Vậy là nó đã được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 28/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2014.
Nếu coi là “Hiến pháp mới”, thì e rằng ăn quá non nên gạo còn sống sượng.
Còn nếu gọi là “Hiến pháp sửa đổi”, thì có lẽ hâm quá đà nên cơm cũ đã
cháy khê.
Dù muốn hay không, Hiến pháp 2013 cũng chi phối cuộc sống của Nhân dân ta
và sự phát triển của Dân tộc ta trong thời gian tới. Do đó, thay vì ca ngợi
ngất trời hay chê bai triệt để, nên tìm hiểu những biến đổi về nội dung của
Hiến pháp, để đoán biết hệ quả mà phòng xa hay tận dụng, đồng thời để thấy rõ
hơn tâm và tầm của bộ máy lập hiến. Theo tinh thần ấy, bài này trao đổi
về hệ quả của một số thay đổi trong Hiến pháp 2013.
Phần 1 nhận diện
mấy nội dung vốn tồn tại trong Hiến pháp 1992, nay bị Hiến pháp buông rơi,
mặc dù vẫn còn cần thiết. Chẳng hạn:
- Đòi
hỏi “Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp, pháp luật”;
- Qui
định trách nhiệm của công an nhân dân là phải “bảo đảm… các
quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân“;
- Cam kết “Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ”.
Phần 2 điểm mặt ba
thay đổi theo hướng tiến bộ liên quan đến quyền sau song sắt, mà những
người dính vòng lao lí nên biết để đấu tranh đòi thực hiện.
Phần 3 đề cập đến
hiện tượng rộ nở thuật ngữ “công khai” trong Hiến pháp
2013. Đáng lưu ý là hai khoản hiến định mà công dân quan tâm đến vận nước nên
tận dụng, đó là:
- “Ngân
sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính
công khác… phải được sử dụng… công khai” (Khoản 1 Điều 55 Hiến pháp 2013),
- “Quốc
hội họp công khai” (Khoản 1 Điều 83 Hiến pháp 2013).
Phần 4 cảnh báo
nguy cơ quyền con người và quyền công dân có thể bị khước từ hay cản trở bởi
mệnh đề: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” – Một
mối họa chỉ tương xứng với chính trường hoang dã và xa lạ với nhà nước pháp
quyền đích thực. Buồn thay, căn cứ vào nguyên tắc lập hiến và lập pháp, thì mưu
mô đó thuộc loại mánh lới bất thành.
Phần 5 phân
tích sai lầm tai hại trong việc dùng Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013 để hiến định khả năng hạn chế quyền con người
và quyền công dân. Sơ sẩy khi hiến định “quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” tại Điều
22 Hiến pháp 2013 là ví dụ điển hình, cho thấy có những thay đổi chưa
chắc đã phản ánh đúng dụng ý của tác giả. Do đó, thay vì ghi nhận một số thể
hiện có vẻ tiến bộ trong Hiến pháp 2013, ta lại phải băn khoăn với câu
hỏi: Thực ra họ sửa nhầm hay đổi thiệt?
Hiến pháp buông rơi
Chẳng nhất thiết và cũng
chẳng thể ghi hết mọi điều quan trọng vào Hiến pháp. Nhưng khi Lời nói đầu
khẳng định rằngHiến
pháp 2013 “kế thừa… Hiến pháp năm 1992″, thì việc nó buông rơi một số
nội dung vẫn còn hợp lý và cần thiết của Hiến pháp 1992 có thể bắt nguồn từ
dụng ý sâu xa, mà ta không thể làm ngơ.
1.
Lạm dụng quyền lực là xu
hướng mang tính bản năng của thế lực cầm quyền. Do đó, với tư cách là công cụ pháp
lý cơ bản để điều khiển hoạt động của Nhà nước, một trong những mục tiêu quan
trọng nhất của Hiến pháp phải là kiểm soát và kiềm chế bộ máy Nhà nước.
Trong hoàn cảnh nhà cầm quyền hay hành động bất chấp Hiến pháp và pháp luật,
thì khoản hiến định sau đây tại Điều
12 Hiến pháp 1992 là rất cần thiết:
“Các cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phảinghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật.”
Tiếc rằng, như đã trao đổi ở
bài “Uẩn
khúc trong Điều 4 Hiến pháp”, khi liệt kê những đối tượng “phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”, cả Hiến pháp 1992 lẫn Hiến
pháp 2013 đều chừa lại thế lực “siêu nhà nước”, cần phải kiềm chế
nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Điều ấy cũng phi lý như chỉ nhìn
nhận cái “nhà” (“nhà ngói” thay vì“nhà nước”) từ “trần
giả” trở xuống và cố tình bỏ qua cái “nóc”, rồi khi bị “dột” thì
lại giả vờ ngu ngơ “không rõ nước rơi từ đâu”. Đáng tiếc hơn nữa, đòi
hỏi “Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật“ (trong Hiến
pháp 1992) đã bị bỏ rơi, và được nới lỏng trong Hiến pháp 2013 như sau:
“Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp
và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.” (Khoản 1 Điều
8 Hiến pháp 2013)
Điều tệ hại là, sau khi cố
tình bỏ đi chữ “phải”, điều khoản trên không còn thể hiện trách nhiệm
hiến định, bắt buộc Nhà nước phải thực hiện, mà trở thành mệnh đề khẳng
định, công chứng cho một trạng thái phi thực tế, như thể nó đã mặc nhiên tồn
tại. Hơn nữa, cho dù hiểu đó là một yêu cầu, thì các cơ quan Nhà nước “muốn
theo” hay “theo được” bao nhiêu thì “theo”, không nhất
thiết phải “chấp hành”, càng không cần phải “nghiêm chỉnh”. Vậy là
tấm gương xấu của Điều
4 dành cho ĐCSVN đã phản chiếu sang Điều
8 dành cho các cơ quan Nhà nước.
Vốn dĩ đã quen hành động bất
chấp pháp luật, nay được Hiến pháp “giải thoát” khỏi nghĩa vụ “nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”, thì các “con trời” sẽ còn lộng hành đến
mức nào nữa?
Từ lúc Hiến pháp 2013 có hiệu
lực, các vụ tử vong trong khi hoặc sau khi “làm việc” với công an
diễn ra dồn dập hơn, mặc dù “đang
xét xử 5 công an… đánh chết anh Ngô Thanh Kiều” (vào ngày 13/5/2013
tại Phú Yên). Nếu không cóthương
tích đầy mình làm bằng chứng, như trường hợp Huỳnh
Nghĩa (39 tuổi, ở tỉnh Đắk Nông, chỉ vì bị nghi là hái trộm hạt tiêu
mà tử vong sau khi “làm việc” với công an vào ngày 13/2/2014), thì lý
do tử vong được công bố “đương nhiên” là do “tự tử”. Chẳng hạn,
Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở tỉnh Bình Định) “treo
cổ tự tử chết trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh” vào tối 11/3/2014.
Sáu ngày sau (tức 17/3/2014), Bùi Thị Hương (42 tuổi) “được
công an phường Tân Đồng (thị xã Đồng Xoài, Bình Phước) mời lên trụ sở làm
việc vì nghi ngờ liên quan đến việc đem đi bán 2 chỉ vàng giả… chết trong
tư thế treo cổ bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính.”
Phải chăng, sự gia tăng tử
vong do “làm việc” với công an là hệ quả của việc Hiến pháp 2013
bỏ rơi đòi hỏi “Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”?
2.
Vốn dĩ, Hiến pháp
1992 quy định về lực lượng công an như sau:
“Điều
47 Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt
cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,bảo
đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân,
bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh
phòng ngừa và chống các loại tội phạm.“
Điều này được “đơn giản
hóa” đáng kể trong Hiến pháp 2013 như sau:
“Điều
67 Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Vậy là, khi đã được nuôi no
đủ, có vũ khí tối tân, thậm chí sắp được trang bị
cả máy bay, tàu thủy, thì cũng qua cái thời hiến định “công an nhân
dân” phải “dựa vào nhân dân”. Đồng thời, Hiến pháp 2013 cũng “giải
phóng” công an khỏi trách nhiệm “bảo đảm… các quyền tự do, dân
chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ
nghĩa“.
Thực ra, thiên hạ vẫn thường
chứng kiến công an xâm phạm “các quyền tự do, dân chủ của công dân“, còn
chuyện công an “bảo đảm” các quyền đó thì nghe giống như cổ tích. Cho
nên, có lẽ sẽ trung thực hơn nếu xóa bỏ chuyện hoang đường ấy ra khỏi Hiến pháp.
Nhưng tại sao lại “giải
phóng” lực lượng công an khỏi cả trách nhiệm “bảo vệ tính mạng, tài
sản của nhân dân“, trong khi họ sống và hành nghề bằng tiền của Nhân dân? Đừng
ngụy biện rằng nội dung ấy đã chứa đựng trong nhiệm vụ “bảo vệ an ninh
quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Bởi vì nhiệm vụ còn sót lại này cũng đã từng tồn tại song song trong Hiến
pháp 1992 cùng với nội dung vừa bị bỏ rơi. Hơn nữa, đối với những tay súng“chỉ
biết còn Đảng, còn mình” (xem Ảnh 1) thì “trật tự, an toàn xã
hội” trước hết là sự an toàn của lãnh đạo, của chế độ,và “chống
tội phạm” trước hết là chống những người mà giới cầm quyền không ưa
nên quy kết là “thù địch”.
Ảnh 1: “CÔNG AN NHÂN
DÂN CHỈ BIẾT CÒN ĐẢNG, CÒN MÌNH” (Nguồn: Internet)
Nếu có biểu tình, dù chỉ lác
đác mươi người thực thi quyền hiến định và chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo
hay phản đối tham nhũng, thì họ cũng coi đó là hành động đe dọa sự an toàn
của chế độ, và ngay lập tức huy động lực lượng đông đảo để giải tán, thậm chí
để đàn áp. Còn nếu
tính mạng và tài sản của Nhân dân bị đe dọa, thì điều động lực lượng“mỏng” và
can thiệp “thận trọng” đến mức… trật tự xã hội ngày càng thêm hỗn
loạn. Viết như vậy, bởi tin rằng: Nếu thực sự muốn thì lực lượng công an
thừa sức để điều tra và khống chế nhiều tệ nạn xã hội đang hoành hành.
Thay vì bảo vệ, họ lại cư xử
với nạn nhân như với kẻ thù của chế độ. Họ đang tâm xả
đạn như mưa vào nhà dân, để mở đường cướp tài sản hợp pháp của dân, như đã diễn
ra ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012. Coi người dân như hình nộm để tập bắn, nên gọi cuộc xả
đạn về phía người dân là “diễn tập”, và cao hứng tự ca rằng “không có
cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này“. Rồi còn công khai
tuyên bố rằng: “Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách… rất là đẹp,
đâm ra không có gì phải phàn nàn về cái chuyện ấy cả.” Cứ tưởng, hành
động và phát ngôn như vậy trong Nhà nước của Nhân dân thì bị cách chức, thậm
chí bị loại khỏi ngành công an và bị truy tố trước pháp luật. Ai dè sau
một thời gian ngắn còn được vinh danh bởi quân hàm Thiếu tướng.
Chưa đầy năm tháng sau trận
xả đạn ở Tiên Lãng, vào ngày 24/4/2012, họ lại điên cuồng đánh
đập dã man cả hai phóng
viên Đài tiếng nói Việt Nam đến tác nghiệp ở Văn Giang, vì tưởng đó là dân
đen, dám đứng nhìn bầy quân cướp đất.
Những hành động ngạo ngược
hại dân diễn ra nơi nơi, nhiều không kể xiết… Khi còn hiến định trách
nhiệm “bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân” mà họ còn hành động như vậy, thì rồi đây sẽ còn tệ
hại đến mức nào nữa?
3.
Hiến pháp 1992 quy định về
quyền bầu cử và ứng cử như sau:
“Điều
54 Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười
tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.”
Điều này được viết lại trong
Hiến pháp 2013 như sau:
“Điều
27 Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc
thực hiện các quyền này do luật định.”
Nghĩa là bỏ đi mệnh đề “không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú”, vốn dĩ đã xuất hiện tại Điều
23 Hiến pháp 1959, sau đó được tiếp tục duy trì trongĐiều
57 Hiến pháp 1980 và Điều
54 Hiến pháp 1992.
Thuở còn quy định “không
phân biệt… thành phần xã hội…” thì đã rất phân biệt, đến mức khó
lòng tự ứng cự nếukhông thuộc “thành phần xã hội” được bộ máy
cầm quyền lựa chọn và đề cử. Vậy thì rồi đây sẽ ra sao?
4.
Về quyền khiếu nại, tố
cáo, Điều
74 Hiến pháp 1992 quy định:
“Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy
định.”
“Mọi hành vi xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải
được kịp thời xử lý nghiêm minh.”
Nội dung trên được thay bằng
một câu gọn lỏn như sau trong Điều
30 Hiến pháp 2013:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.”
Nghĩa là đòi hỏi “xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định” và “kịp thời xử
lý nghiêm minh” bị loại bỏ ra khỏi Hiến pháp 2013. Để thấy rằng việc loại
bỏ này không phải là vô tình, hay do các tác giả của Hiến pháp 2013 muốn lược
bớt tất cả các ràng buộc về thời gian, chỉ cần lưu ý rằng quy định những người
bị chất vấn “có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu
cầu trong thời hạn luật định” tại Điều
98 Hiến pháp 1992 vẫn được bảo lưu nguyên vẹn tại Điều
80 Hiến pháp 2013.
Bấy lâu nay, khiếu nại, tố
cáo của công dân hay bị ngâm tôm quá lâu, khiến nhiều người phải lang thang
khiếu kiện suốt chục năm trời. Rồi đây, khi ràng buộc về thời gian xử lý
đã bị xóa khỏi Hiến pháp, thì người dân sẽ phải mòn mỏi chờ đợi thêm bao lâu
nữa?
5.
Đáng lưu ý là quy định
“Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”
tại Điều
70 Hiến pháp 1992 đã bị loại bỏ ra khỏi điều hiến định về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp 2013 (tức là Điều
24). Tại sao lại như vậy? Chẳng nhẽ quy định ấy không còn cần thiết trong
chế độ đã từng diễn ra phong
trào đập phá đền chùa nhân danh chống mê tín dị đoan? Hay là để tránh mâu
thuẫn với thực tế chiếm đất tôn giáo vẫn xảy ra đó đây?
Mấy
vị Hòa thượng, Thượng tọa, Linh mục… trong Quốc hội có đấu tranh đòi
bảo lưu điều hiến định bảo hộ nơi thờ tự hay không? Hay vì quá mải lo
thực hiện sứ
mạng bảo vệ chế độ, mà quên mất vai trò phải đóng trong Quốc hội, là đại
diện và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo?
Điều đáng lo ngại là: Liệu
việc chiếm đất của các cơ sở tôn giáo có gia tăng sau khi xóa bỏ hiến định “nơi
thờ tự… được pháp luật bảo hộ” hay không?
Quyền sau song sắt
Một trong những tên gọi trớ
trêu nhất trong tiếng Việt thời nay là “cơ quan bảo vệ pháp luật”, vì
chính các cơ quan đó lại hay vi phạm pháp luật nhất. Vụ án
oan của ông Nguyễn Thanh Chấn chỉ là một ví dụ điển hình trong muôn
vàn vụ việc, đã và đang xảy ra thường xuyên trên mọi miền Tổ quốc. Tại sao nhân
danh bảo vệ pháp luật mà lại vi phạm pháp luật như vậy? Chắc hẳn, pháp
luật chỉ là thứ mà họ vin vào, chứ không phải là cơ sở pháp lý mà họ tôn trọng
và tuân theo khi thao túng quyền lực.
1.
Những người bị bắt, bị giam “thân
cô thế cô” trong chốn ngục tù, dù “đúng người đúng tội” cũng rất
cần được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý. Nếu bị bắt oan thì lại càng cần
luật sư bênh vực. Thế nhưng, bộ máy điều tra, giam giữ thường cô lập nghi
can, bị can, bị cáo, không cho họ có điều kiện lựa chọn và tiếp xúc với luật sư,
đặng dễ bề tra hỏi, ép cung, dàn dựng… Thậm chí, nhiều người bị ép buộc
phải khước từ luật sư do người nhà đứng ra mời và chấp nhận luật sư do bên điều
tra áp đặt, nên dù có bào chữa cũng bằng… âm.
Về “quyền bào chữa”,
Hiến pháp 1992 quy định như sau, trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của Tòa
án:
“Điều
132 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể
tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình…”
Như vậy, Hiến pháp 1992 chỉ
đề cập đến “quyền bào chữa của bị cáo“, tức là của “người đã bị
Toà án quyết định đưa ra xét xử” (theo định nghĩa tại Điều
50 Bộ luật tố tụng hình sự). Nếu Hiến pháp chẳng hề đề cập tới “quyền
bào chữa” thì có thể cũng chẳng hề chi, nhưng khi đề cập một cách không
đầy đủ thì lại trở thành tai hại, vì có thể tạo ra cách nghĩ sai lầm là người
bị bắt, người bị tạm giam giữ (theo định nghĩa tại Điều
48 Bộ luật tố tụng hình sự) và bị can (tức là “người đã bị
khởi tố về hình sự” – theo định nghĩa tại Điều
49 Bộ luật tố tụng hình sự) không có “quyền bào chữa”.
Tuy nhiên, hạn chế của Hiến
pháp 1992 không phải là lý do duy nhất khiến “quyền bào chữa” của “người
bị tạm giữ, bị can” bị xâm phạm tràn lan. Bởi vì Điều
11 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ ràng rằng:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.”
“Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.”
Hạn chế kể trên của Hiến pháp
1992 được khắc phục một phần bởi Khoản 7 Điều
103 Hiến pháp 2013, trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân:
“Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
(Tức là ngoài “bị cáo” thì
thêm đối tượng “bị can” cũng được bảo đảm “quyền bào chữa”.) Và
nó được khắc phục nhiều hơn bởi Khoản 4 Điều
31 Hiến pháp 2013, trong khuôn khổ hiến định quyền con người:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa.”
Như vậy, theo quy định
của Hiến pháp 2013, kể từ khi “bị bắt” đến khi “bị xét xử”, mọi người đều “có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Có điều, một khi đã đề cập
đến quyền con người trong vòng lao lí, thì Hiến pháp viết như vậy vẫn chưa
đầy đủ. Từ “bào chữa” khiến người ta chỉ chú tâm vào việc “bênh vực cho
đương sự trước tòa án”, tức là khi xét xử, và cùng lắm là mở rộng
ra lúc điều tra, khi công an thẩm vấn đối tượng để xác định tội phạm.
Nhưng lúc ở sau song sắt, ngoài giờ hỏi cung hay xét xử, dù trước khi
ra tòa hay đang thi hành án, thì đương sự vẫn cần được luật
sư trợ giúp và bảo vệ trước sự cư xử trái pháp luật của bộ máy điều tra và
giam giữ. Vậy nên cần sửa lại Khoản 4 Điều
31 Hiến pháp 2013, bằng cách bổ sung thêm thời gian “thi hành án” cũng như
“quyền được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý”, đại loại có thể viết như sau:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, hoặc thi hành án có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa, có quyền được luật sư
bảo vệ và trợ giúp pháp lý.”
2.
Khoản 2 Điều
103 Hiến pháp 2013 hiến định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.”
Vốn dĩ, quy định “xét xử
độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” đã có trong Điều
130 Hiến pháp 1992, song khoản hiến định đó tỏ ra vô dụng trên thực tế. Các
thẩm phán vẫn hay bị các loại cấp trên chi phối.
Nay có thêm quy định “nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử”, liệu nó có thể góp
phần kích hoạt lòng tự trọng của các thế lực quen thói lộng quyền và đánh thức
lương tâm nghề nghiệp của các thẩm phán quen phán xử theo lệnh trên hay không?
Ít nhất, về mặt pháp
lý, các thẩm phán không thể biện hộ cho hành vi uốn cong cán cân công lý
để xử sai, và các tầng thượng cấp không thể chối tội nếu bất chấp Hiến pháp để
can thiệp vào việc xét xử của tòa án. Và họ không thể dùng pháp luật hiện hành
để gỡ tội khi đứng trước vành móng ngựa trong chế độ kế tiếp.
3.
Khoản 5 Điều
103 Hiến pháp 2013 hiến định:
“Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm.”
“Nguyên tắc tranh tụng” là
gì? Trong bài “Bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa, cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án”, Tiến
sĩ Nguyễn Sơn – Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao – đã giải thích:
“Tranh tụng trong tố
tụng hình sự: là sự tranh luận của bên buộc tội và bên bào chữa, dựa trên
những chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa do các bên thu thập theo quy
định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là cơ sở để
Tòa án ra phán quyết có hiệu lực thi hành, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con
người.”
Khi viết “là cơ sở…”,
chứ không phải “là một trong những cơ sở…”, thì có nghĩa đó là “cơ sở
duy nhất”. Tức là: Khi phán quyết, Tòa án phải dựa và chỉ được dựa
trên kết quả tranh luận trước tòa giữa bên buộc tội và bên bào chữa.Không được
khăng khăng bám vào những chứng cứ hay lời khai nhận do bên điều tra và công tố
đưa ra, bất chấp lập luận của bên bào chữa. Càng không thể phán quyết theo “bản
án bỏ túi”, được thế lực nào đó ấn định từ trước khi diễn ra tranh luận tại
phiên tòa.
Hệ quả của Điều
103 Hiến pháp 2013 là: Những thẩm phán chân chính có thêm cơ sở
pháp lý để phán xử tử tế, theo đúng lương tâm nghề nghiệp. Còn những thẩm phán
bù nhìn thì mất bớt đường biện hộ cho bản lĩnh kém cỏi và hành động vô lương
của mình. Số phận dân oan sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào việc họ có được thẩm phán
chân chính xét xử và được luật sư đủ tài năng bào chữa hay không.
Rộ nở“công khai”
Một trong những nét đặc biệt
trong Hiến pháp 2013 là từ “công khai” đột nhiên “nở rộ”. Từ này
vốn chỉ xuất hiện hai lần trongHiến
pháp 1946 và đúng một lần trong mỗi bản Hiến
pháp 1959, Hiến
pháp 1980 và Hiến
pháp 1992. Nhưng nó xuất hiện đến 7 lần trong Hiến
pháp 2013.
1.
Về cơ bản, đó là một triệu
chứng tốt. Nhưng đôi khi, ý nghĩa của từ “công khai” lại khá khó
hiểu, chẳng hạn:
“Nhà nước tạo điều kiện để
công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.” (Khoản 2 Điều
28 Hiến pháp 2013)
“Công khai… trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” có nghĩa là thế nào? Nếu
công dân “kiến nghị” về vấn đề gì đó, thì cứ việc lặng lẽ mà “tiếp
nhận”, xem xét và giải quyết nghiêm túc, rồi “phản hồi” trực tiếp cho
người có kiến nghị. Như vậy đã có thể coi là đủ. Có nhất thiết phải “công
khai”, công bố với thiên hạ, rằng ông nọ bà kia kiến nghị cái ấy,nhưng
chẳng được chấp thuận vì lý do nào đấy, khiến người đó bị cười chê, hay không?
Đặc biệt, khi công dân muốn kiến nghị, tố cáo một cách kín đáo về hành vi tham
nhũng của quan chức, thì có nên “công khai” cho tham quan biết để trả
thù hay không?
Và đây nữa:
“Nhà nước thu hồi đất do tổ
chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Việc thu hồi đất phảicông khai, minh bạch và được bồi thường theo
quy định của pháp luật.” (Khoản 3 Điều
54 Hiến pháp 2013)
Tại sao lại đưa ra đòi
hỏi “phải công khai” (khi đã có yêu cầu “minh bạch”) trong hoàn
cảnh này? Nếu không hiến định “công khai”, thì người dân có thể chấp nhận
để cho “việc thu hồi đất” diễn ra kín đáo, vụng trộm hay
không? Và “phải công khai” đến mức độ nào? Điều mà người dân muốn
biết là danh tính của các thế lực nấp sau “việc thu hồi đất” để chia
chác lợi lộc, vậy thì có định “công khai” về chúng hay không?
2.
Có một yêu cầu “công
khai” đã trở thành kinh điển, đó là:
“Tòa án nhân dân xét xử công
khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục
của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu
chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.” (Khoản 3 Điều
103 Hiến pháp 2013)
Nội dung “Tòa án nhân
dân xét xử công khai” đã xuất hiện trong tất cả các hiến pháp của chế độ
này, tại Điều
67 Hiến pháp 1946, Điều
101 Hiến pháp 1959, Điều
133 Hiến pháp 1980 và Điều
131 Hiến pháp 1992. Tiếc rằng, cái đòi hỏi chính đáng đó đã trở thành
hiện thân của sự dối trá trắng trợn. Tuyên bố là “xét xử công khai”,
nhưng lại tung ra lực lượng dày đặc để ngăn cấm những người quan tâm tiếp cận
khu vực xử án, đến mức cả bố mẹ, anh chị em ruột của bị cáo cũng không được vào
phòng xét xử. Thực tế đó diễn ra triền miên, ngang nhiên… Ấy vậy mà các
cấp lãnh đạo vẫn cứ làm ngơ, như thể không hề hay biết. Trớ trêu hơn, với
tư cách “đại biểu cao nhất của Nhân dân”, “thực hiện quyền lập hiến, quyền
lập pháp” và “giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều
69 Hiến pháp 2013), đại biểu Quốc hội vẫn bỏ qua, không đòi hỏi Thủ
tướng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Công an (là những
chức vụ do Quốc hội “bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm” hoặc “phê chuẩn
đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức” theo quyền hạn được hiến định tại Điều
84 Hiến pháp 1992 và Điều
70 Hiến pháp 2013) ra lệnh thuộc hạ chấm dứt cái tệ nạn vi hiến, phi
pháp ngang nhiên ấy.
Lần này, bên cạnh đòi
hỏi “xét xử công khai” trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của
tòa án, Hiến pháp 2013 còn bổ sung thêm quy định “xét xử công khai” vào quyền
con người, là “được… xét xử công khai”:
“Người bị buộc tội phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai.
Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công
khai.” (Khoản 2 Điều
31 Hiến pháp 2013)
Hy vọng rằng, khi được
nhấn mạnh đến hai lần trong Hiến pháp, nhà cầm quyền sẽ không tiếp tục coi quy
định “xét xử công khai” như một trò đùa pháp lý. Và người dân
cũng ý thức rõ hơn quyền hiến định của mình, để mà cương quyết đấu tranh, đòi
nhà cầm quyền phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
3.
Đòi hỏi “công khai” mới
mẻ sau đây kéo theo một hệ quả quan trọng:
“Ngân sách nhà nước, dự trữ
quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà
nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công
bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.” (Khoản 1 Điều
55 Hiến pháp 2013)
Có nghĩa là từ nay, các
cơ quan Nhà nước phải “công khai” mọi khoản chi tiêu thuộc “ngân sách nhà
nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác
do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Cơ sở chính đáng của quy định
này là: Tiền bạc và của cải mà Nhà nước đứng ra quản lý chính là của Nhân
dân, nênNhân dân có quyền biết và phải biết để giám sát xem Nhà nước chi tiêu
có hợp lý hay không. Biết để còn can thiệp, hay ngăn chặn trong trường hợp cần
thiết, chứ không phải biết chỉ để mà tức… Vì thế, Nhân dân phải biết đủ
sớm, chứ không phải đợi đến lúc mọi chuyện trôi qua, khi tiền bạc, của cải của
Nhân dân đã “không cánh mà bay”, và thủ phạm đã “hạ cánh an toàn”…
Quy định “phải được sử dụng… công khai” cần được hiểu là phải
“công khai” từ trước khi “sử dụng”, tức là từ khi lập kế hoạch “sử dụng”.
Điều đó cũng giống như việc người điều khiển phương tiện giao thông phải
có tín hiệu báo hướng rẽ từ trước khi rẽ, chứ không phải rẽ xong rồi mới phát
tín hiệu rẽ. Muộn nhất thì cũng phải “công khai” trong khi đang “sử dụng”,
chứ không thể đợi đến lúc xong xuôi hay sau một thời gian thì mới “công
khai”.
Cần phải nhấn mạnh, rằng Điều
55 Hiến pháp 2013 quy định phải “công khai” tất cả các khoản
chi tiêu đó, không có ngoại lệ. Nghĩa là phải “công khai” cả các
khoản chi cho đảng cầm quyền, cũng như chi cho bộ máy quốc phòng và bộ máy an
ninh…
Hệ quả hiển nhiên là: Không
được coi những thông tin ấy là “bí mật Nhà nước” và không được phép đóng dấu
“mật” hay “tuyệt mật” lên các tài liệu liên quan, bởi vì như vậy là vi
hiến. Hơn thế nữa, không được kết tội những công dân lưu trữ hay công bố
tài liệu liên quan là “chiếm đoạt bí mật Nhà nước” hay “làm lộ bí mật Nhà nước”(theo Điều
263 Bộ luật hình sự).
4.
Với việc thông qua Hiến pháp
2013, Quốc hội đã tự dành cho mình một cam kết “công khai”, đó là:
“Quốc hội họp công khai.
Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.” (Khoản 1 Điều
83 Hiến pháp 2013)
Việc hiến định “Quốc hội
họp công khai” không phải là ngoại lệ hiếm hoi, mà là thông lệ khá phổ
biến trong hiến pháp của các nước trên thế giới, ví dụ như Hiến pháp Ba Lan (Điều 113), Hiến pháp Bỉ (Điều 47), Hiến pháp Bồ Đào Nha (Điều 116), Hiến pháp Đan Mạch (Điều
49), Hiến
pháp Đức (Điều 42), Hiến pháp Hungari (Chương
Nhà nước, Điều 5), Hiến pháp
Hy Lạp(Điều 66), Hiến
pháp Na Uy (Điều 84), Hiến pháp Nhật (Điều
57), Hiến pháp Pháp (Điều
33), Hiến pháp Thụy Điển (Chương
4, Điều 9)…
Ở Việt Nam, nội dung Quốc
hội “họp công khai” đã xuất hiện trong Hiến
pháp 1946 (Điều thứ 30), nhưng nó bị thủ tiêu trong ba bản hiến pháp
kế tiếp (từ năm 1959), để rồi sau 54 năm mới lại được tái hiện trong Hiến
pháp 2013.
“Quốc hội họp công khai” có
nghĩa là thế nào? Có thể tìm thấy câu trả lời rõ ràng ngay trong Hiến
pháp 1946 của chính chế độ này:
“Điều thứ 30 Nghị
viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép
thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong những trường
hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết nghị họp kín.”
Vâng, đặc điểm tối thiểu
của “họp công khai” là “công chúng được vào nghe”…
Hiển nhiên phải là như vậy!
Vì “Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân”, do Nhân dân bầu ra, để thay
mặt Nhân dân đóng vai trò “cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất” trong đất nước mà “tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, nên tất nhiên Nhân dân có
quyền chứng kiến “cơ quan đại biểu” của mình họp hành, hoạt động như thế nào.
Nếu muốn thì công chúng
phải được chứng kiến trực tiếp. Tức là “vào nghe” trực tiếp ngay
trong phòng họp của Quốc hội, chứ không phải gián tiếp, qua thông tin
tường thuật của tivi, đài, báo, đã bị biến dạng qua lăng kính chủ quan của nhà
báo và bị bóp méo bởi cái gọi là “định hướng tuyên truyền”. Kể cả
xem “truyền hình trực tiếp” trong phòng cách biệt (với phòng họp Quốc
hội) hay qua chương trình TV cũng không phải là “chứng kiến trực tiếp”, vì
tín hiệu truyền hình có thể “bị trục trặc” đúng những lúc gay cấn,
hay ống kính ghi hình có thể bị quay lệch khỏi hướng đáng quan tâm.
Để công chúng có thể “vào
nghe” trực tiếp thì phòng họp của Quốc hội phải được thiết kế và xây dựng
tương ứng, có đủ chỗ cho công chúng “vào nghe”. Một hình mẫu có thể tham
khảo là phòng họp của Quốc hội CHLB Đức, trong đó 6 khán đài với khoảng 430 chỗ ngồi (chưa
kể chỗ đứng) được dành cho công chúng, khách và nhà báo, để họ có thể trực tiếp
chứng kiến toàn cảnh phiên họp công khai của Quốc hội (xem Ảnh 2). Đương
nhiên, công chúng phải tiến hành đăng ký và đợi đến lượt mình; còn Quốc hội thì
phải có hướng
dẫn cụ thể và cung cấp công
cụ đăng ký trực tuyến để công chúng có thể đăng ký thuận lợi.
Liệu Nhà Quốc hội Việt Nam đang được
xây dựng có phù hợp với tinh thần “Quốc hội họp công khai” (nghĩa là
có chỗ cho công chúng “vào nghe”) hay không? Nếu không phù hợp, thì nhân
dịp đề
nghị bổ sung hơn 2.000 tỷ đồng cho Dự án Nhà Quốc hội, với lý do “thiết kế
công trình Nhà Quốc hội được điều chỉnh theo hướng điều chỉnh lại công năng cho
phù hợp với yêu cầu sử dụng mới”, phải nhanh chóng tạo dựng thêm chỗ
cho công chúng “vào nghe”. Nếu phớt lờ, không chịu hiệu chỉnh theo tinh
thần của Hiến pháp mới được thông qua, thì những người chịu trách nhiệm xây
dựng Nhà Quốc hội và điều khiển các cuộc họp Quốc hội trong tương lai sẽ bị coi
là vi phạm Hiến pháp.
Điều đáng lo hơn là liệu
những người lãnh đạo Quốc hội đã thực tâm chấp nhận việc “Quốc hội họp
công khai” hay chưa? Vốn dĩ, nhân danh “bảo vệ an ninh”, họ có
thể chặn cả đường giao thông công cộng, ngăn không cho dân chúng đi qua
khu vực mà Quốc hội họp. Thậm chí, họ từng ngang nhiên đưa ra lệnh cấm: “Phóng
viên không được phỏng vấn và chụp ảnh đại biểu Quốc hội trong khu vực sảnh
trước của hội trường – nơi đại biểu Quốc hội giải lao”. Phóng viên của báo
chí chính thống, vừa thực hiện nhiệm vụ của bộ máy tuyên truyền “lề đảng” và
thực thi quyền tự do báo chí, vừa đáp ứng yêu cầu truyền tải thông tin để cử
tri cả nước theo dõi và giám sát hoạt động của Quốc hội, mà còn bị cản trở thô
bạo như vậy, thì làm sao người lao động chân quê có thể len vào chốn “Quốc
hội họp công khai”?
Đây là một trong những thử
thách đầu tiên đối với Quốc hội sau khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực. Người dân
có thể kiểm nghiệm thái độ tôn trọng và chấp hành Hiến pháp của chính bản thân
Quốc hội, bằng cách sớm đăng ký tham gia chứng kiến trực tiếp các
cuộc “họp công khai” của Quốc hội. Để tránh ngụy biện về hoàn cảnh
chật chội, do chưa xây xong Nhà Quốc hội mới, có thể viết thẳng vào đăng ký
rằng sẵn sàng đứng nghe hoặc mang theo ghế xếp để ngồi nghe.
Nếu Quốc hội viện cớ quanh
co, không chịu thi hành cái điều khoản hiến định có thể dễ dàng thực hiện ngay
lập tức, chẳng bị ai cản trở ngoài chính bản thân, thì chứng tỏ họ coi Hiến
pháp vừa thông qua chỉ là trò đùa. Và nếu cơ quan lập hiến nhìn nhận như vậy
thì đừng có hy vọng hão huyền vào sự tôn trọng Hiến pháp của bộ máy cầm quyền.
Ngược lại, nếu Quốc hội thực
sự chấp nhận để người dân nào “vào nghe” các cuộc họp được hiến định
là “công khai”, thì đó là một tín hiệu tốt, chứng tỏ Quốc hội cũng muốn
xây dựng nhà nước pháp quyền.
Mánh lới bất thành
Trong Hiến pháp 2013, có
ba điều hiến định về quyền công dân được kèm theo câu “Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định” hay “… do luật định”, đó là:
“Điều
23 Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định.“
“Điều
25 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định.“
“Điều
27 Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc
thực hiện các quyền này do luật định.“
Câu kèm theo đó mang dụng ý
gì?
1.
Để trả lời câu hỏi trên, ta
điểm lại quá trình thay đổi, biến dạng của điều hiến định về quyền “tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” qua
các đời Hiến pháp của chế độ này.
Trong hai bản hiến pháp đầu
tiên (Hiến
pháp 1946 và Hiến
pháp 1959), các quyền công dân thuộc thể loại này được hiến
định một cách vô điều kiện, không bị hạn chế (xem Phụ lục I). Có
lẽ, đó là biểu hiện của thế hệ cầm quyền mới thoát thân từ cương vị bị trị, chưa
kịp lĩnh hội đầy đủ kỹ năng quản lý xã hội, và cũng chưa bị nhiễm nặng “hội
chứng cầm quyền”.
Hiến pháp thứ ba được thông
qua vào năm 1980, giữa lúc đất nước đã thống nhất dưới sự lãnh đạo độc quyền
của ĐCSVN. Trên đỉnh cao quyền lực, nhà cầm quyền không cần lấy lòng dân chúng
như thời kỳ còn phải tranh chấp, nên một số quyền tự do của công dân trong Hiến
pháp 1980 được hiến định kèm theo ràng buộc:
“Điều
67 Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình,phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã
hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật
chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các
quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.”
Tức là “các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình” của
công dân phải “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân”,
trong đó “lợi ích của chủ nghĩa xã hội” chiếm vị trí hàng đầu,
còn “lợi ích của nhân dân” chỉ đứng hạng hai. Cả hai loại lợi ích đó
và cái gọi là “lợi ích của Nhà nước” đều trừu tượng, nên dễ quy chụp
những hành động của dân chúng mà nhà cầm quyền không thích là “không phù
hợp” hay “xâm phạm”các lợi ích đó.
Hiến pháp thứ tư – Hiến pháp
1992 – ra đời vào lúc Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở châu Âu đã
sụp đổ đồng loạt,“chủ nghĩa xã hội” trở nên tai tiếng. Vì vậy, các nhà lập
hiến Việt Nam đã xóa bỏ điều kiện “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã
hội” và thay bằng ràng buộc “theo quy định của pháp luật”:
“Điều
69 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền
được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của
pháp luật.”
Việc đột nhiên hủy bỏ nội
dung “Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các
quyền đó” (vốn có trong Điều
67 Hiến pháp 1980 và Điều
25 Hiến pháp 1959) cho thấy: Ngay từ khi ban hành Hiến pháp 1992 nhà cầm
quyền đã không muốn chấp nhận người dân thực thi các quyền hiến định ấy. Trên
thực tế, họ đã dựa vào điều kiện “theo quy định của pháp luật” để “câu
giờ”, cố tình không ban hành các luật liên quan, để lập luận rằng: Khi
chưa có pháp luật quy định cụ thể thì chưa thể hành động “theo quy định của
pháp luật”.
Nguy hiểm tiềm tàng của thuật
ngữ “theo quy định của pháp luật” ẩn chứa trong không gian bao la của cái gọi
là “pháp luật”. Theo Điều
2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 172008/QH12, thì trong “Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật” không chỉ có Hiến pháp và các luật, mà
còn có cả “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân”. Hơn nữa, Điều
2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân số 31/2004/QH11 cho phép
“Hội đồng nhân dân ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trong những trường hợp… quyết định những chủ trương,
chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp…”
và cho phép
“Uỷ ban nhân dân ban hành văn
bản quy phạm pháp luật… để thi hành Hiến pháp…”
Như vậy, cả Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp phường, xã cũng có thể viện cớ hiến định để hạn
chế quyền công dân. Vì Hiến pháp không quy định nhiệm vụ và quyền hạn của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, nên khó chỉ ra một cách trực tiếp
rằng các hành vi sai trái hạn chế quyền công dân của các cơ quan đó là vi
hiến.
Trong khi trì hoãn hơn nửa
thế kỷ, cố tình không ban hành luật để bảo đảm thực hiện các quyền hiến định,
thì nhà cầm quyền lại sinh ra một số nghị định và thông tư để hạn chế quyền tự
do của công dân. Điển hình là cặp Nghị
định số 38/2005/NĐ-CP và Thông
tư số 09/2005/TT-BCA nhằm ngăn cấm thực thi quyền hội họp, biểu tình,
và cặp Nghị
định số 136/2006/NĐ-CP và Thông
tư số 04/2010/TT-TTCP nhằm cản trở khiếu nại có nhiều người tham gia.
Song bài “Lực
cản Nhà nước pháp quyền“ đã chỉ ra rằng các nghị định và thông tư đó
vi phạm Hiến pháp và luật.
Như đã khẳng định trong bài “Quyền
biểu tình của công dân”: Chừng nào chưa có “quy định của pháp luật”,
thì chừng ấy chưa có hạn chế đối với quyền biểu tình, nên công dân có quyền biểu
tình một cách hoàn toàn tự do, theo đúng tinh thần của Hiến pháp 1992, không
phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương tự.
Sau mấy phương án dự thảo
nhằm khắc phục tình trạng đuối lý (xem Phụ lục II), cuối cùng Hiến
pháp 2013 (Điều 25)quy định:
“Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình.”
Mệnh đề “theo quy định
của pháp luật” (trong Điều
69 Hiến pháp 1992) được xóa đi, không phải vì sự hào phóng đột biến, mà để
thay bằng câu sau:
Nghĩa là vẫn bảo lưu khả năng
thao túng bao la của cái gọi là “pháp luật”. Đáng nói hơn, là ba chữ
“việc thực hiện” được huy động vào cuộc. Để làm gì?
Một mặt, mục tiêu đặt ra chỉ
là sửa đổi chứ không phải viết mới Hiến pháp, nên những chỗ thực sự cần thiết
mới được sửa, nghĩa là thay đổi kể trên không thể vô tình, mà chắc đầy dụng ý.
Mặt khác, bộ máy đương quyền càng tỏ ra ngu ngơ và gắn bó với đồng chí phương
bắc bao nhiêu, thì lại càng ranh mãnh và đối kháng với Dân ta bấy nhiêu, cho
nên chẳng ngạc nhiên khi năng lực sáng tạo của nhà cầm quyền lại được huy động
để đối phó với Dân ta. Vì thuật ngữ “theo quy định của pháp luật” vẫn
chưa đủ thuyết phục, nên nay thay nó bằng mệnh đề “Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”, hẳn là để nhấn mạnh rằng “các quyền này”
chỉ được “thực hiện” khi có “pháp luật quy định”.
Với mánh lới mới mẻ
này, một bức tường pháp lý vững chắc hơn trước được dựng lên vô thời hạn
để cản công dân đến với quyền tự do. Nếu sau này bất đắc dĩ phải để công
dân “thực hiện” quyền nào đó, thì họ sẽ dùng pháp luật để hạn
chế đáng kể quyền ấy.
Đó có lẽ cũng là chìa khóa để
giải mã thâm ý của Điều
23 (về quyền tự do đi lại và cư trú, quyền ra nước ngoài và từ
nước ngoài về nước) và Điều
27 (về quyền bầu cử và ứng cử) trong Hiếp pháp 2013.
2.
Nếu đấng sinh thành ra Hiến
pháp 2013 nghĩ như vậy, thì đấy chỉ là ý muốn chủ quan của họ.
Không thể trì hoãn mãi mãi
việc ban hành các luật liên quan. Chớ viện cớ thiếu thời gian hay thiếu kinh
phí. Gần 70 năm đã trôi qua kể từ khi chế độ này ra đời, chẳng nhẽ vẫn
chưa đủ thời gian để làm các luật bảo đảm thực thi quyền công dân hay sao? Bỏ
hàng núi tiền của Nhân dân nuôi béo tham nhũng thì được, chẳng nhẽ trích một
phần nhỏ kinh phí để làm luật lại không được hay sao? Hơn nữa, nhiều người
sẵn sàng cùng nhau viết luật, và có đủ khả năng hoàn thành sản phẩm với chất
lượng tốt trong thời gian ngắn. Chỉ cần Quốc hội chân thành đề nghị, thì họ sẽ
ra tay. Nếu quả thật Quốc hội thiếu tiền, thì họ sẵn sàng làm không công, giống
như bỏ công viết những bài như thế này.
Trong một thể chế xưng
danh “Nhà nước pháp quyền” (Điều
2 Hiến pháp 2013) thì đảng cầm quyền cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp và pháp luật. Một khi đã hiến định rằng “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật” và “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính
trị” (Điều
16 Hiến pháp 2013), thì không thể đòi hỏi các tổ chức và cá nhân khác phải
thực hiện những điều mà đảng cầm quyền và các đảng viên của nó không cần thực
hiện.
Nếu đòi hỏi các tổ chức khác
phải đăng ký và chỉ được hoạt động sau khi được cấp phép, thì sẽ vấp phải các
câu hỏi sau đây: ĐCSVN đã làm thủ tục đăng ký thành lập khi nào? Đã được
chính quyền thời đó cấp phép hay chưa? Cho đến nay, Luật
quy định quyền lập hội, ban hành bởi Sắc lệnh số 102/SL-L004 do Chủ tịch Quốc
hội Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1957, vẫn còn nguyên hiệu lực, và nó được
lấy làm căn cứ cho Nghị
định số 33/2012/NĐ-CP, mới được ký vào ngày 13/4/2012. Sắc lệnh này quy
định:
“Điều
4. Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã
hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục
hoạt động, đều phải xin phép lại.”
Rõ ràng, ĐCSVN là “hội
đã thành lập trước ngày ban hành luật này” và “đã hoạt động trong
vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến”. Vậy thì, sau ngày 20/5/1957, ĐCSVN
đã làm thủ tục “xin phép lại” hay chưa?
Điều
4 Hiến pháp 2013 quy định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
“Các tổ chức của Đảng và đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Cho đến tận bây giờ, Hiến
pháp vẫn chưa xác định nhiệm vụ và quyền hạn của “lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội”, trong khi hiến định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ. Hiến pháp và pháp luật cũng chưa hề ban hành “khuôn khổ” hoạt động
của đảng. Song ĐCSVN không hề chờ đợi, mà vẫn ngang nhiên “hoạt động”. Vậy
thì tại sao lại không chấp nhận cho công dân thực thi các quyền hiến định,
mà đòi họ phải chờ đợi, đến khi có “pháp luật quy định” thì mới được “thực hiện
các quyền này”?
3.
Như đã viết ở trên, các quyền
công dân tại Điều
23, Điều
25 và Điều
27 được hiến định không kèm theo ràng buộc, chẳng phải vì hào
phóng bất thường, mà do dự định dùng luật và các văn bản dưới luật để “siết
lại”. Tiếc thay, hiện trạng của Hiến pháp 2013 không cho phép bất kỳ ai
triển khai ý đồ “siết lại” nữa. Vì sao?
Nguyên tắc sơ đẳng trong kỹ
thuật lập hiến và lập pháp là: Luật và các văn bản dưới luật chỉ có thể
hạn chế một quyền hiến định nào đó, nếu Hiến pháp cho phép hạn chế đích danh
quyền ấy. Ví dụ, Hiến
pháp CHLB Đức quy định như sau:
(1) Mọi người có quyền tự do
phát biểu và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và
tự do tìm hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí
và tự do thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị
hạn chế bởi quy định trong các luật phổ quát, bởi quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và
bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân…”
(1) Mọi người Đức đều có
quyền tụ họp một cách hòa bình và không mang theo vũ khí, mà không cần phải
trình báo hay được chuẩn y.
(2) Đối với các cuộc tụ
họp ngoài trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của
một luật.”
Nguyên tắc sơ đẳng đó không
phải là quá xa lạ với các nhà lập hiến Việt Nam . Có điều, lẽ ra phải được trình
bày một cách rõ ràng và chính xác, Hiến pháp Việt Nam lại bị lây nhiễm cái ngôn ngữ
của chính trường hoang vắng lòng trung thực: Khi nói thẳng thì không thật,
còn sự thật thì lại bị úp mở, trình bày quanh co… Thay vì viết rõ là “quyền…
có thể bị hạn chế bằng pháp luật”, thì lại che dấu sau thuật ngữ “có
quyền… theo quy định của pháp luật”.
Trong Hiến
pháp 1992, cụm từ “theo quy định của pháp luật” đã được viết kèm
theo một số quyền công dân, đó là:
- Quyền
bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều
54);
- Quyền
tự do kinh doanh (Điều
57);
- Quyền
nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp (Điều
63);
- Quyền
tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước (Điều
68);
- Quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội,
biểu tình (Điều
69).
Và quyền xây dựng nhà ở thì
được gắn với điều kiện “theo quy hoạch và pháp luật” (Điều
62). Viết như vậy có nghĩa là có thể dùng pháp luật để hạn chế các
quyền ấy.
Hiến pháp 2013 bỏ hiến định
về quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp, đồng
thời bỏ hiến định về quyền xây dựng nhà ở của công dân. Quyền tự do
kinh doanh được hiến định đơn giản và rõ ràng hơn:
“Điều
33 Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm.”
Đây cũng là một cách hiến
định, rằng có thể ban hành pháp luật để hạn chế quyền tự do kinh doanh.
Cách hiến định này cũng “tế
nhị” như thuật ngữ “trái luật” trong hai ngữ cảnh sau đây:
“Không ai bị tước đoạt
tính mạng trái luật.” (Điều
19 Hiến pháp 2013)
“Không ai được bóc mở, kiểm
soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.” (Điều
21 Hiến pháp 2013)
Ngụ ý là: Có thể ban
hành luật để “tước đoạt tính mạng” của ai đó và cho phép một số
đối tượng được quyền “bóc mở, kiểm soát, thu giữ… thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”.
Rõ ràng là Hiến pháp 2013
không lãng quên nguyên tắc lập hiến: Để có thể hạn chế một quyền hiến
định bằng luật hay văn bản dưới luật, thì trước hết phải hiến định về khả năng
hạn chế ấy. Vậy mà Hiến pháp 2013 lại hiến định mấy quyền một cách vô
điều kiện tại Điều
23, Điều
25 và Điều
27, không kèm theo hạn chế và cũng không có hiến định về khả năng hạn chế
các quyền ấy bằng pháp luật.
Mệnh đề “Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định” được kèm theo chỉ cho phép ban hành
pháp luật để hướng dẫn cách “thực hiện”, mà kết quả cuối cùng phải là
người dân được “thực hiện” các quyền đó. Luật và các văn bản dưới
luật không được phép gây khó dễ, nhằm cản trở hay tạo cớ ngăn cấm “thực
hiện”, vì như vậy là vi phạm Hiến pháp 2013.
Có thể một số vị sẽ cố lập
luận, rằng mệnh đề “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” chứa
đựng khả năng dùng pháp luật để hạn chế hay khước từ “việc thực hiện các
quyền này”. Song họ sẽ vấp phải câu hỏi: Tại sao không viết thẳng, viết rõ
dự định hạn chế hay khước từ ấy trong Hiến pháp? Cố tình mập mờ để đánh lừa ai?
Khoản 1 Điều
5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 12/2008/QH12 quy định:
“Ngôn ngữ sử dụng trong văn
bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng,
dễ hiểu.”
Theo đó, nếu nhà cầm
quyền dự định dùng pháp luật để hạn chế một quyền hiến định nào đó, thì phải
trình bày dự định ấy trong Hiến pháp một cách “rõ ràng, dễ hiểu”, chẳng
hạn: “Quyền này có thể bị hạn chế bằng pháp luật.”
Hiến pháp đích thực phải được
viết một cách trung thực. Hiến pháp dành cho toàn thể Nhân dân, nên nó phải
được “diễn đạt… rõ ràng, dễ hiểu” đến mức dân thường cũng có thể hiểu để thi
hành. Không được vận dụng kỹ năng lập lờ lươn lẹo từ chính trường vào Hiến pháp
nhằm đánh lừa người dân.
Có lẽ các nhà lập hiến CHXHCN
Việt Nam chẳng có ý định đi xa đến mức chấp nhận những quyền con
người, quyền công dân hoàn toàn “bao la”, không hề bị hạn chế. Nhưng “bút
sa gà chết”, câu chữ mà họ sử dụng trong Hiến pháp 2013 chỉ cho phép kết
luận như trên.
Sai lầm tai hại
Điều gì khiến các nhà lập
hiến sơ suất như vậy? Hẳn là do chủ quan, quá ỷ lại vào khả năng thao túng của
Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
“Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Ý đồ và hệ quả của nước cờ lạ
lẫm này là gì?
1.
Vốn dĩ, nội dung của điều
khoản trên được thể hiện trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2/1/2013) tại Khoản 2 Điều 15 như sau:
“Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của
cộng đồng.”
Bài “Teo
dần quyền con người trong Hiến pháp” đã phê phán khoản dự thảo này và
chỉ rõ: Danh sách “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” rộng đến mức có thể bao trùm
mọi hoàn cảnh thông thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể viện dẫn những
lý do đó, nhằm giới hạn quyền con người và quyền công dân. Và bất cứ lúc nào họ
muốn thì đều quan niệm là “trường hợp cần thiết”. Vì vậy, việc nhét
chữ “chỉ“ vào điều khoản ấy chẳng hề có tác dụng hạn chế phạm vi
hành động của giới cầm quyền, mà cốt để ngụy trang, che đậy mục đích hiến
định hóa việc chính quyền có thể giới hạn quyền con người và quyền công dân.
Hơn nữa, dự thảo không hề đề cập ai và cấp nào có quyền giới hạn. Điều
đó mở đường cho bộ máy cầm quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào quyền
con người và quyền công dân.
2.
Để khắc phục nguy cơ tùy
tiện, các nhà lập hiến đã bổ sung thêm ràng buộc “chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật“ vào Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013. Điều kiện này kéo theo hệ quả gì?
Trước kia, bài “Lực
cản Nhà nước pháp quyền“ đã dựa vào nhiệm vụ và quyền hạn của
Chính phủ được hiến định tạiĐiều
112 Hiến pháp 1992 để chỉ ra tính vi hiến của Nghị
định số 38/2005/NĐ-CP và Nghị
định số 136/2006/NĐ-CP. Vì Hiến pháp không quy định nhiệm vụ và quyền hạn
của bộ máy nhà nước từ cấp bộ và tỉnh thành trở xuống, nên không thể sử dụng
cách lập luận này để chỉ ra tính vi hiến của văn bản pháp quy do các
cấp dưới ban hành.
Nhưng bây giờ thì việc chứng
minh tính vi hiến trở nên đơn giản hơn. Theo Điều
14 Hiến pháp 2013, ngoài Hiến pháp, chỉluật mới được hạn chế
quyền con người, quyền công dân. Có nghĩa là: Tất cả các nghị quyết, pháp lệnh,
lệnh, quyết định, nghị định, thông tư… đều trở nên vi hiến nếu chúng hạn chế
quyền con người, quyền công dân. Chẳng hạn như các văn bản hạn chế quyền
hội họp, biểu tình (Nghị
định số 38/2005/NĐ-CP), hạn chế quyền
khiếu nại, tố cáo (Nghị
định 136/2006/NĐ-CP), hạn chế quyền
lập hội (Quyết
định 97/2009QĐ-TTg, Nghị
định 45/2010/NĐ-CP, Nghị
định 33/2012/NĐ-CP), hay hạn chế quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin trên mạng internet (Nghị
định 72/2013/NĐ-CP)…
Đáng lưu ý là: Giữa thời buổi
bộ máy cầm quyền đã tha hóa, phạm
trù “công vụ” thường bị lạm dụng để ngụy trang cho những hành động
xấu xa và thuật
ngữ “chống người thi hành công vụ” hay bị lạm dụng để vu khống dân
lành, thì Chính phủ lại mới ban hành Nghị
định 208/2013/NĐ-CP, trong đấy cho phép:
“… người thi hành công
vụ được… nổ súng để phòng vệ chính đáng, tấn công, khống
chế, bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ.”
Có nghĩa là nghị định này cho
phép người thi hành công vụ xâm phạm “quyền
bất khả xâm phạm về thân thể” (hiến định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp
2013), thậm chí có thể “tước
bỏ tính mạng” và “quyền sống“ (hiến định tại Điều 19 Hiến pháp
2013) của người dân trong một số trường hợp. Như vậy là vi phạm Điều
14 Hiến pháp 2013.
Nghị
định 208/2013/NĐ-CP có quy ước:
“Việc nổ súng trong
khi thi hành nhiệm vụ được thực hiện theo quy định tại Điều
22 Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Nhưng pháp lệnh không
phải là luật, nên việc Pháp
lệnh số 16/2011/UBTVQH12 cho phép “nổ súng” vào người dân
cũng là trái với quy định của Điều
14 Hiến pháp 2013. Do đó, viện dẫn pháp lệnh đó không có tác dụng cải thiện
tình trạng vi hiến của Nghị định 208/2013/NĐ-CP.
Điều nghiêm trọng là: Nghị
định 208/2013/NĐ-CP được ban hành vào ngày 17/12/2013, tức là 19 ngày
sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013, và nó có hiệu lực từ ngày 1/2/2014,
tức là một tháng sau khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực. Như vậy, việc
ban hành Nghị định 208/2013/NĐ-CP rõ ràng là một hành vi vi
phạm Hiến pháp 2013 trong thế chủ động, không phải bị động như những
nghị định đã được ban hành từ trước khi Hiến pháp 2013 được thông qua. Vì
sao Chính phủ lại hành động bất chấp Hiến pháp như vậy? Quốc hội định “xử
lý” thế nào đối với “hành vi vi phạm Hiến pháp” đó của Chính
phủ?
3.
Như đã viết trong phần 5.1,
khi được đưa vào dự thảo, mục đích nguyên thủy của Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013 lànhằm hiến định khả năng hạn chế các quyền con
người, quyền công dân. Song họ đã đi sai nước cờ, chọn nhầm cách thể hiện.
Với cách viết như hiện
nay, họ mới thể hiện điều kiện cần, là nếu được phép hạn chế thì “chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật“. Nó chưa thể hiện được điều
kiện đủ cho việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, tức làchưa
hề cho phép ban hành luật để hạn chế các quyền ấy.
Những ai đã lĩnh hội kiến
thức ở trường phổ thông đều phân biệt được giữa “điều kiện cần” và “điều
kiện đủ”, và đều hiểu rằng “chỉ có thể…” không có nghĩa là “có
thể…”. Ví dụ: Chắc mọi người đều đồng ý là “chỉ có thể làm Chủ tịch
Quốc hội nếu không mù chữ”. Nhưng như vậy không có nghĩa là thừa nhận mệnh
đề “có thể làm Chủ tịch Quốc hội nếu không mù chữ”.
Để thể hiện “điều kiện
cần và đủ”, lẽ ra phải viết thêm vào Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013 một từ “có thể” nữa, chẳng hạn:
“Quyền con người, quyền công
dân có thể và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
4.
Nhưng đấy chỉ là xét về
lô-gíc ngôn ngữ thuần túy. Còn về mặt pháp lý, thì không thể hiến định như vậy.
Bởi lẽ, nếu chấp nhận việc hiến định một cách chung chung, thì có thể thay điều
khoản trên bằng một câu còn tổng quát hơn nữa, đó là:
“Mọi quy định của Hiến pháp
đều có thể thay đổi trong trường hợp cần thiết.”
Và khi đó Hiến pháp cũng trở
nên vô dụng, chẳng cần tốn công bàn luận về nó làm gì nữa.
Khoản 2 Điều
5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 12/2008/QH12 viết rõ:
“Văn bản quy phạm pháp
luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung
chung.“
Trong Khoản 2 Điều
14 Hiến pháp 2013, phạm trù “quyền con người, quyền công dân” quá chung
chung và các “nội dung cần điều chỉnh” không hề được “quy
định trực tiếp”. Chùm “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” cũng quá chung
chung, bao la đến mức có thể quy chụp mọi hoàn cảnh. Khi nhà cầm quyền muốn,
thì tất nhiên họ coi đó là “trường hợp cần thiết”. Cho nên, nếu hiến định
như vậy, thì bất cứ quyền con người và quyền công dân nào cũng có thể bị chà
đạp một cách “hợp pháp”.
Có thể ai đó sẽ ngụy biện,
rằng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới phải phù hợp với Hiến pháp,
còn Hiến pháp không cần phải phù hợp với luật ấy. Đừng quên, rằng khi viết
và thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, thì Hiến pháp 1992 vẫn còn có hiệu lực,
và Khoản 2 Điều 5 Luật số 12/2008/QH12 hoàn toàn hợp hiến, nên họ vẫn phải tuân
theo.Nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có thể không cần phải tuân theo luật,
nhưng hành vi của những người viết và thông qua Dự thảo thì vẫn phải tuân theo
luật hiện hành.
Thế nào mới có thể coi
là “quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung
chung”? Thông thường, trong điều hiến định về quyền nào đó thì cần quy định
luôn hoàn cảnh và hình thức có thể hạn chế quyền ấy – Như vậy là“trực tiếp” nhất.
Nếu có một hoàn cảnh cần phải hạn chế một số quyền khác nhau, thì có thể sinh
ra một điều hiến định cho hoàn cảnh ấy, nhưng trong đó phải nêu đích danh
các quyền cần phải hạn chế một cách cụ thể (tức là “không
quy định chung chung”). Như vậy mới là “quy định trực tiếp nội dung cần
điều chỉnh”.
Một ví dụ minh họa là Điều
17a Hiến
pháp CHLB Đức. Khoản 2 của điều này viết rằng:
“Các luật phục vụ mục
tiêu quốc phòng và bảo vệ thường dân có thể quy định hạn chế quyền cơ
bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11) và bất khả xâm phạm về chỗ ở
(Điều 13).”
Ở đây, hoàn cảnh “có thể
quy định hạn chế quyền cơ bản” được viết cụ thể là “phục vụ mục tiêu
quốc phòng và bảo vệ thường dân”. Hình thức, phương tiện hạn chế được quy định
cụ thể là “luật”. “Nội dung cần điều chỉnh” được quy định cụ thể
là “quyền cơ bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11) và quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở (Điều 13)” – Nghĩa là không chỉ nêu đích danh quyền bị hạn
chế, mà còn phải viết rõ là quyền đó được quy định ở điều nào của
Hiến pháp. Như thế mới có thể coi là “quy định trực tiếp”, “không quy định
chung chung”.
Trong thể chế Cộng hòa, Nhà
nước phải là “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, và đương
nhiên Hiến pháp cũng phải là “của Nhân dân” và “vì Nhân dân”,
bất kể nó “do” ai viết ra và “do” ai thông qua. Vì
vậy, nhiệm vụ của Hiến pháp là hạn chế sự tùy tiện của bộ máy Nhà nước, để
bảo vệ Nhân dân, bảo vệ quyền con người và quyền công dân, chứ không phải là
khống chế Nhân dân, hạn chế quyền con người và quyền công dân, để bảo vệ Nhà
nước và để bộ máy ấy dễ hành xử tùy tiện.
Tóm lại, không thể biến
báo Điều
14 Hiến pháp 2013, hay tạo mới một điều khoản duy nhất, để hiến định khả
năng hạn chế tất cả các quyền con người và quyền công dân một cách chung chung! Do
đó, không tồn tại khả năng hợp hiến nào để nhà cầm quyền có thể hạn chế
các quyền được hiến định tại Điều
23, Điều
25 và Điều
27 của Hiến pháp 2013.
5.
Để ý thức rõ hơn hậu quả
tai hại của nước cờ lập hiến sai lầm, hãy xem xét điều khoản hiến định về “quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở”.
Vốn dĩ, Điều
71 Hiến pháp 1980 quy định:
“Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở
của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho
phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
tiến hành, theo quy định của pháp luật.”
Sau đó, Điều
73 Hiến pháp 1992 bỏ bớt câu thứ ba và chỉ giữ lại hai câu đầu:
“Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở
của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.“
Nghĩa là cả hai Hiến
pháp “tiền nhiệm” đều “trừ trường hợp được pháp luật cho
phép” ra khỏi phạm trù “Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu người đó không đồng ý”.
Nhưng bây giờ mệnh đề “trừ
trường hợp được pháp luật cho phép” bị xóa khỏi Hiến pháp 2013:
Công dân có quyền có nơi ở
hợp pháp.
Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được
người đó đồng ý.
Việc khám xét chỗ ở doluậtđịnh.”
Như vậy, Hiến pháp 2013 quy
định dứt khoát rằng: “Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không
được người đó đồng ý.” Và không hề loại trừ bất cứ trường hợp nào.
Hệ quả pháp lý của Khoản 3
Điều 22 chỉ là: “Việc khám xét chỗ ở” phải “do luật định”,
tức là phải dùng luật, chứ không được dùng các văn bản dưới luật, như
nghị định, thông tư…, để quy định việc khám xét chỗ ở. Khoản 3 không hề hạn chế
hay phủ định Khoản 2, nghĩa là không hề cho phép ban hành luật quy định
“việc khám xét chỗ ở” của bất kỳ người nào trong trường hợp “không được người
đó đồng ý”.
Vậy thì nhà cầm quyền sẽ làm
thế nào khi cần khám xét chỗ ở của nghi can nhưng “không được người đó
đồng ý”?
Trong tiếng Việt thì “không ai…” có
nghĩa là “không người nào…”, kể cả công an và các loại “tay
chân” của họ. Cho đến nay, họ thường cho người đóng vai “quần chúng
bức xúc”, hay
giả dạng “côn đồ tự phát”, thậm chí huy động cả côn đồ đích thực, để
đàn áp công dân thực thi các quyền hiến định. Bây giờ, khi Hiến pháp 2013 có
hiệu lực, nếu cần khám xét chỗ ở của đối tượng nào đấy nhưng “không được
người đó đồng ý”, chẳng nhẽ lại bắt con người đóng con vật hay sao?
Hay tự phủ định tư cách “người” của mình? Hay ngang nhiên hành động
bất chấp Hiến pháp?
Ai cũng biết cái thông lệ
được thừa nhận khắp thế giới, là bộ máy công an, cảnh sát phải được Hiến
pháp và luật cho phép khám xét chỗ ở trong một số trường hợp cần thiết, cho dù
chủ nhân có đồng ý hay không. Vậy mà, thông qua câu chữ đã thể hiện
trong Hiến pháp 2013, Quốc hội khóa XIII đã tước bỏ mất khả năng khám
xét hợp lý ấy. Buồn thay…
*
* *
Những điều đã trao đổi trong
bài này dựa trên tư duy và lô-gíc thông thường, dưới giả thiết là nhà cầm
quyền thực tâm tôn trọng và chấp hành Hiến pháp. Tiếc rằng, bằng hành động thực
tế, họ thường xuyên phủ định giả thiết đó. Hiển nhiên, nếu nhà cầm quyền
chỉ coi Hiến pháp là một thứ “tập làm văn”, thì mọi suy luận về hệ quả của nó
đối với thực tế cuộc sống là hoàn toàn vô nghĩa.
Đọc những điều mà ta đã và sẽ
còn tiếp tục rút ra, chắc hẳn nhiều vị đại biểu Quốc hội giật mình, khi thấy rõ
hơn hình hài cái Hiến pháp mà mình đã tắc trách nhấn nút “tán thành” lúc
mới hiểu lõm bõm. Ngược lại, có thể một số vị đã trực tiếp tham gia viết và
chỉnh sửa dự thảo Hiến pháp sẽ phản ứng và quả quyết rằng họ nghĩ hoàn toàn
khác. Nhưng đối với văn bản Hiến pháp thì các tác giả nghĩ ra sao chỉ là
chuyện phụ, điều quyết định là họ đã viết như thế nào. Bởi không phải cái
tư duy quanh co hay ý đồ mập mờ của phía lập hiến, mà chính câu chữ, lời văn
được thể hiện trong Hiến pháp mới xác định nội dung hiến định. Do đó, dù
tuân theo nguyên tắc khách quan, ta chỉ cần dựa trên thực trạng văn bản Hiến
pháp đã được Quốc hội thông qua và đang có hiệu lực để suy luận, chứ không phải
lệ thuộc vào những gì đã diễn ra trong đầu của thế lực cầm quyền và quân sư của
họ.
Có lẽ do ỷ thế lập pháp, nên
chủ quan mà đi sai nước cờ lập hiến. Bây giờ biết tính sao đây? Vừa thông
qua Hiến pháp 2013 với sự tán thành gần như tuyệt đối, chẳng nhẽ bây
giờ Quốc hội lại đem nó ra mà tẩy xóa? Đã quả quyết rằngHiến pháp
2013 “thể
hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, ý Đảng hợp với lòng
dân”, thì bây giờ Quốc hội có quyền bất chấp “nguyện vọng của Nhân
dân” và “lòng dân” để sửa chữa nó hay không?
Trước sự cố ngoài ý muốn kiểu
này, thông thường có ba cách xử lý như sau.
(1) Quân tử nhất
ngôn: Đành chấp nhận hậu quả do sai lầm của chính mình gây ra, thực hiện đúng
văn bản Hiến pháp mà mình đã ban hành, dù trái ý và bất lợi cho nhà cầm quyền.
(2) Kiên định
& trung thực: Không muốn rời bỏ ý định vốn có, nên thẳng thắn thừa nhận sai
lầm, xin lỗi và xin phép Nhân dân cho sửa chữa các lỗi đã phạm phải, để Hiến
pháp thể hiện đúng ý định của thế lực cầm quyền, dù nó mới được thông qua, còn
chưa ráo mực.
(3) Ù lì bất chấp:
Không chịu thừa nhận sai lầm, mà vẫn hành động theo ý mình, bất chấp hiện trạng
của văn bản Hiến pháp.
Không hiểu Quốc hội (với
tư cách cơ quan lập hiến) và thế lực thực quyền (điều khiển hành vi
của Quốc hội) sẽ chọn cách nào?
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điểm chung trong hai bản hiến
pháp đầu tiên của chế độ này là một số quyền công dân được hiến định một
cách đơn giản, vô điều kiện, không bị hạn chế. Hiến
pháp 1946 quy định như sau:
“Điều thứ 10
Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra nước ngoài.”
Mười ba năm sau, Hiến
pháp 1959 sửa lại thành:
“Điều
25 Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền
tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những
điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Phụ lục II
Trong Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2/1/2013), Điều
69 Hiến pháp 1992 đã được sửa lại như sau:
“Điều 26 Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Điều gì thay đổi ở
đây? Như đã phân tích trong bài “Teo
dần quyền con người trong Hiến pháp”, họ xóa đi hai chữ “có quyền” trước
đoạn “được thông tin” và trước đoạn “hội họp, lập hội, biểu
tình”. Đồng thời, dùng chữ “được” (vốn dĩ chỉ là một thành phần của
từ “được thông tin”) thay cho hai chữ “có quyền” ấy. Để làm
gì? Để xóa bỏ những quyền cơ bản đó của công dân. Từ chỗ công dân
luôn “có quyền” (kể cả khi không có luật hoặc chưa có luật liên
quan), bây giờ bị tước“quyền”, và “quyền” bị hạ cấp xuống thành những
thứ “được” ban phát. Mà “được… theo quy định của pháp luật” thì
cũng có nghĩa là “chỉ được… theo quy định của pháp luật”. Tức là công
dân “chỉ được” ban phát nếu nhà cầm quyền đã ban hành “quy định
của pháp luật”. Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ đi việc ban hành “quy
định của pháp luật”, thì người dân sẽ không “được thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Qua đó ta thấy, nhà cầm quyền vẫn duy
trì ý chí cản trở công dân thực thi các quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, có quyền thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình.
Cuối cùng, trong Hiến
pháp 2013 mới được thông qua, các tác giả đã bỏ từ “được” và
thay nó bằng từ “tiếp cận”:
Như vậy là cụm từ “Công
dân có quyền” ở đầu câu không còn bị chữ “được” chặn đường, mà
có thể tác động liên thông tới tận từ “biểu tình” ở cuối câu.
Ngày 29 tháng 8 năm 2014
H.X.P
----------------
Hiến hay Hiếp Pháp gì gì đấy, "người ta" cũng theo cảm tính mà "thi hành". Chả có gì gọi là tích cực cả.
Trả lờiXóaTa cứ như sống trong Cõi Hồng Hoang, Thời Nguyên Thủy, Đồ Đá.
Cám ơn 2 vị Gs Viện sĩ Hoàng xuân Phú & đại tá chủ nhân blog Bùi văn Bồng đã cho độc giả một bài viết hay. !
Trả lờiXóaBác H.X.P đã bỏ công xăm xoi cái Hiến Pháp 2013 để chỉ cho mọi người thấy nó đã thụt lùi ra sao - Xin ghi công bác -. Vậy mà ông Trọng, ông Hùng khen nức nở, Quốc hội nhắm mắt thông qua cho xong. Kiểu này e rằng nó sẽ là bản HP đoản mệnh nhất.
Trả lờiXóaHiến pháp đưa ra cốt an dân
Trả lờiXóaNgờ đâu sữa đỗi đến cùng bần
Dân nằm trong rọ vô than thở
Chỉ lợi ngồi trên Đảng hưởng nhàn
"Máy Cái" là đây, chính hay tà?
Trả lờiXóaKế thừa, đổi mới, chẳng hay là...
Dân chủ, pháp quyền - điều cốt lõi
Nước, dân không thuận, ắt phong ba.
Cái tay Phú "săm bờ soi" quá.
Trả lờiXóaDưng qua đó mới biết các đấng đỉnh cao trí tuệ toàn bọn trả vờ ngu
và ngu đúng lúc đúng chỗ....ngu ăn thịt người
cảm ơn bác Phú vạch mặt lũ thối tha
Tống người ta vào rọ ( Điều 4 HP ) rồi cười khẩy và hỏi xem rằng ngồi trong đó có thích không .
Trả lờiXóaÁp đặt ý mình , Rồi bày đặt “ Ý đảng – Lòng dân “ – Là cách mà ĐCSVN đã xử sự với nhân dân mình thông qua HP 2013 .
Cảm ơn Bác Hoàng Xuân Phú về bài viết sâu sắc này .
Để gió cuốn đi
Tôi hiểu tâm can và ruột gan ngài Viện sĩ họ Hoàng - ước gì VN chúng ta có được vài chục ông viện sĩ như thế này thì đời đở khổ biết bao nhiêu !!! (hủy bỏ điều 4 hiến pháp 2013 là điều duy nhất đúng )
Trả lờiXóaThực chất của việc sửa đổi HP 2013 là để tăng cường thêm quyền lực cho giai cấp cai trị , còn đối với người dân thì ngược lại là tất nhiên , do HP chỉ là một văn kiện thứ yếu dưới cương lĩnh của đảng nên HP chỉ là một công cụ để cai trị dân của đảng , còn các vị lãnh đạo của đảng là những người có quyền đẻ ra cả cương lĩnh đảng thì đương nhiên là họ có quyền đứng trên HP và luật pháp và họ sẽ không sợ bị luật pháp và HP chế tài về mọi hành vi lãnh đạo sai lầm của họ trong quá khứ và cả trong tương lai cho dù đó là những hành vi bán nước hay phá nước được thực hiện trực tiếp hay gián tiếp thông qua các mật ước do đảng ký kết như mật ước Thành Đô chẳng hạn .
Trả lờiXóaHP 1992 ra đời sau khi của mật ước Thành đô được ký kết năm 1990 còn HP 2013 cũng ra đời sau khi cờ 6 sao xuất hiện ở VN và tất cả hình như đều có cùng mục đích .
Bao giờ người ta hết ăn cắp công khai (tham nhũng), chỉ còn đa số là "người chân chính", CNCS sẽ biến khỏi Việt Nam!
Trả lờiXóaBài viết này rất công phu và phân tích chỉ ra những điều, khoản và nội dung HP rất xác đáng , xin trân trọng cảm ơn TS H.X. Phú.
Trả lờiXóa