trọng,
có sông Nậm Rốm chảy theo hướng nam - bắc đổ xuống sông Nậm Hu và có sân bay
Mường Thanh được xây dựng từ năm 1889.
Theo đánh giá của
Na-va và nhiều nhà quân sự Pháp thì Điện Biên Phủ “là một vị trí chiến lược
quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương mà còn đối với miền Đông
Nam Á – một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan, Myanma
và Trung Quốc”.
Đó là “một cái
chìa khóa để bảo vệ Thượng Lào”, một “bàn xoay” có thể xoay đi bốn phía Việt Nam , Lào,
Myanma, Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp “có thể bảo vệ được Lào, rồi từ
đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong năm 1952-1953 và tạo điều
kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của đối phương nếu họ đến đấy”.
Việc tướng Na-va
có ý định đưa quân lên chiếm đóng Điện Biên Phủ không phải là điều gì mới lạ.
Trước đây Xa-lăng đã từng rất mong muốn đưa quân lên chiếm đóng Điện Biên Phủ,
nhưng chưa thực hiện được. Tướng Cô-nhi cũng đã đề nghị với Na-va thực hiện
điều đó từ tháng 6 năm 1953.
Cô-nhi cho rằng
“muốn giành chủ động phải chiếm đóng Điện Biên Phủ”. Nhưng tới khi Na-va quyết
định hành động, thì do lo sợ sẽ thiếu quân để bảo vệ “đồng bằng có ích”, Cô-nhi
và một số sĩ quan dưới quyền của ông ta đã có những ý kiến trái ngược hẳn
lại.
Ngày 4-11-1953, đại tá Ba-xchi-a-ni, tham
mưu trưởng lục quân Bắc Bộ, đưa ra ý kiến phản đối chủ trương chiếm đóng Điện
Biên Phủ với lý do là hiện nay Thượng Lào chưa có hiện tượng gì bị uy hiếp cả.
Và cho dù trong trường hợp Thượng Lào có bị uy hiếp, thì cái xứ Đông Dương này,
người ta không thể chỉ ngăn chặn bước tiến của Việt Minh trên một hướng, đó là
khái niệm ở châu Âu, ở đây không có giá trị gì.
Đáng lẽ quân Pháp
phải được sử dụng tập trung để bảo vệ miền đồng bằng đang bị đe dọa, thì lại bị
tung lên một miền rừng núi cách Hà Nội 300 ki lô mét làm một việc không có tác
dụng gì thiết thực cả; “muốn hay không muốn, Điện Biên Phủ cũng sẽ trở thành
một vực thẳm nuốt các tiểu đoàn của quân viễn chinh Pháp”.
Cùng với ý kiến
phản đối có tính chiến lược của Ba-xchi-a-ni, các sĩ quan tác chiến, không
quân, hậu cần của Bộ tham mưu Bắc Bộ còn đưa ra những khó khăn về chiến thuật,
kỹ thuật trong việc nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ và việc phải bảo đảm tiếp
tế bằng đường không cho một căn cứ lớn và lại ở cách xa miền đồng bằng như vậy.
Trung tuần tháng
11 năm 1953, sự kiện Đại đoàn 316 bắt đầu chuyển quân lên miền Tây Bắc đã tạm
thời chấm dứt cuộc tranh cãi giữa các tướng tá Pháp. Gạt sang một bên những ý
kiến bất đồng, trong cuộc họp ngày 17 tháng 11 tại tổng hành dinh quân đội Pháp
ở Hà Nội, Na-va quyết tâm giữ vững ý định thực hiện cuộc hành quân Ca-xto chiếm
đóng Điện Biên Phủ.
Tướng Gin, nguyên
chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Nà Sản được cử làm chỉ huy trưởng cuộc hành
quân và như sau này, các tướng tá Pháp đã mô tả lại thì ngay chiều hôm ấy, “tại
một dinh thự biệt lập ở Hà Nội, bốn sĩ quan dù, hai phi công cùng với cô thư ký
của tướng Cô-nhi đã cho in rô-nê-ô và soạn những mệnh lệnh về cuộc hành quân
Ca-xto sẽ được tiến hành ngày 18, 19 hoặc 20 tháng 11 năm 1953, tùy theo tình
hình thời tiết tốt xấu…
Chính họ cũng
không biết rằng họ làm việc đó để chuẩn bị cho một trong những biến cố vĩ đại
làm đảo lộn phương Tây” (Trích theo sách Tiếng sấm Điện Biên Phủ, NXB
QĐND, H.1984, trang 86).
Sau khi đã được
chuẩn bị kỹ lưỡng, ngày 20-11-1953, cuộc hành binh Ca-xto đánh chiếm Điện Biên
Phủ chính thức bắt đầu. Do chỉ tập trung được 60 chiếc Đa-cô-ta vào việc chở
quân, đợt đầu (từ 10 giờ 35 phút đến 10 giờ 45 phút) quân Pháp thả hai tiểu
đoàn dù xuống khu vực lòng chảo Điện Biên Phủ. Chiều 20 tháng 11 và trong các
ngày tiếp sau đó chúng thả tiếp bốn tiểu đoàn khác và một đại đội công binh.
Vào thời điểm địch
mở cuộc hành binh Ca-xto, về phía ta có trung đoàn bộ trung đoàn 48 và tiểu
đoàn 910 đang đóng quân ở Điện Biên Phủ tranh thủ củng cố, huấn luyện và chuẩn
bị tiêu diệt vị trí Mường Pồn, phối hợp cùng Đại đoàn 316 tiến đánh Lai Châu.
Cuộc nhảy dù của địch có gây bất ngờ cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 148.
Nhưng tới khi nhận
biết được triệu chứng quân địch sắp nhảy dù, bộ đội ta lập tức triển khai lực
lượng chiếm giữ các vị trí có lợi và liên tục đánh trả địch suốt sáu tiếng
liền. Đến 16 giờ ngày 20, do thời cơ diệt địch không còn, đạn hết, để bảo toàn
lực lượng, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 148 rút vào rừng và sau đó đã chuyển về
Mường Phăng chuẩn bị cho nhiệm vụ mới.
Về phía địch, sau
khi thả sáu tiểu đoàn cơ động cùng một khối lượng lớn đạn dược, lương thực và
các thiết bị chiến tranh xuống Điện Biên Phủ, quân Pháp bắt tay ngay vào việc
xây dựng cấu trúc trận địa và tiến hành các hoạt động tiến công để mở tuyến
giao thông đường bộ nối Điện Biên Phủ với Lai Châu và Luông Phra Băng.
Ngày 25 tháng 11,
theo lệnh của Na-va, Cre-vơ Cơ – chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Lào sử dụng
sáu tiểu đoàn mở cuộc hành binh từ Luông Phra Băng lên khu giải phóng Lào ở lưu
vực sông Nậm Hu. Cùng ngày hôm đó, sân bay Mường Thanh được sửa chữa xong và
chiếc Đa-cô-ta đầu tiên của quân Pháp đã hạ cánh an toàn xuống khu vực Điện
Biên Phủ.
Thấy cuộc hành
quân chiếm đóng Điện Biên Phủ kết thúc tương đối trót lọt, Na-va và Cô-nhi tin
rằng quân đội Pháp ở Đông Dương đã trở lại nắm quyền chủ động tiến công và tình
thế trên chiến trường đang nhanh chóng được cải thiện theo chiều hướng có lợi
cho phía Pháp.
Trong cuộc họp báo
ngày 22-11-1953, tướng Cô-nhi lớn tiếng tuyên bố với các nhà báo rằng cuộc hành
binh Ca-xto “không phải là một cuộc nhảy dù biệt kích như Lạng Sơn, đây là khởi
đầu của một cuộc tiến công đại quy mô”. “Điện Biên Phủ là một điểm chốt. Nếu
tập đoàn cứ điểm Nà Sản lắp được trên các bánh xe lăn, có lẽ tôi đã chuyển nó
lên Điện Biên Phủ ngay từ khi tôi nhậm chức cách đây 5 tháng”.
Trong buổi tiếp đô
đốc Ca-ba-ni-ê, phái viên của chính phủ Pháp ngày 20 tháng 11, mặc dù đã được
thông báo chính thức là sẽ không có 9 tiểu đoàn quân tăng viện như Na-va đã yêu
cầu, nhưng khi được nghe truyền đạt câu hỏi của tổng thống O-ri-ôn và thủ tướng
La-ni-en là “ trong lúc quân đội viễn chinh Pháp vừa chiến thắng, trong lúc
Triều Tiên vừa ký kết đình chiến có nên đặt vấn đề ngừng bắn không”.
Na-va đã trả lời
rằng: tốt hơn hết nên chờ kết quả của cuộc chiến mùa đông, tình hình trong mùa
xuân tới có thể sáng sủa hơn. Còn đối với việc Đại đoàn 316 đang tiến lên Tây
Bắc, thì chỉ cần “một con nhím loại vừa” độ sáu tiểu đoàn như vậy cũng đủ để
đối phó.
Có thể thấy rằng,
mặc dù bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã tung lực lượng cơ
động ứng chiến lên vùng rừng núi Tây Bắc, cho tới lúc này cuộc hành binh chiếm
đóng Điện Biên Phủ đối với phía Pháp “vẫn còn là một cuộc hành binh thứ yếu có
tính chất phòng vệ chiến lược và tính chất chính trị địa phương” như một sử gia
phương Tây đã nhận xét.
Phải tới cuối
tháng 11, đầu tháng 12 năm 1953 do một chuỗi các quyết định của cả hai bên tham
chiến, Điện Biên Phủ mới trở thành một thử thách quyết định mà thực ra tướng
Na-va rất muốn tránh trong chiến cuộc 1953-1954.
Ngày 25-11-1953,
bộ chỉ huy Pháp nhận được báo cáo của phòng nhì (quân báo) là đêm qua tướng
Giáp đã ra lệnh cho các đại đoàn 308, 312, 351 tiến quân lên miền Tây Bắc (sự
thật không đúng như vậy). Trước đó, Đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn) cũng đã
rời khỏi vùng tự do Thanh Hóa.
Trung đoàn 66 của
Đại đoàn 304 đã tiến vào chuẩn bị phối hợp cùng Đại đoàn 325 hoạt động ở miền
Trung Đông Dương. Những tin này đã buộc Na-va và các tướng lĩnh dưới quyền của
ông ta phải tìm cách đối phó.
Do lo ngại về
những trận đánh lớn có thể diễn ra ở vùng rừng núi Tây Bắc, tướng Cô-nhi đề
nghị một phương án phân tán chủ lực ta bằng các cuộc hành quân tập kích chớp
nhoáng đánh lên Phú Thọ, Yên Bái hoặc Thái Nguyên để giữ chủ lực của ta lại.
Nhưng đề nghị đó
của Cô-nhi không được chấp nhận vì Na-va không tin rằng đối phương lại có thể
khắc phục khó khăn bảo đảm tiếp tế được cho bốn đại đoàn chủ lực tác chiến dài
ngày ở xa hậu phương như vậy. Na-va vẫn yên tâm khẳng định rằng chủ lực ta lúc
này thực tế vẫn chưa có khả năng đánh diệt các tập đoàn cứ điểm như kiểu Nà Sản
và việc chiếm đóng Điện Biên Phủ, tổ chức xây dựng ở đó một tập đoàn cứ điểm
mạnh là hoàn toàn chính xác.
Còn nếu chủ lực
đối phương dám liều lĩnh kéo lên đây, thì quân viễn chinh Pháp cần tương kế,
tựu kế biến Điện Biên Phủ thành một pháo đài vững chắc, vừa là một cái chốt,
vừa là “một cái bẫy hay một cái máy nghiền, sẵn sàng nghiền nát các sư đoàn
thép của đối phương, đồng thời lại vẫn bảo vệ được nước Lào”, ngăn chặn được
các cuộc tiến công lớn của chủ lực đối phương vào cái “đồng bằng có ích”.
Sau khi đã cùng
tướng Cô-nhi đáp máy bay lên Điện Biên Phủ xem xét tại chỗ và cho thẩm tra lại
một cách khá kỹ càng những tin tức tình báo về các hướng tiến công của chủ lực
đối phương trong đông xuân này, Na-va quyết định chấp nhận giao chiến với ta ở
Điện Biên Phủ.
Trong bản chỉ thị
gửi Cô-nhi ngày 3-12-1953, Na-va giao nhiệm vụ cho bộ chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp ở Bắc Bộ phải bảo vệ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào và đưa thêm
lực lượng lên tăng cường phòng ngự, xây dựng Điện Biên Phủ thành một pháo đài
bất khả xâm phạm, một cứ điểm mạnh hơn cả Nà Sản.
Cụ thể cần thả dù
thêm ba tiểu đoàn cơ động ứng chiến, đưa lực lượng phòng giữ Điện Biên Phủ từ
sáu tiểu đoàn lên chín tiểu đoàn bộ binh và khoảng ba tiểu đoàn pháo. Đối với
các đơn vị đồn trú ở Lai Châu thì có thể duy trì nếu điều kiện cho phép, hoặc
có thể co về tăng cường cho Điện Biên Phủ.
Ngày 5-12-1953,
các đơn vị nhảy dù xuống Điện Biên Phủ được chuyển thành binh đoàn tác chiến
Tây Bắc, gọi tắt là GONO (Groupement Opérationnel du Nord Ouest). Vài ngày sau
đó, chỉ thị tăng cường thêm ba tiểu đoàn cho Điện Biên Phủ của Na-va cũng đã
được thực hiện.
Khi chấp nhận giao
chiến với ta ở Điện Biên Phủ, tướng Na-va vẫn không hề nghĩ rằng nó lại có thể
trở thành đòn quyết định nhất của toàn bộ chiến cuộc 1953-1954. Trung thành với
những tư duy chiến lược của mình được thể hiện ở bản “kế hoạch Na-va”, trong
một bức thư mật gửi chính phủ Pháp ngày 7-12-1953, Na-va khẳng định rằng trong
chiến cuộc này, ông ta vẫn tập trung sự nỗ lực chiến lược chủ yếu vào miền
Trung Việt Nam.
Bằng một cuộc hành quân quy mô lớn mang
tên Át-lăng, ông ta sẽ chiếm đóng vùng tự do Liên khu 5 và toàn bộ các hoạt
động quân sự của phía Pháp trong sáu tháng đầu năm 1954 sẽ phải phụ thuộc vào
cuộc hành quân quan trọng đó. Nếu cuộc hành quân Át-lăng thành công thì dù có
bị thất bại ở nơi khác, triển vọng chung của cuộc chiến tranh đối với phía Pháp
vẫn đáng được coi là tốt đẹp.
Về phía ta, trung
tuần tháng 11 năm 1953, sau khi đã hạ lệnh hành quân cho Đại đoàn 316, đơn vị
có vinh dự được đi tiên phong trong cuộc tiến quân lên miền Tây Bắc và nhắc nhở
các đơn vị khác chuẩn bị sẵn sang cơ động, ngày 19-11-1953 tại một vùng rừng
núi Thái Nguyên thuộc căn cứ địa Việt Bắc, Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân
Việt Nam mở hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch Đông Xuân
1953-1954.
Thu hoạch lúa trên cánh đồng
Mường Thanh.
Ảnh: Tô Hợp
|
Hội nghị kéo dài
trong 5 ngày từ 19 đến 23 tháng 11 năm 1953. Tham gia hội nghị có các đồng chí
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái
cùng đông đảo cán bộ chủ trì các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh,
cán bộ chỉ huy các chiến trường từ Liên khu 5 trở ra và cán bộ chỉ huy các đại
đoàn chủ lực 308, 304, 312, 316, 320, 325, 351.
Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chủ trì hội nghị. Hội nghị đã nghe Đại tướng Tổng Tư lệnh thay mặt
Tổng Quân ủy phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị và kế hoạch tác chiến của ta
trong chiến cuộc Đông Xuân. Các đại biểu về dự hội nghị tích cực tham gia thảo
luận từ chủ trương, phương hướng chỉ đạo tác chiến tới nhiệm vụ và những yêu
cầu cụ thể của từng hướng chiến trường.
Hội nghị họp đến
ngày thứ hai thì địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Ngay tối hôm ấy Tổng Quân ủy
và Bộ Tổng tư lệnh đã kịp thời họp bàn để xem xét, đánh giá tình hình. Nhận
định và kết luận bước đầu của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh là:
“… Địch
nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, mặc dầu ta không phán đoán được cụ thể về địa điểm
và thời gian, nhưng cũng nằm trong phạm vi phán đoán trước của ta là nếu Tây
Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện lên hướng đó. Như vậy là trước sự uy hiếp
của ta, địch đã phải bị động đối phó, phân tán một bộ phận cơ động lên Điện
Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến
công của ta.
Rồi đây tình hình
địch có thể biến hóa thế nào nữa?
- Chúng có thể vừa giữ Điện Biên Phủ, vừa
giữ Lai Châu, một nơi chính, một nơi phụ, có thể lấy Điện Biên Phủ làm chính.
- Nếu bị ta uy hiếp, chúng có thể co về
một nơi và tăng viện thêm một chừng nào; cũng chả nhất định co về nơi nào,
nhưng khả năng co về Điện Biên nhiều hơn.
- Nếu bị ta uy hiếp mạnh hơn, chúng có thể
tăng viện nhiều và biến thành một tập đoàn cứ điểm (trong trường hợp này chúng
có thể lấy Điện Biên làm nơi thiết lập trận địa), nhưng chúng cũng có thể rút.
Hiện nay ta chưa
thể quyết đoán địch sẽ đóng hay rút, sẽ đóng nột nơi hay hai nơi, sẽ đóng lâu
dài hay trong thời gian ngắn, sẽ tăng viện nhiều hay ít, v.v…Một là vì ta chưa
có đủ căn cứ cụ thể để phán đoán âm mưu địch, hai là vì địch cũng có nhiều khó
khăn, rút thì mất đất, tăng nhiều thì phân tán quân cơ động và có thể bị tiêu
diệt nên chưa nhất định đã có chủ trương dứt khoát, hoặc hiện có chủ trương
nhưng khi gặp khó khăn do sự đối phó của ta gây nên cũng có thể thay đổi.
Vô luận rồi đây
địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho
ta. Vì thế cần phải tìm cách kéo thêm chủ lực của chúng lên Điện Biên Phủ và
giữ chúng lại đó”. (Báo cáo kết luận của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong “Hội nghị cán bộ chiến dịch Đông Xuân” ngày
23-11-1953. Trích trong tập Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm
trong các chiến dịch lớn, tập 3 (chiến dịch Điện Biên Phủ), Bộ Tổng Tham mưu
xuất bản, năm 1963, trang 15-16).
Từ những nhận định
và kết luận trên, Bộ Tổng tư lệnh quyết định Đại đoàn 316 vẫn gấp rút tiến lên
đánh địch ở Lai Châu và điều thêm Đại đoàn 308 lên để vây địch ở Điện Biên Phủ.
Ở Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, các đại đoàn 312, 351 và cả Đại đoàn 304 (thiếu)
được lệnh phải tuyệt đối giữ bí mật và sẵn sàng đánh trả địch nếu chúng liều
lĩnh tiến công lên vùng căn cứ địa của ta.
Ngày 23-11-1953
Hội nghị phổ biến kế hoạch Đông Xuân kết thúc, cán bộ chỉ huy các đơn vị, các
chiến trường nhanh chóng trở về tổ chức, lãnh đạo bộ đội thực hiện nhiệm vụ
được cấp trên giao cho. Theo sự hướng dẫn của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh,
Bộ Tổng Tham mưu vừa theo dõi, đôn đốc các đơn vị triển khai thực hiện kế hoạch
đã được xác định, đồng thời vừa khẩn trương nghiên cứu, xây dựng phương án đánh
địch ở Lai Châu và Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12 năm
1953, khi Na-va quyết định tiếp nhận cuộc giao chiến với ta ở Điện Biên Phủ và
quyết giữ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào, thì phương án tiến công Điện Biên
Phủ của ta về cơ bản đã được dự thảo xong.
Ngày 6-12-1953, Bộ
Chính trị họp nghe Tổng Quân ủy báo cáo quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ.
Về tình hình địch
và phương hướng chiến dịch, phương án tác chiến của Tổng Quân ủy ghi rõ: “Tuy
hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của
Trung ương là tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu – Phong Xa Lỳ cho đến
Luông Phra Băng trong Đông Xuân thì phải nhằm trường hợp địch tăng cường thành
lập tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị.
Trong trường hợp
này, trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay. Vì
vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm
kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì
thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn”. (Báo cáo của Tổng Quân ủy trình Bộ
Chính trị ngày 6-12-1953).
Về binh lực và
thời gian tác chiến, phải sử dụng chín trung đoàn bộ binh và toàn bộ pháo binh,
công binh, phòng không và một bộ phận pháo cao xạ, tổng số là 35.000 người. Nếu
tính cả Bộ chỉ huy chiến dịch khoảng 1.850 người và 4.000 tân binh bổ sung sẽ
đưa lên làm hai đợt thì quân số phải cung cấp cho hỏa tuyến sẽ tăng lên 40.850
người, chưa kể dân công.
Ở trung tuyến (từ
Sơn La trở về) quân số bộ đội phải bố trí để bảo vệ tuyến cung cấp có 1.720
người. Quân số tổng quát của chiến dịch là 42.750. Thời gian tác chiến ở Điện
Biên Phủ ước độ 45 ngày, nhưng còn tùy tình hình thay đổi, cũng có thể rút ngắn
hơn.
Về nhu cầu nhân
lực, vật lực: số nhân công phải huy động từ trung tuyến trở lên cần khoảng
chừng 14.500 người, gồm cả dân công theo đơn vị, vận tải xe đạp và khuân vác,
chưa kể số dân công của Hội đồng cung cấp mặt trận.
Thời gian phục vụ
mặt trận, việc huy động gạo, thực phẩm, đạn dược… cũng được tính toán cụ thể.
Về tình hình đường xá và kế hoạch vận chuyển cũng được chuẩn bị chi tiết, cụ
thể và chu đáo.
Tổng Quân ủy kiến
nghị: Muốn bảo đảm sự thực hiện quyết tâm của Trung ương là giải phóng Lai Châu
– Phong Xa Lỳ, vấn đề mấu chốt hiện nay trong công tác chuẩn bị là phải bảo đảm
đường sá. Cần phải tập trung khả năng và có kế hoạch cụ thể để tích cực giải
quyết ngay từ bây giờ, chậm lắm là đến cuối tháng Giêng năm 1954, cần phải bảo
đảm cho xe kéo pháo chạy được.
Sau khi nghe báo
cáo quyết tâm của Tổng Quân ủy, Bộ Chính trị phân tích và kết luận: Về địch,
Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng chúng cũng có cái yếu cơ
bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Về
ta, với chất lượng đã được nâng cao thêm một bước trong chỉnh huấn, chỉnh quân,
với kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật, quân đội ta tới đây
đã có thể đánh được tập đoàn cứ điểm.
Vấn đề đường xá
tiếp tế cho chiến dịch đúng là một khó khăn rất lớn. Nhưng với quyết tâm của
toàn Đảng, cả hậu phương đang chuyển động trong cải cách ruộng đất sẽ tập trung
toàn lực chi viện cho tiền tuyến và nhất định bảo đảm cung cấp cho chiến dịch.
Bộ Chính trị quyết
định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất trí thông qua phương án tác chiến của
Tổng Quân ủy.
Trong khi cơ quan
tham mưu chiến lược của ta đang tập trung xây dựng phương án tiến công địch thì
cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 316 và Đại đoàn 308 vẫn đang gấp rút tiến lên thực
hiện nhiệm vụ đánh địch ở Lai Châu, vây địch ở Điện Biên Phủ.
Đêm 7-12-1953, đại
đoàn bộ Đại đoàn 316 và trung đoàn 174 hành quân tới ngã ba Tuần Giáo, còn
trung đoàn 98 mới hành quân tới bên kia đèo Pha Đin. Một ngày trước đó, lo sợ
bị ta chia cắt lực lượng, Cô-nhi vội vã ra lệnh cho quân lính rút toàn bộ lực
lượng khỏi Lai Châu, tập trung về phòng ngự Điện Biên Phủ.
Kế hoạch tháo chạy
khỏi Lai Châu được Cô-nhi đặt tên là cuộc hành quân Pôn-luých, một bộ phận được
chuyên chở bằng máy bay, số còn lại rút theo đường bộ và ngày 18-12-1953 sẽ rút
xong.
Việc rút quân khỏi
Lai Châu tuy cũng được cả Na-va và Cô-nhi tính đến từ trước, nhưng do sự xuất
hiện nhanh chóng của Đại đoàn 316 trên vùng rừng núi Tây Bắc, làm cho quyết
định của Cô-nhi “được đưa ra đột ngột đến nỗi binh đoàn biệt kích hỗn hợp không
có đủ thời gian để tập hợp 25 đại đội phụ lực người Thái đang được bố trí rải rác
trong rừng rậm.
Binh đoàn này chỉ
có thể báo tin cho họ qua vô tuyến điện là phải chạy về Điện Biên Phủ một cách
nhanh nhất”. Và để tới đích chúng sẽ phải vượt qua đoạn đường khoảng 100 ki lô
mét và chắc chắn là sẽ rất nguy hiểm.
Được tin địch rút,
ngay trong đêm mồng 7 tháng 12, sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh lập
tức chỉ thị cho Đại đoàn 316 nhanh chóng cho một bộ phận theo đường số 41 đánh
thẳng vào thị xã Lai Châu, còn đại bộ phận lực lượng phải tập trung cắt đứt cho
bằng được đường Lai Châu – Điện Biên Phủ để chặn đánh, tiêu diệt bọn địch đang
rút chạy bằng đường bộ. Đồng thời Bộ cũng đôn đốc Đại đoàn 308 khẩn trương tiến
lên bao vây địch ở Điện Biên Phủ.
Căn cứ vào nhiệm
vụ trên giao và tình hình cụ thể của đơn vị, đồng chí Lê Quảng Ba, đại đoàn
trưởng và đồng chí Chu Huy Mân, chính ủy Đại đoàn 316 quyết định sử dụng tiểu
đoàn 439 dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Phạm Quang Vinh, phó chính ủy
trung đoàn 98 tiến đánh Lai Châu.
Đại đoàn bộ cùng
với trung đoàn 174, tiểu đoàn 215 và trung đoàn bộ trung đoàn 98 tiếp tục hành
quân theo đường Tuần Giáo – Điện Biên, đến Nà Tấu sẽ xuyên rừng vượt đèo Pa
Thông, cắt đường Lai Châu – Điện Biên Phủ ở quãng Pu San – Mường Pồn. Còn tiểu
đoàn 938 trung đoàn 98 tạm dừng lại làm nhiệm vụ bảo vệ Tuần Giáo đề phòng địch
nhảy dù tập kích vào phía sau, phá hậu phương trực tiếp của chiến dịch.
Tuy đã 20 đêm liền
hành quân nhưng toàn đại đoàn vẫn náo nức bắt tay ngay vào cuộc đuổi đánh địch.
Trên đường tiến
quân vào thị xã Lai Châu, đêm 9-12-1953 tiểu đoàn 439 được sở chỉ huy tiền
phương của Bộ Tổng tư lệnh dùng xe chở gạo để chở bộ đội đến Nậm Mức (cách Tuần
Giáo 45 ki lô mét). Vì đoạn đường tiếp sau quá xấu, ô tô không thể đi được, cán
bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 439 lại xuống xe tiếp tục hành quân bộ.
Tối mồng 10, đơn
vị tiến đến Pa Ham (cách thị xã Lai Châu 32 ki lô mét). Pa Ham có một đồn nhỏ
của địch, nhưng khi nghe tin chủ lực của ta đang tiến đánh Lai Châu, địch vội
vàng rút một số vị trí lẻ co cụm về đây, nên quân số trong đồn đã tăng lên tới
ba đại đội.
22 giờ, tiểu đoàn
439 nổ súng tiến công Pa Ham. Sau nửa giờ cầm cự, binh lính địch bỏ đồn tháo
chạy. Tiểu đoàn 439 phát triển tiếp lên đánh chiếm đèo Cơ-la-vô. Đèo này nằm
cách thị xã Lai Châu 14 ki lô mét, địa thế rất hiểm trở. Bình thường chỉ cần
một đại đội chốt giữ thì hàng trung đoàn cũng khó vượt qua được. Nhưng hoảng sợ
trước thế mạnh của ta, nên khi cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 439 vừa xuất hiện
địch đã vội vã tháo chạy.
24 giờ ngày
11-12-1953, tiểu đoàn 439 đến sát thị xã Lai Châu. Được đồng bào địa phương
hướng dẫn, bộ đội ta vượt qua cầu sắt liên tiếp đánh bật địch ra khỏi các vị
trí, hoàn thành việc giải phóng thị xã Lai Châu vào chiều ngày 12 tháng 12.
Trong khi tiểu đoàn
439 tiến đánh Lai Châu thì bộ phận lực lượng chủ yếu của Đại đoàn 316 sau bốn
ngày hành quân gian khổ đã từ Tuần Giáo tới đường Điện Biên Phủ - Lai Châu.
Trung đoàn 174 bố trí ở khu vực Mường Muôn, Mường Pồn, đón đánh quân địch từ
Lai Châu chạy về. Trung đoàn 98 tiến xuống Pu San chặn đánh bọn địch từ Điện
Biên Phủ kéo ra. Tiểu đoàn 888 trung đoàn 176, theo nhiệm vụ đã được giao từ
trước, tiếp tục hoạt động bám địch ở phía Him Lam – Bản Tấu.
Sáng ngày 12, đại
đội 674 tiểu đoàn 251 dẫn đầu đội hình trung đoàn 174 tiến xuống Mường Pồn.
Phát hiện trong bản có nhiều địch từ Lai Châu chạy về đang tạm dừng ở đó, đại
đội 674 tổ chức bao vây. Bọn địch có máy bay từ Điện Biên Phủ lên bắn phá yểm
hộ, ráo riết phản kích phá vây.
Mặc dù lực lượng
ít, lại ở vào một địa thế không có lợi phải từ dưới thấp đánh lên điểm cao,
nhưng với quyết tâm chặn bằng được quân địch tạo điều kiện thuận lợi cho lực
lượng tiếp sau kịp tiến lên tiêu diệt chúng, cán bộ, chiến sĩ đại đội 674 chiến
đấu dũng cảm đánh lui nhiều đợt phản kích của địch.
Chiến sĩ liên lạc
Bế Văn Đàn mang lệnh đên cho tiểu đội Chu Văn Pù giữa lúc cả tiểu đội chỉ còn
bốn người đang phải chặn đánh một cánh quân địch đông gấp nhiều lần. Địch từ
trên cao tràn xuống. Chu Văn Pù có khẩu trung liên trong tay nhưng không tìm
được chỗ đặt súng để bắn ngược lên. Bế Văn Đàn lao tới nhấc hai chân súng đặt
trên vai mình và giục đồng đội bắn… Người chiến sĩ dũng cảm đó hy sinh, nhưng
đợt phản kích của địch đã bị chặn đứng.
Trong cả ngày 12,
lực lượng địch tạm dừng ở Mường Pồn vẫn bị đại đội 674 vây chặt. Tảng sáng ngày
13, có đại đội 317 kịp đến tiếp sức, bộ đội ta đã hoàn toàn làm chủ Mường Pồn,
loại khỏi vòng chiến đấu hai đại đội thuộc tiểu đoàn ngụy số 301 và một đại đội
vận tải, diệt tại chỗ 95 tên, bắt sống 52 tên khác, thu nhiều vũ khí và lừa
ngựa.
Cũng trong những
ngày này, hai tiểu đoàn địch (tiểu đoàn dù lê-dương số 1 và tiểu đoàn dù ngụy
số 5) từ Điện Biên Phủ kéo ra đón cánh quân ở Lai Châu rút về đã bị tiểu đoàn
888 chặn đánh ở Bản Tấu, loại khỏi vòng chiến đấu gần một trăm tên.
Trưa ngày 13, các lực lượng còn lại của
hai tiểu đoàn này mò ra được tới Pu San (đông nam Mường Pồn bốn ki lô mét). Tại
đây, sau nhiều lần tổ chức xung phong đánh chiếm điểm cao 1.168 (một điểm cao
khống chế rất lợi hại đang được các chiến sĩ tiểu đoàn 215 và đại đội phòng
không 677 chốt giữ) không thành công, hai tiểu đoàn dù này vội vã rời Pu San,
tháo chạy trở về Điện Biên Phủ.
Trong những ngày
sau đó, mặc dù máy bay địch đã giội nhiều bom đạn để chặn bước tiến của các
chiến sĩ Đại đoàn 316, nhưng cũng không cứu nổi các cánh quân của chúng đang bị
đánh tan tác trong rừng.
Qua 12 ngày đêm liên tục chiến đấu, truy
kích, bao vây, tập kích trên núi rừng Tây Bắc hiểm trở, Đại đoàn 316 đã tiêu
diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp
Điện Biên Phủ từ phía bắc. Thắng lợi của chiến dịch giải phóng Lai Châu là kết
quả mở đầu xuất sắc của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân.
Mặc dù đã bị thất
bại nặng ở Lai Châu và biết rằng một số đơn vị của ta đang tiếp tục tiến lên
Tây Bắc, Tướng Na-va vẫn chưa thấy được mối nguy hiểm sắp đến đối với Điện Biên
Phủ. Ông ta vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào “cái bẫy”, “cái máy nghiền” sẵn sàng
nghiền nát các sư đoàn thép của đối phương và quyết tâm giữ nó bằng bất cứ giá
nào.
Ngày 22-12-1953,
một lần nữa Na-va lại quyết tâm tăng cường thêm cho Điện Biên Phủ ba tiểu đoàn
bộ binh và một đại đội xe tăng nhẹ, đưa lực lượng của binh đoàn tác chiến Tây
Bắc (GONO) lên 12 tiểu đoàn và bảy đại đội bộ binh lẻ, hai tiểu đoàn và ba đại
đội pháo, một đại đội xe tăng nhẹ, một đại đội vận tải với tổng quân số là
12.000 người.
Sau đồng bằng Bắc
Bộ, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch trên
toàn chiến trường Đông Dương. Tuy vẫn quyết tâm giữ Điện Biên Phủ đến cùng,
nhưng để đề phòng những trường hợp bất trắc, Na-va đã chỉ thị cho Cô-nhi và
Cre-vơ Cơ bí mật chuẩn bị một kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ.
Ngày 23-12-1953,
binh đoàn tác chiến Tây Bắc (GONO) cho một cánh quân vượt biên giới, sang bắt
liên lạc với quân của Cre-vơ Cơ ở Xốp Nao (Thượng Lào) rồi rút ngay về Điện
Biên Phủ. Nhưng bốn ngày sau đó, khi trung đoàn 36 Đại đoàn 308 đã cơ động lên
chốt ở Pom Lót, hình thành thế bao vây địch ở phía nam thì tuyến giao thông
đường bộ nối giữa Điện Biên Phủ và Thượng Lào cuối cùng đã bị cắt đứt.
Tóm lại, từ khi
“kế hoạch Na-va” hình thành đến khi Điện Biên Phủ được cả ta và quân Pháp chọn
làm điểm quyết chiến chiến lược, là cả một quá trình diễn ra cuộc đấu trí, đấu
lực, khi công khai, khi thầm lặng giữa hai bộ thống soái. Na-va và nhiều tướng
lĩnh Pháp, Mỹ và phương Tây đã từng giải thích vì sao bộ thống soái quân viễn
chinh chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm, chấp nhận giao chiến với
chủ lực ta.
Họ nêu nhiều
nguyên nhân, nhưng như trên đã trình bày, nổi bật lên là xuất phát từ vị trí
chiến lược của Điện Biên Phủ; yêu cầu chiến lược về chính trị “bảo vệ Thượng
Lào”; từ “con chuột biển” đến “con nhím” khổng lồ; quyết tâm sắt đá của Na-va
dù cấp dưới không đồng tình, dù Pa-ri có can ngăn…
Nhưng rồi cũng đến
lúc thần kinh của viên tướng này cũng dao động. Từ cuối tháng 12 năm 1953,
Na-va đã ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Mọi dự kiến đã bị đảo lộn hết.
Quân Pháp đành phải phó mặc cho số phận: phải đánh với phương tiện của bản thân
tập đoàn cứ điểm là chủ yếu.
Đ.V.T/GDVN
-----------------
* Nguồn trích
dẫn:
- "Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2004.
- "Điện Biên Phủ - Mốc vàng thời đại", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2004.
- "Lịch sử Quân đội nhân dân ViệtNam (1944 - 1975), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội - 2005.
- "Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2004.
- "Điện Biên Phủ - Mốc vàng thời đại", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2004.
- "Lịch sử Quân đội nhân dân Việt
---------------
Nữ văn sĩ Võ Thị Hảo từ bỏ Hội nhà văn csVN.
Trả lờiXóaBà Võ Thị Hảo cho hay trên thực tế, bà đã định ra khỏi hội từ lâu nhưng "lười viết đơn rồi quên mất" và "nay thì nhớ ra".
Bà Hảo tuyên bố từ bỏ Hội nhà văn csVN với nội dung: "Hôm nay ngày 5/5/2015, tôi tuyên bố từ bỏ Hội nhà văn Việt Nam. Lý do: Hội Nhà văn Việt Nam ngày càng có thêm nhiều hành động tỏ ra thù địch với quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác và nhân quyền của nhà văn.
Điều này là vi hiến, vi phạm Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước về những quyền dân sự và chính trị cuẩ công dân mà chính phủ VN đã ký cam kết trước Liên Hiệp quốc từ nhiều năm qua.
Vì thế, tôi tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam kể từ ngày hôm nay."
Thiếu tá Nguyễn Anh Tú và thượng tá Lê Văn Nghĩa được nói là những phi công Su-22 đã hy sinh sau vụ va chạm máy bay tại đảo Phú Quý hồi tháng 4 vừa qua.
XóaĐến trưa ngày 5/5/2015, một buổi lễ đón di cốt liệt sỹ Nguyễn Anh Tú về quê nhà đã được diễn ra tại sân bay Cát Bi, Hải Phòng. Tuy nhiên di cốt được đựng trong một túi xách đen như túi du lịch, chứ không phải làm hòm phủ cờ đỏ sao vàng
Ngay lập tức, hình ảnh di cốt liệt sỹ Tú bọc trong một túi xách tay màu đen này đã khiến dư luận tỏ ra hết sức phẫn nộ.
Xem: http://danlambaovn.blogspot.com/2015/05/dung-tui-xach-tay-ua-di-cot-liet-sy-su.html
Khoảng năm 1970 ở Hà Nội tôi đã nghe ông anh họ bộ đội từ Miến Nam ra nói với mẹ của anh ta: "Bọn lính Ngụy nó cũng vui vẻ và giúp dân lắm bu ạ"?
Trả lờiXóaNgẫm ra nhiều điều..........
..."bọn lính ngụy .." ấy cũng là người VN,cũng giống nòi Lạc Hồng chứ có mang họ Bành họ Tập đâu mà ác với dân nhỉ ND 07;31 ?
XóaNghe kể lại, dân đen bị thương được lính ngụy gọi trực thăng vận tới nhà thương cho nhanh cũng thường thôi mà, chứ có lấy dân làm khiên đỡ đạn đâu chứ? Coi cái clip cuộc chiến cuối cùng ngày 30-4 trên cầu SG của thằng nhà báo tây lông quay lại ấy là rõ thôi mà.
XóaCQ VNCH thua la do Qua that tha va ngay tho Nen bi CsBV lua ma ko biet ro luon ca nguoi dan mien nam chat phat ung ho lu Qui du ma ra nong noi nay
Trả lờiXóaXin hỏi đại tá đăng việt thủy. Khi ông viết bài này ông có thề độc hay chưa.vì tôi thấy ông hơi khoát lát rồi đó. Thứ 1 vì sao pháp chọn nơi đây để đóng quân.vì nó là nơi hiểm trở và có thể điều quân đi khắp đông nam á rất nhanh ,chứ không dính vấp đến việt minh chon đâu nhe. Thứ 2 là trong lúc cầm quân để đánh vào điện biên phủ có chuyên gia quân đội của trung quốc sang giúp mà ông không đề cập vào. Thứ 3 là bắt đầu cuộc chiến quân ta đã bị nướng xác là bao nhiêu thiệt hại như thế nào. Hơn 10 000 quân việt minh bị tiêu diệt đó nhe .bao nhiêu đó đủ rồi nhe.thanks.
Trả lờiXóaSự thực là nếu không có vũ khí (đại bác) của Trung quốc và cố vấn TQ thì ta chưa chắc đã thắng trận Điện Biên Phủ.
XóaTuy nhiên lấy lý do này mà tụi TQ ép chính phủ ta phải làm cải cách ruộng đất theo mô hình của chúng, làm chết hàng vạn người.
Chiến tranh hôm nay rất khác xưa - điều khiển từ xa. Và các nuớc nhỏ bắt buộc phải liên kết với các nước lớn. Mà đa số họ đã chọn Mỹ và NATO. Nga và Trung+ coi như bị bao vây. Ngoài miệng hung hăng, nhưng nếu xảy ra chiến tranh họ sẽ thua phe Đồng Minh.
Trả lờiXóaCó điều thế giới đang hết sức tránh chiến tranh lớn (kiểu Thế Chiến).
Chỉ có bọn lon ton đu dây cứ như hình ảnh con cóc ghẻ thảm hại, ai cũng có thể bóp chết.
Dài dòng quá ông Thủy ơi . Biết rồi , khổ lắm . Chuyện nóng giãy ở Biển Đông kia kìa . Hãy bàn đến nó .
Trả lờiXóalừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu là pháp chết một ta hy sinh 100
Trả lờiXóaChiến thắng nào chẳng có hy sinh nhưng chiến thắng vẫn là chiến thắng đừng mơ đánh đồng, viét lại lịch sử nha các vị!
Trả lờiXóaHy sinh cho bọn tham nhũng lộng hành! Chán ngắt!
XóaNhân dân VN thua đau!
Linh su la su that chu khong phai nhung thu duoc bien soan cua bon cai tri. Den khi chung sup do thi phai dinh chinh lai met lam ban 21:15 a
Trả lờiXóa