Translate

Trang BVB1

Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

Hướng tới một trật tự cho châu Á: Đối đầu hay đối tác? (I)

Henry Kissinger
Henry Kissinger (1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình (1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp. Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 – Toward an Asian Order: Confrontation or Partnership?, World Order, 212- 233. (LND).
Một đặc điểm chung các quốc gia châu Á là họ có ý thức mình là biểu tuợng cho những nước “đang trổi dậy” hay là “hậu thuộc điạ”. Tất cả các nước này đã cố vượt qua một di sản của thời kỳ thuộc địa cai trị bằng cách tự khẳng định về một bản sắc dân tộc hùng cường. Các nước này cùng chia sẽ một niềm tin là một trật tự cho thế giới ngày nay đang tái lập một tình trạng quân bình sau khi phương Tây đột nhập bất thường trong nhiều thế kỷ vừa qua, nhưng phương Tây đã rút ra nhiều bài học to tát khác nhau từ trong các cuộc phiêu lưu lịch sử của họ. Khi các quan chức cao cấp cố gợi lại những quyền lợi cốt lõi, một số người trong giới này hướng về truyền thống văn hoá dị biệt và lý tưởng hoá các thời vàng son khác nhau.
Theo các hệ thống chính trị trong châu Âu vào thế kỷ XVIII và XIX, việc bảo tồn một tình trạng quân bình về cán cân quyền lực – và do ảnh hưởng của việc duy trì nguyên trạng – được xem là ưu điểm. Tại châu Á, hầu hết mỗi quốc gia đều bị thúc dục bởi những tính năng động của chính mình. Tự tin là mình đang trổi dậy, các nước này hoạt động trong một niềm tin là thế giới chưa khẳng định một vai trò toàn diện cho mình. Thậm chí ngay cả không có một quốc gia nào tìm hiểu về chủ quyền tối thượng và phẩm giá của các quốc gia khác, tất cả cùng kiên quyết đeo đuổi một chính sách ngoại giao theo kiểu một là thắng và hai là thua, việc đồng loạt thực thi nhiều chương trình xây dựng uy tín quốc gia đưa ra một biện pháp làm thay đổi cho một trật tự trong khu vực. Với sự tiến hoá của nền công nghệ hiện đại, các cường quốc của châu Á đã trang bị cho mình bằng nhiều công xưởng vũ khí quân sự có sức công phá nhiều hơn cả khả năng của một quốc gia châu Âu hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX có được, nhờ thế họ còn gây thêm những nguy hiểm do việc tính toán sai lạc.
Vì thế, tổ chức của châu Á là một thách thức cố hữu cho một trật tự của thế giới. Do tình trạng nhận thức của một số cường quốc và việc theo đuổi quyền lợi quốc gia, đúng ra là do cán cân của quyền lực như là một hệ thống của các nước lớn đã định hình cho một cơ chế về một trật tự mà nó đã phát triển trước đây. Những thử nghiệm của các nước này là chuyện khả thi, cho dù nó có nằm trong quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương hay không, khi nó đem sẽ lại một khuôn khổ hoà bình cho việc tương tác của nhiều lợi ích đã được minh định.
Một Trật Tự Quốc Tế Của Châu Á và Trung Quốc
Trong tất cả những khái niệm về một trật tự cho thế giới ở châu Á, Trung Quốc đã vận hành một ý tưởng bền bỉ nhất, định nghĩa rõ ràng nhất và sâu xa nhất theo hoà ước Westphalian[i]. Trung Quốc cũng đã theo đuổi một cuộc hành trình phức tạp nhất, từ thời văn minh cổ đại thông qua đế chế cổ điển, cho đến cách mạng Cộng sản, rồi đạt đến tình trạng một cường quốc hiện đại – một tiến trình sẽ có tác động sâu đậm đến nhân loại.
Từ khi Trung Quốc thống nhất như là một thực thể chính trị duy nhất vào năm 221 trước Công nguyên cho đến đầu thế kỷ XX, vị thế trung tâm của Trung Quốc trong trật tự của thế giới đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo đến độ mà không có một từ nào trong Hoa ngữ để diễn đạt cho ý tưởng này. Chỉ qua cách suy tưởng nội quan mà các học giả định nghĩa về một hệ thống triều cống của Trung Quốc trong tinh thần thần phục “Dĩ Hoa Vi Trung“. Trong khái niệm truyền thống này, Trung Quốc tự nhận thức mình như là một chính quyền duy nhất có chủ quyền của thế giới. Hoàng đế của Trung Quốc tự xem mình là biểu tượng có tầm vóc hoàn vũ và có vai trò then chốt giữa con người và thần thánh. Tầm nhắm của vua không phải là Trung Quốc, một quốc gia có chủ quyền, – có nghĩa là đặt lãnh thổ dưới quyền cai trị trực tiếp của mình – mà còn “tất cả trong thiên hạ” và trong đó Trung Quốc tạo nên phần chính yếu và văn minh: “một vương quốc ở trung tâm”, nhằm gây nguồn cảm hứng và làm thăng hoa cho phần còn lại cuả nhân loại.
Theo quan điểm này, một trật tự của thế giới phản ảnh một hệ thống quyền lực rộng khắp hoàn vũ, không chỉ đem lại một tình trạng quân bình của các quốc gia có chủ quyền đang cạnh tranh. Mỗi một xã hội, khi được kết thân, được xem là có một loại quan hệ triều cống với Trung Quốc, một phần vì dựa vào sự gần gũi văn hoá, nhưng không ai có thể đạt đến tinh trạng bình đẳng với Trung Quốc. Các vương quốc khác không là những nước đồng đẳng có chủ quyền, mà là những học trò nghiêm túc nhất trong nghệ thuật lãnh đạo, phấn đấu hướng tới văn minh. Ngoại giao không phải là một tiến trình thương lượng giữa nhiều quyền lợi tối thượng, nhưng là một loạt các nghi lễ được trù liệu cẩn trọng mà các nước ngoài có cơ hội xác quyết đuợc vị thế của mình trong hệ thống phân cấp quyền lực trong toàn cầu.
 Theo cổ thư của Trung Quốc, để giữ đúng theo quan điểm này, thì những gì mà ngày nay gọi là “chính sách đối ngoại” thì khi xưa là một lĩnh vực thuộc Bộ Lễ, được xác định các sắc thái trong mối quan hệ triều cống, và Vụ Biên Phòng chuyên trách quản lý mối quan hệ với các bộ lạc du mục. Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa hề được thành lập và sau đó là nhăm lo cho việc đối phó với kẻ xâm lăng phương Tây. Thậm chí các quan chức coi nhiệm vụ của mình như là cách thực hành theo truyền thống của công tác quản lý người man rợ, không có gì được họ coi như là một chính sách ngoại giao theo hệ thống Westphalian. Một Bộ mới mang danh hiệu “Vụ Quản lý Quốc tế Sự vụ”, có hàm ý là Trung Quốc không tham gia kết ước trong các chính sách ngoại giao liên quốc.
Mục tiêu của hệ thống triều cống là thúc đẩy lòng tôn trọng, không thu tóm lợi lộc kinh tế hay chế ngự xã hội các nước ngoài bằng quân sự. Một thành tựu kiến trúc ấn tượng nhất của Trung Quốc là Vạn lý Trường thành kéo dài với khoảng hơn năm ngàn dặm do Hoàng đế Tần Thủy Hoàng khởi công. Ông là người đánh bại tất cả các đối thủ bằng quân sự, kết thúc thời Chiến Quốc và thống nhất Trung Quốc. Đó là một di chúc huy hoàng về một chiến thắng quân sự, nhưng cũng có những giới hạn cố hữu của nó trong việc biểu thị quyền lực rộng lớn, cùng gắn liền với ý thức về khả năng bị tổn thương. Từ ngàn năm nay, Trung Quốc cố tìm cách thu hút và lôi kéo những kẻ đối nghịch nhiều hơn là cố đánh bại họ bằng những sức mạnh quân sự. Dù có những phân tích cơ bản cho thấy là Trung Quốc là một cường quốc có ưu thế quân sự, một vị quan thượng thư thời nhà Hán (206 B. C- A.D. 220) đã mô tả “năm miếng mồi“ mà ông đề nghị để quản lý các bộ lạc từ Hung Nô cho đến biên thùy Tây Bắc Trung Quốc:
“Tặng cho họ … quần áo và xe ngựa để làm mờ mắt họ, tặng cho họ cao lương mỹ vị để làm câm miệng họ, tặng nhạc và dâng gái cho họ để làm bùi tai họ, cho họ nhà cao cửa rộng, kho thóc và gia nhân để lo cho đầy dạ dày của họ … và đối với kẻ đến hàng phục, nhà vua (nên) bày tỏ ân huệ cho họ bằng cách bày ra yến tiệc tiếp đãi, đích thân nhà vua phải hầu rượu và thực phẩm cho họ để làm họ mềm lòng. Những cách này có thể được gọi chung là năm miếng mồi ngon.“
Một đặc điểm nổi bật trong những nghi lễ ngoại giao của Trung Quốc là lễ khấu đầu, – qùy gối và đê đầu chạm đất để công nhận quyền tối thượng của Hoàng đế – đó là một sự hạ mình, điểm chắc chắn là nghi thức này là một bước cản trở cho việc bang giao với các nước tân tiến phương Tây. Nhưng khấu đầu là hành vi tự nguyện có tính cách tượng trưng: Đó là lòng tôn trọng biểu lộ của một người không bị chinh phục khi khiếp sợ. Trong những trường hợp như thế, giá trị triều cống cho Trung Quốc thường vượt quá mức, nếu so với giá trị các quà đáp lễ của nhà vua.
Theo truyền thống, Trung Quốc cố tìm cách chế ngự về phương diện tâm lý bằng những thành quả hay thái độ ứng xử của mình, – thảng hoặc có xen kẻ qua những cuộc hành quân nhằm dạy cho kẻ man rợ ngoan cố một “bài học“ và khiến họ phải tôn kính. Cả hai mục tiêu chiến lược và phương cách cơ bản để thu phục tâm lý qua một cuộc xung đột có vũ trang này đã được minh chứng gần đây trong chiến cuộc giữa Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962 và với Việt Nam năm 1979, cũng như những phương cách mà Trung Quốc xác nhận những quyền lợi cốt lõi của họ đối với các lân quốc.
Mãi cho đến nay, Trung Quốc không là một xã hội mang sứ mệnh truyền giáo theo như nghiã của phương Tây về thuật ngữ này. Trung Quốc cố tìm cách tạo ra sự khâm phục, không tạo sự thay đổi, họ không bao giờ làm sai đường lối tinh tế này. Nhiệm vụ của họ là tạo thành quả mà họ kỳ vọng là ngoại bang sẽ hiểu ra và thừa nhận. Đối với một nước khác thì việc trở thành một người bạn, kể cả là bạn vong niên, đó là chuyện khả thi, nhưng họ sẽ không bao giờ được coi là bạn đồng đẳng với Trung Quốc. Chuyện trớ trêu là chỉ có hai nước ngoại gần đạt được một tình trạng tương tự này lại là những kẻ đi chinh phục. Một trong những đặc điểm kỳ diệu của đế quốc văn hoá trong lịch sử là có hai dân tộc chinh phục Trung Quốc; đó là Mông Cổ vào thế kỷ XIII và Mãn Châu vào thế kỷ XVII; – cả hai bị thuyết phục phải chấp nhận đặc điểm chủ yếu về văn hoá Trung Quốc, vì để làm cho việc cai trị dễ dàng một dân tộc quá đông và quá cương ngạnh, trong khi Trung Quốc giả định về tính ưu việt văn hoá của mình. Xã hội Trung Quốc, dù bị đánh bại, những đã đồng hoá được những kẻ đi chinh phục đến mức độ mà các phần lớn trong lãnh thổ nhà bị coi như là theo Trung Quốc từ truyền thống. Trung Quốc không cố tìm cách xuất khẩu hệ thống chính trị của mình, đúng hơn, Trung Quốc nhìn thấy các nước khác tìm đến họ. Theo ý nghĩa này, Trung Quốc mở rộng không bằng chinh phục mà do sự thẩm thấu.
Trong kỷ nguyên hiện đại, vì theo quan điểm về tính ưu việt văn hoá của mình, nên những đại biểu của phương Tây đã bày tỏ việc đưa Trung Quốc tham gia vào hệ thống thế giới thuộc về châu Âu, mà hệ thống này trở thành một cấu trúc cơ bản cho một trật tự cho thế giới. Họ gây áp lực với Trung Quốc nên vun bồi mối quan hệ với các nơi khác trên thế giới bằng cách trao đổi sứ thần, cho tự do mậu dịch và mang lại nhiều hạnh phúc hơn cho dân chúng với việc hiện đại hoá nền kinh tế và mở cửa xã hội để chấp nhận tín ngưỡng Thiên Chúa giáo.
Những gì mà phương Tây quan niệm như một tiến trình khai sáng và kết ước thì được Trung Quốc xem là một cuộc tấn công. Trước tiên, Trung Quốc cố tìm cách lẫn tránh rồi sau đó chống đối triệt để. Khi George Macartney, đặc sứ Anh Quốc đầu tiên đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVIII, ông có mang theo một vài phẩm vật đầu tiên của cuộc Cách mạng Công nghiệp và bức thư của Hoàng đế Georg III đề nghị cho tự do mậu dịch và thiết lập sứ quán thường trú cho hai nước tại Bắc Kinh và Luân Đôn. Chiếc tàu của Trung Quốc đưa vị sứ thần này đi từ Quảng Châu đến Bắc Kinh kết đầy hoa có mang biểu ngữ đề chữ xem ông như là “Sứ thần Anh quốc triều cống cho Hoàng đế Trung Quốc”. Vị sứ thần bị thải hồi kèm theo một lá thư gởi cho Hoàng đế nước Anh để giải thích rằng không có vị sứ thần nào được phép lưu trú tại Bắc Kinh, bởi vì “châu Âu gồm có nhiều nước khác ngoài qúy quốc, nếu từng nước một và tất cả các nước cùng xin được có đại biểu tại triều đinh, thì làm sao hoàng triều có thể chấp thuận được? Đó là chuyện bất khả thi.“ Hoàng đế không thấy có nhu cầu cho việc mua bán nào vượt qua giới hạn số lượng nhỏ bé đã được quy định, bởi vì Anh quốc không có mặt hàng gì được Trung Quốc ưa chuộng:
“Dù xoay chuyển trong một thế giới rộng lớn, nhưng trước mắt cụ thể, Trẩm có một mục tiêu là duy trì sự cai trị tốt đẹp và hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước, các mục tiêu xa lạ và tốn kếm đều không làm cho Trẩm quan tâm. Nếu Trẩm ra lệnh cho tiếp nhận các phẩm vật triều cống do qúy quốc gởi tới, đó chỉ là vì Trẩm chiếu cố với tinh thần là những phẩm vật này từ xa gởi tới . . . Như sứ thần của qúy quốc cũng có thể tự thấy được là Trung Quốc có tất cả mọi thứ hàng.“
Sau khi Napoleon bại trận, khi từng bước mở rộng ngoại thương, nước Anh thử tìm một cách khác để mở cửa giao dịch, phái một đặc sứ thứ nhì cùng với những đề xuất tương tự. Phô diễn hải lực của Anh quốc trong chiến tranh với Napoléon đã không làm thay đổi được cách đánh giá của Trung Quốc về sự mong muốn trong quan hệ ngoại giao. Trong khi sứ thần William Amherst không chịu tham dự lễ khấu đầu, xin lỗi vì lấy cớ là ông chưa có bộ phẩm phục dự chầu, nhiệm vụ của ông bị thải hồi, và nước Anh không còn thiết tha gì về bất cứ một nỗ lực ngoại giao nào khác. Nhà vua gởi một thông điệp cho Hoàng tử Nhiếp chính của Anh quốc để giải thích với giọng như là “Đại chuá tể trong thiên hạ”, Trung Quốc không thể bị phiền nhiễu bởi vì phải đưa mỗi vị sứ thần man rợ đi vào trong một nghi lễ trang nghiêm. Sử liệu của hoàng gia ghi nhận là “Qúy quốc từ đại dương xa xôi đến để đề xuất lòng trung thành của mình và ao ước đạt được trình độ văn minh, “nhưng, (như một ấn phẩm của cơ quan truyền giáo của phương Tây vào thế kỷ XIX đã dịch lại sắc chỉ này):
“Từ nay trở đi, không cần gởi thêm một đặc sứ nào từ phương xa tới, mà kết quả chỉ là phí sức cho chuyến đi. Nếu Qúy quốc có thể, nhưng tâm có khuynh hướng là tùng phục, thì Qúy quốc được phép gởi sứ bộ đến hoàng triều vào bất cứ lúc nào; đó là cách đích thực để tiến tới văn minh. Để Qúy quốc có thể tuân phục vĩnh viễn, nay Trẩm ban chiếu chỉ này.”    
Nếu so với chuẩn mực cuả ngày nay thì những lời cảnh báo này dường như là quá kiêu ngạo – và xúc phạm quá mức đối với một nước đã duy trì tình trạng quân bình tại châu Âu và có thể tự xem mình là cường quốc tiên tiến về công nghiệp, kinh tế và hải quân – Hoàng đế tự biểu lộ với cung cách theo như lý tưởng về vị thế của mình trong thế giới mà mình đã chinh phục từ ngàn năm nay và các dân tộc láng giềng bị khiến tối thiểu là phải tuân chiều.
Các cường quốc phương Tây, trong sự xấu hổ của mình, đã mang những vấn đề lên trên vấn đề tự do mậu dịch, khi họ kiên quyết lập luận dựa theo quyền nhập khẩu không bị hạn chế – như là thành quả của tiến bộ phương Tây -, để họ bán bạch phiến, một sản phẩm gây tác hại hiển nhiên nhất. Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh đã xao lãng về một nền công nghệ quốc phòng, một phần là vì họ không bị ai thách thức trong một thời kỳ dài, mà chủ yếu vì quân đội chiếm vị thế thứ yếu theo quan niệm trật tự xã hội của Khổng giáo, như họ diễn đạt qua câu nói: “Sắt tốt không dùng để làm móng tay, người tốt không trở thành lính giỏi”. Ngay khi bị các cường quốc phương Tây tấn công, nhà Thanh xuất tiền trong ngân quỹ quốc phòng vào năm 1893 để trùng tu một chiếc tàu làm bằng cẫm thạch rực rỡ trong cung điện muà hè của hoàng gia.
Do lúc đang bị áp lực quân sự nặng nề nhất thời vào năm 1842, Trung Quốc ký các thoả ước tương nhượng các yêu sách của phương Tây. Nhưng Trung Quốc không từ bỏ ý thức độc tôn của mình và chiến đấu triệt thoái trong ngoan cường. Sau khi ghi được một chiến công có tính cách định đoạt trong chiến tranh 1856-58 (chống lại việc một chiếc tàu có đăng ký tại Anh, bị cáo giác là tịch thu trái phép tại Quảng Châu), Anh kiên quyết theo một thoả ước quy định về một quyền mà họ tranh đấu từ lâu, đó là quyền cho sứ thần được lưu ngụ tại Bắc Kinh. Năm sau, khi đến nhậm chức với đoàn tùy tùng trong khí thế khải hoàn, vị sứ thần Anh nhận ra trên các tuyến đường sông chính hướng về thủ đô bị phong toả bởi những xích và kẽm gai. Ông ra lệnh cho lực lượng thủy quân lục chiến Anh dẹp chướng ngại, quân đội Trung Quốc khai hoả, 519 lính Anh chết và 456 người khác bị thương trong trận đánh kế tiếp. Anh liền gởi một lực lượng dưới sự chỉ huy của Lord Elgin đột kích Bắc Kinh và tiêu huỷ cung điện muà hè khi triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Việc can thiệp thô bạo này buộc triều đình miễn cưỡng chấp nhận lập một khu vực làm toà công sứ cho các đại biểu ngoại giao lưu ngụ. Sự tùng phục của Trung Quốc trong khái niệm của một chính sách ngoại giao hỗ tương theo hệ thống Westphalian thuộc các quốc gia có chủ quyền là miễn cưỡng và phẫn uất.
Trọng tâm của các tranh chấp này là một vấn đề rộng lớn hơn: Có phải Trung Quốc là một trật tự cho toàn bộ thế giới không, hay chỉ là một nước như những nước khác và là một thành phần trong hệ thống thế giới rộng hơn? Trung Quốc bám chặt vào tiền đề truyền thống. Vào cuối năm 1863, sau hai lần thất trận do cường quốc man rợ và nội loạn tràn lan (loạn Thái Bình) dập tắt được là do lời kêu gọi lực lượng ngoại quốc, Hoàng đế đã gởi một thư tới Abraham Lincoln để đảm bảo với ông về một đặc ân của Trung Quốc: “Vì nhận được mệnh trời để cai trị thế gian, nên Trẩm xem Trung Quốc và các nước khác bên ngoài như là tạo thành một gia đình mà không có phân biệt.”
Năm 1872, James Legge, người Tô Cách Lan, là một nhà Trung Quốc học nổi danh, ông đã nói rõ vấn đề và niềm tin về tính ưu thế hiển nhiên của khái niệm ở phương Tây về một trật tự của thế giới vào thời của ông ta: “Trong suốt 40 năm qua, vị thế của Trung Quốc trong vấn đề đối với các nước tiên tiến hơn của thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Trung Quốc đã kết ước với họ trong những điều kiện bình đẳng; nhưng nhìn từ bề ngoài bằng một cách công bình, thì tôi không nghĩ là các quan thượng thư và dân chúng của họ vẫn chưa nhìn thấy sự thực này phải đối diện, để họ hình dung một sự thực là Trung Quốc chỉ là một trong số những quốc gia độc lập trên thế giới, và “trong thiên hạ“, Hoàng đế của họ là có quyền cai trị, nhưng không phải là cai trị thiên hạ trong mọi bầu trời, nhưng chỉ là một phần trong bầu trời, như được định nghiã trong bề mặt của trái đất và có thể được chứng minh trên bản đồ.“  
Khi nền công nghệ và trào lưu mậu dịch buộc các hệ thống tương phản tiếp xúc nhau nhiều hơn, thì quy luật của một trật tự thế giới nào sẽ chiếm ưu thế?
Tại châu Âu, hệ thống Westphalia là kết quả tự nhiên của một loạt các quốc gia độc lập trong thực tế sau khi chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc. Châu Á bước vào kỷ nguyên hiện đại mà không có một cơ cấu đặc biệt nào về tổ chức quốc gia và quốc tế. Hệ thống này bao gồm nhiều trung tâm văn minh, được bao bọc bởi các vương quốc nhỏ hơn, với một tập hợp các cơ chế tương tác lẫn nhau trong tinh tế và luôn thay đổi.
     Tài nguyên phì nhiêu của vùng đồng bằng Trung Quốc, một nền văn hoá về tinh thần kiên cường lạ thường và sự nhạy bén chính trị tạo khả năng cho Trung Quốc duy trì được một thời kỳ hơn hai ngàn năm và gây ảnh hưởng đáng kể về các mặt văn hoá, kinh tế và chính trị – ngay cả khi Trung Quốc có điểm yếu về quân sự theo chuẩn mực thông thường. Lợi điểm tương đối nằm ngay trong sự thịnh vượng của nền kinh tế, nó sản xuất những sản phẩm mà tất cả các lân quốc mơ ước. Định hình theo những yếu tố này, tư tưởng của Trung quốc về một trật tự của thế giới hoàn toàn khác biệt với kinh nghiệm của châu Âu, khi họ dựa trên đa số của các nước bình đẳng.
Vở kịch của Trung Quốc phải đương đầu với thế giới phương Tây phát triển và Nhật Bản là ảnh hưởng của các đại cường quốc, mà họ có tổ chức như là các quốc gia có chủ trướng bành trướng văn minh. Thoạt đầu, Trung Quốc thấy cạm bẩy của một nhà nước hiện đại như là một sự hạ mình cho họ. Sự trổi dậy của Trung Quốc về đặc điểm ưu việt trong thế kỷ XXI không là chuyện mới, nhưng là tái lập lại một khuôn mẫu lịch sử. Điểm đặc sắc là Trung Quốc trở thành một người thừa kế một nền văn minh xa xưa và còn là một siêu cường hiện đại theo mô hình của hoà ước Westphalian. Trung Quốc kết hợp những di sản của khái niệm “Gom thâu Thiên hạ”, hiện đại hoá kỹ trị, và một mưu cầu để tổng hợp hai nhiệm vụ này cho đất nước trong thế kỷ XX đầy những biến động bất thường.
(Còn tiếp…)
_______
[i] Hoà ước Westphalia là một loạt các thoả ước được ký kết từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1648 tại hai thành phố Osnabrück và Münster (Đức) nhằm kết thúc chiến tranh Ba mươi năm (1618- 1648) tại Trung Âu (Holy Roman Empire) và chiến tranh Tám mươi năm (1569-1648) giữa Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các hoà ước Westphalia này đã định hình cho một hệ thống chính trị mới cho các quốc gia châu Âu với các khái niệm chủ yếu là tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, vẹn toàn lãnh thổ và nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ nước khác. Các khái niệm này sau trở thành nền tảng cho luật quốc tế nhờ sự chuẩn nhận của Cơ quan Liên Hiệp Quốc. (CTCND)
/TS Đỗ Kim Thêm dịch, CTV Phía Trước/

3 nhận xét:

  1. Bài của thằng cha thân Tàu Kissinger này thì không đọc cũng biết!

    Trả lờiXóa
  2. Tư tưởng đại hán, trung tâm vũ trụ ( trung hoa) ăn sâu tận xương tủy các thế hệ người T.Q. Từ đó T.Q luôn muốn khuất phục các nước khác làm chư hầu cho mình. Ngay sau khi chế độ cộng sản nắm toàn quyền, họ đã tiến hành gây chiến, xâm chiếm lãnh thổ của Ấn độ, Liên xô cũ, Pakistan, Moomng cổ, Việt nam..Đầu thế kỷ 21 này, T.Q đang lăm le chiếm trọn biển Đông , hòng lấn sân Mỹ vị trí đứng đầu thế giới. Nhưn g T.Q sẽ không thể thực hiện được mục đích đen tối tối, trong thời đại ngày nay.

    Trả lờiXóa
  3. Cây gậy và củ cà-rốt của Trung Quốc đang có tác dụng hữu hiệu.
    Vấn đề là Trung Quốc hiện nay sử dụng củ Cà-rốt lớn hơn tác dụng hơn và chủ yếu hơn.Sử dụng cây gậy chỉ hỗ trợ răn đe .
    Ở Việt Nam họ cho các công ty mua các cổ phần và thuê người đứng tên mua cổ phần qua thị trường chứng khoán rất rõ ràng.Phần lớn các công ty thủy sản dường như họ đang tiến hành mua,vì họ lo tương lai cho nguồn cung cấp thực phẩm họ thiếu.
    Tiến công của Trung Quốc vào các thị trường và nắm lấy ở châu Á và nhất là Việt Nam sẽ tạo chuyển biến không thể xoay chuyển nổi.
    Khi Trung Quốc nó nắm yết hầu các nước thì lệ thuộc là tất yếu.
    Ngày nay,ngoài Trung Quốc ra thì không quốc gia nào còn có thể dùng củ Cà -rốt được.
    Ta ghét và căm Trung quốc vì nó xâm lược lãnh thổ,nó biết....nhưng nó "xâm lược kinh tế " thì thấy ai cũng vui.....Chết chính lại chỗ này đây.
    Ai mà ngờ các doanh nghiệp Trung Quốc nó mò lên tận An Giang,thâm nhập các công ty thủy sản.....Do vậy chớ trách sao nó nuốt trộng. Vừa lãi khẳm,lại vừa làm chủ thị trường,lại vừa ban " phước "....Do vậy ngồi mà độ thông tư thì có la lối gì thì Trung tệ hóa sẽ thay Đô -la hóa là tất yếu.
    Mỹ xoay trục nó chả ngán lại phì cười vì trục bỏ quá lâu nên rỉ sắt,không tiền mua nhớt đổ vào trục,lại ba hoa " chống bán phá giá ".
    Trò chơi với Nhật vừa kết thúc đó sao,nay lại cùng vui vẻ,với Hàn quốc thì vui vẻ rồi.
    Với Phi còn khó,nhưng rồi cũng xong với nó thôi....
    Và điều sẽ xảy ra là quân Mỹ ở Nhật Hàn Phi lại vui vẻ về sum họp với gia đình.Cái trục xoay bị rỉ kia chắc bán ve chai như tàu sân bay hôm nọ thôi.
    Nói rồi,kinh tế mà xuống dốc,làm cho các doanh nghiệp teo tóp,đến mức chết không chết nỗi...thì nô lệ không dưới ba đời.
    Sức mạnh của vũ khí gì cũng không bằng sức mạnh của đồng tiền.Đó là chân lí xưa nay.Khoa trương nay lạc hâu,giương cờ dân chủ nhân quyền,quá xưa,họ lại cho lừa bịp là khác.
    Từ nay đến Đại hội đảng thứ 12 các vị chắc lo cái nỗi lo này,nếu không muốn con cháu đi hốt cống rãnh.
    Nhân sự thấy các bạn nói nhiều,nhưng ai mà biết phút 89,thậm chí mấy phút bù giờ...thực tế xảy ra rồi mà.Ai mà biết,đến hội nghị thứ 14,chân dung quyền lực thọc vài bộ videos,phải họp thứ 15,mọi thứ nhào cái RẦM.
    Mua quốc gia là chiến lược và cả sách lược của CHÍNH TÀU cỗ điển,và chính thế mới có một nước TRung Hoa ngày nay,chứ cái Trung quốc nó nhỏ xíu thôi.
    Công Sơn

    Trả lờiXóa