"Việt Nam - Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông..."
* Kosal Path
+ Người dịch: Huỳnh Phan
Trích từ bài viết
“The
Sino-Vietnamese Dispute over Territorial Claims, 1974–1978:
Vietnamese
Nationalism and its Consequences“,
International Journal of Asian Studies, 8, 2
(2011), pp. 189–220
Lịch sử tác động qua lại giữa TQ
và Việt Nam
là một lịch sử lâu dài. Kí ức tập thể của người Việt về sự thống trị của TQ
trong hai thiên niên kỉ chứa đầy một kho chuyện kể về chủ nghĩa anh hùng chống
lại bá quyền TQ mà những người Việt yêu nước tận dụng để vận động người dân
chống lại sự xâm lược của TQ trong tương lai [1].
Trong khi các nguồn năng lực
chính của Việt Nam để đẩy lùi các cuộc xâm lược liên tục của TQ, hoặc để làm
cho việc TQ chiếm đóng Việt Nam lung lay có thể là một ý thức về dân tộc anh hùng,
đồng thời tồn tại việc cạnh tranh có ý thức của các tổ chức chính trị và quân
sự của TQ, không những cho thấy cốt lõi trong việc chống lại mối đe dọa TQ mà
còn làm hài lòng các hoàng đế Trung Hoa vô cùng tự tin về tính ưu việt văn hóa
của chính họ.[2] Như William Duiker đã nhận xét một cách chính xác, “Đối với
người Việt Nam, thái độ của họ đối với TQ là một sự pha trộn độc đáo giữa sự
tôn trọng và tính ngỗ ngược, kết hợp việc chấp nhận thực tế về sức mạnh và ảnh
hưởng của TQ với việc bảo vệ bền bỉ nền độc lập và tính khác biệt của Việt
Nam.”[3] Chỗ mà lịch sử chính thức Việt
Giai đoạn 1950-1965 chứng kiến sự
hợp tác chặt chẽ nhất giữa hai nước láng giềng này. Trong giai đoạn này, các
nhà lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) và Đảng Cộng sản TQ (ĐCSTQ)
vạch ra một khẩu hiệu chung về mối quan hệ thân mật Việt -Trung “vừa đồng chí
vừa anh em”.[4] Cả hai bên đều gạt bỏ điều tiêu cực của quá khứ – đó là, lịch
sử TQ xâm lược và chinh phục Việt Nam trong hai thiên kỉ trước khi thực dân
Pháp đến vào thế kỉ XIX. Thay vào đó, họ nhấn mạnh rằng Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa như là một nhà nước cách mạng mới của công nông vô sản TQ vốn đã từng đấu
tranh không ngừng trong nhiều thế kỉ chống lại sự đàn áp của phong kiến TQ và
thực dân châu Âu.[5]
Ví dụ, vào ngày 18 tháng 10 năm
1956, báo Nhân Dân, tờ báo của ĐLĐVN, đưa ra một bài xã luận chào đón chuyến
thăm VNDCCH của Thủ tướng Chu Ân Lai bằng cách mở đầu với nhận xét sau: “Trong
mấy ngàn năm qua, nhân dân hai nước chúng ta đã chiến đấu chống lại bọn thống
trị phong kiến [muốn nói đến cả phong kiến TQ lẫn VN], và gần đây nhất, chúng
ta đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân [qua việc gợi lại kí ức về quân
“Cờ Đen” TQ vượt qua biên giới Trung-Việt để cùng với dân Việt Nam ở miền Bắc
chống quân đội Pháp].”[6] Sau đó, Chu Ân Lai đáp lại bằng cách bày tỏ lòng tôn
kính đến Hai Bà Trưng từng đứng lên chống lại đế chế Trung Hoa vào năm 43, tố
cáo chủ nghĩa nước lớn của các triều đại Trung Hoa đối với Việt Nam trong quá
khứ.[7]
Trên thực tế, khẩu hiệu “vừa đồng
chí vừa anh em” này được che phủ trong các toan tính chiến lược của cả hai bên.
Như Qiang Zhai nêu: “Liên minh Bắc Việt-TQ là một liên minh về sự cần thiết lẫn
nhau. Hà Nội thì muốn có viện trợ của TQ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mĩ, đổi lại Bắc Kinh cũng cần sự ủng hộ của VNDCCH cho các mục tiêu đối ngoại
của mình.”[8] Đối với Hà Nội, trợ giúp kinh tế và quân sự của TQ trong cuộc
chiến chống người Pháp trở lại Đông Dương là không thể thiếu vào lúc Liên Xô
không quan tâm tới công cuộc này của Việt Nam.[9] Tuy nhiên, Hà Nội vẫn duy trì
mối quan hệ có hoạt động với Moskva và bí mật bày tỏ mong muốn được Liên Xô
viện trợ sau khi Pháp rút lui vào năm 1955.[10] Đối với Bắc Kinh, Bắc Việt Nam,
giống như Bắc Triều Tiên, là một vùng đệm chiến lược để bảo vệ sườn phía nam
của TQ chống lại các mối đe dọa từ các nước phương Tây không thân thiện và phục
vụ cho việc định danh TQ như một nhà cổ vũ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.[11]
Trong những năm đầu thập niên
1950, ĐLĐVN đã bị cuốn hút bởi ảo tưởng rằng mối quan hệ “vừa đồng chí vừa anh
em” giữa hai đảng cộng sản sẽ mở ra một chương mới trong lịch sử của một liên
minh bình đẳng trong mối quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, dù cả ĐCSTQ lẫn ĐLĐVN
đều thấy cần phải vạch rõ một lịch sử chung mới cùng là nạn nhân dưới ách thống
trị của các triều đại TQ trong quá khứ và sự nghiệp chung chống lại thực dân
Pháp, nhưng liên quan tới bản chất của liên minh mới hình thành họ lại khác
biệt nhau trên cơ bản.
Trước công chúng, các nhà lãnh
đạo TQ không ngớt nhấn mạnh những lời lẽ về “bình đẳng và tôn trọng độc lập lẫn
nhau” như một nguyên tắc cốt lõi của mối quan hệ mới. Tuy nhiên, trên thực tế
thái độ của họ đối với Việt Nam giống như mối quan hệ thầy-trò.[12] Trong kí ức
các lãnh đạo Việt Nam, việc TQ phản bội cách mạng Việt Nam có thể truy từ lời
khuyên của Bắc Kinh trong Hội nghị Genève 1954 mà đỉnh cao là việc chia cắt
Việt Nam đến năm 1975.[13] Tuy nhiên, sự bất bình đó đã không phát triển thành
sự thù địch công khai vì Việt Nam đặt ưu tiên cao nhất cho sự giúp đỡ của TQ
trong việc giải phóng Nam Việt Nam. Chỉ dấu cho việc này là khi phản ứng về
chính sách đồng hóa cưỡng bức của VNCH đối người Hoa vào năm 1955, Hà Nội đã
đồng ý miệng với nguyên tắc đồng hóa tự nguyện đối với cư dân người Hoa, vào
năm 1957, Bắc Việt Nam và TQ đã kí một thỏa thuận song phương, trong đó Hà Nội
cam kết không dùng đến biện pháp đồng hóa cưỡng bức cư dân người Hoa theo cách
VNCH đã thực hiện ở Nam Việt Nam.[14]
Đầu năm 1958, khi Hà Nội theo
đuổi giai đoạn mới “đấu tranh vũ trang” giải phóng miền Nam , họ cần
thêm nhiều viện trợ kinh tế và quân sự của TQ. Trong bối cảnh này, Bắc Kinh đã
biến cuộc khủng hoảng không có liên quan thành cơ hội để thực thi mối quan tâm
của họ về lãnh thổ ở biển Đông vào một thời điểm mà Hà Nội yếu kém và phụ thuộc
nhiều vào sự giúp đỡ của TQ.
Cuối tháng 8 năm 1958, Mao liều
lĩnh quyết định pháo kích đảo Kim Môn, kích động cuộc khủng hoảng eo biển Đài
Loan lần thứ hai leo thang thành một cuộc thách thức quân sự với Hoa Kì. Ngày 4
tháng 9 năm 1958, Bắc Kinh tuyên bố rằng lãnh thổ của TQ “bao gồm đại lục Trung
Hoa, các đảo ven bờ, Đài Loan và các đảo phụ cận, gồm cả quần đảo Bành Hồ, quần
đảo Ðông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa
(Maclesfield Bank), quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và tất cả các đảo khác ngăn
cách bởi các vùng biển công (quốc tế).”[15]
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ
tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng TQ Chu Ân Lai “ghi nhận
và tán thành tuyên bố của Bắc Kinh ngày 4 tháng 9.”[16] Thật ra, lãnh đạo
VNDCCH không có quyền hợp pháp để nhường lại vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến
thứ 17 cho TQ bởi vì nó là phần thuộc chủ quyền lãnh thổ của VNCH. Về sau, vào
ngày 10 tháng 6 năm 1977, khi bị Phó Thủ tướng TQ Lí Tiên Niệm vặn hỏi, Phạm
Văn Đồng tìm cách hợp lí hoá lập trường trước đây của [Bắc] Việt Nam bằng cách
lập luận rằng đó là một “vấn đề cấp thiết thời chiến” để ủng hộ các yêu sách
của TQ trong chiến tranh bởi vì sự cần thiết phải “đặt việc chống đế quốc Mĩ
lên trên mọi thứ khác.”[17] Trong phản bác, Lí Tiên Niệm trả lời:”chiến tranh
không đang tiếp diễn tại Việt Nam vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 khi thủ tướng
Phạm Văn Đồng. . . thừa nhận trong công thư gửiThủ tướng Chu Ân Lai rằng hai
quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ TQ.“[18]
Cuối năm 1964 đến đầu năm 1965,
trước viễn cảnh một cuộc xâm lược của Mĩ ở Bắc Việt Nam , các nhà lãnh đạo của Hà Nội
quan ngại sâu sắc về thái độ do dự của Bắc Kinh đối với việc phải tiến hành
chiến tranh chống Mĩ để bảo vệ đất nước. Mặc dù Mao Trạch Đông đã đề ra phương
án đánh nhau với Mĩ kể từ mùa hè năm 1962, và cam đoan với các nhà lãnh đạo Hà
Nội về quyết tâm chung của TQ là bảo vệ Bắc Việt Nam trong trường hợp bị Mĩ tấn
công, Hà Nội vẫn nghi ngờ rằng Mao đã cố né tránh đối đầu quân sự trực tiếp với
Hoa Kì. Ngay cả sau khi chính quyền Johnson quyết định phát động chiến dịch ném
bom kéo dài Bắc Việt Nam (gọi là Operation Rolling Thunder) vào tháng 2 và
tháng 3 năm 1965 , Mao vẫn luôn khuyên phải cẩn trọng.[19]
Ngày 9 tháng 5 năm 1965, Hà Nội
thực hiện một sáng kiến khác qua việc tuyên bố rằng “quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về TQ.”[20] Phạm Văn Đồng một lần nữa đưa ra sự cần thiết và ưu
tiên trong việc chống đế quốc Mĩ vì các quần đảo này vào thời điểm đó nằm dưới
sự kiểm soát của quân đội Mĩ và Nam Việt Nam.[21] Bây giờ nhìn lại sự việc này sẽ
thấy rằng các nhà lãnh đạo Hà Nội đã buộc phải thừa nhận công khai tuyên bố của
Bắc Kinh vì cần phải tranh thủ tất cả hậu thuẫn của TQ cho một công cuộc to lớn
hơn là đấu tranh vũ trang chống lại Nam Việt Nam được Hoa Kì ủng hộ, và do đó
không thể nói rõ ra những lợi ích đối nghịch với TQ. Trong chỗ tư riêng, họ rất
căm tức việc TQ lợi dụng cơ hội để quyết đoán về lãnh thổ vào thời điểm mà Việt
Nam
phụ thuộc nặng nề vào sự giúp đỡ của TQ.
Tuy nhiên, chính hiệu ứng lan tỏa
của Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông vào lúc cao điểm của nó trong các năm
1966-1968 trên miền Bắc Việt Nam đã mang sự ngờ vực lẫn nhau được che giấu sơ
sài trong khoảng thời gian 15 năm hợp tác Trung-Việt chặt chẽ ra công khai, và
đã khiến Việt Nam lo ngại chủ nghĩa Sô vanh TQ lần nữa.[22] Vào lúc cao điểm
của Cách mạng Văn hóa, khẩu hiệu tình đoàn kết Việt-Trung “vừa anh em vừa đồng
chí” đã được đưa vào kiểm nghiệm trên thực tế lần đầu tiên, và cho thấy rõ hơn
rằng lợi ích chiến lược của cả hai bên được che giấu sơ sài sau một tấm màn rất
mỏng về tình đoàn kết lịch sử và ý thức hệ. Như sử gia Chen Jian đã lột tả: “Cái
mà Bắc Kinh có ý định tạo ra là một phiên bản hiện đại của mối quan hệ giữa đế
chế Trung Hoa và các nước láng giềng chư hầu. Cách hành xử này nhắc nhở rất
hiệu quả cho người Việt Nam
về quá khứ có vấn đề của họ với người TQ. . . . “[23] Nhận xét của Chen Jian
trùng hợp với quan điểm chính thức của chính phủ Việt Nam vào thời
điểm đó. Mãi về sau, vào ngày 10 tháng 6 năm 1977, một năm sau khi Cách mạng
Văn hóa kết thúc, Phạm Văn Đồng nói với phó thủ tướng TQ Lí Tiên Niệm và các
quan chức cấp cao khác của TQ của Bộ Ngoại giao [TQ] rằng “trong nhiều năm,
nhất là trong Cách mạng Văn hóa, nhiều đồng chí TQ đã công khai đối xử thô lỗ
với chúng tôi. Họ gọi chúng tôi là ‘xét lại’ vì chúng tôi nhận viện trợ của
Liên Xô, và thậm chí còn gọi chúng tôi là ‘vô ơn’. Qua việc sử dụng loại ngôn
ngữ này, các đồng chí TQ đã nuôi dưỡng một thái độ không thân thiện đối với
chúng tôi. Thái độ như vậy có ở Hà Nội, Bắc Kinh, và nhiều nơi khác. Thái độ
như vậy làm chúng tôi rất đau lòng.”[24]
Vào lúc đỉnh cao của Cách mạng
Văn hóa, phe cực đoan theo Mao nắm quyền kiểm soát toà Đại sứ TQ tại Hà Nội. Họ
tập hợp cư dân người Hoa ở Bắc Việt Nam ủng hộ Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch
Đông, đề cao tư tưởng cách mạng văn hóa về “đấu tranh giai cấp,” chủ mưu tạo ra
các chiến dịch chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô, và thậm chí công khai tố cáo
các nhà lãnh đạo Việt Nam là “xét lại” vì nhận sự giúp đỡ của Liên Xô.[25] Cư
dân người Hoa gây ra rối loạn qua việc tổ chức các cuộc biểu tình chống chủ
nghĩa xét lại Liên Xô và công khai tiến hành các cuộc tuần hành ủng hộ chủ
nghĩa Mao tại Hà Nội. Đối với người Việt Nam , những cư dân người Hoa này là
những “người Hoa phản động.”[26] Như Han Xiaorong nhận xét, “Nếu người Hoa ở
Bắc Việt Nam đang trên đà
trở thành công dân Việt Nam
trước Cách mạng Văn hóa thì Cách mạng Văn hóa đã làm xu hướng này bị đảo ngược.”[27]
Điều đó chứng tỏ cho lãnh đạo Việt Nam thấy rằng những cư dân gốc Hoa
này vẫn trung thành với “quê hương TQ” tận xương tuỷ.
Đáp ứng với sự lan tỏa của Cách
mạng Văn hóa, Hà Nội thấy cần phải viện lại khẩu hiệu quen thuộc “mối đe dọa
xâm lược từ phương Bắc” để nhắc nhở công chúng Việt Nam về chủ nghĩa Sô vanh
TQ, ngay cả khi họ nhận khoảng 320 000 “người tình nguyện” TQ do Bắc Kinh
phái đến giúp Bắc Việt chống Mĩ từ năm 1966 đến năm 1969.[28] Đổi lại, điều này
làm các nhà lãnh đạo Bắc Kinh hết sức khó chịu bởi vì “việc VN sử dụng quá khứ
để ngụ ý hiện tại” là phản bội tinh thần, và sẽ làm suy yếu nền tảng cảm xúc
của tình đoàn kết “vừa anh em vừa đồng chí” Trung-Việt. Kể từ năm 1950, Bắc
Kinh đã rõ ràng và liên tục lên án việc xâm lược Việt Nam trong lịch
sử. Năm 1956 và một lần nữa vào năm 1970, Thủ tướng Chu Ân Lai thậm chí đã đến
viếng đền Hai Bà Trưng ở Hà Nội để tỏ lòng lòng tôn kính đối với hai bà xưa kia
đã đứng lên chống lại phong kiến TQ xâm lược Việt Nam.[29]
* * *
Tóm lại, một sự khảo sát kĩ lưỡng
mối quan hệ Trung-Việt trong thời kì hợp tác chặt chẽ 1950-1965, và vào thời kì
cao điểm của Cách mạng Văn hóa TQ 1966-1968, cho thấy sự đoàn kết giữa TQ và
Việt Nam là cách xa với mô tả màu hồng của cả hai bên về mối quan hệ “vừa anh
em vừa đồng chí”, nhưng nó vẫn phẳng lặng vượt qua mọi bất ổn vì việc duy trì
hình ảnh về hợp tác Trung-Việt sẽ phục vụ các lợi ích chiến lược của cả hai bên
và gìn giữ tình đoàn kết chống lại kẻ thù chung. Ẩn bên dưới bề mặt của quan hệ
“vừa anh em vừa đồng chí” là nỗi căm giận mà Hà Nội nén lại trước việc Bắc Kinh
sẵn sàng thay đổi đường lối chính trị của họ mà không quan tâm gì đến lợi ích
của Việt Nam và nỗi lo sợ ngày càng tăng về chủ nghĩa Sô vanh đang trỗi dậy của
TQ dưới hình thức “hệ thống triều cống” lạc hậu của TQ đối với Việt Nam. Mặc dù
lãnh đạo Việt Nam thừa nhận tầm quan trọng của sự giúp đỡ của TQ cho Bắc Việt
Nam, họ phẫn nộ sự kiện các nhà lãnh đạo TQ đã không né tránh việc áp đặt ý
muốn của họ lên Bắc Việt Nam vào những lúc Bắc Việt Nam yếu kém và phụ thuộc
nhiều vào sự giúp đỡ của TQ. Như một phản ứng chiến thuật, các nhà lãnh đạo Hà
Nội đã thực hiện các sáng kiến có tính chiến thuật biểu lộ việc chiều
theo ý TQ qua các phát biểu công nhận tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với
quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa khi mà họ ở trong vị thế khó thể nói ra
những lợi ích lãnh thổ của họ đối nghịch với Bắc Kinh.
Việc VN liên tiếp công nhận tuyên
bố chủ quyền của TQ trong các năm 1956, 1958, và 1965 đã được thực hiện với
động cơ kín đáo “tuân thủ ngoài mặt, phản bội trong lòng.” Trong suy nghĩ của
họ, tranh thủ cam kết lớn hơn viện trợ của TQ và dấn sâu hơn trong cuộc đối đầu
quân sự với Mĩ phải được dành cho ưu tiên cao nhất trong thập kỉ định mệnh
1956-1965. Khi nỗi lo bại trận của Việt Nam giảm xuống và Liên Xô háo hức thay
thế TQ như là nơi cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự chính vào năm 1974, Hà
Nội đã chủ động thách thức việc bành trướng lãnh thổ của TQ, đưa tranh chấp
lãnh thổ Trung-Việt trở lại công khai. Biên giới đất liền giữa TQ và Việt Nam đã trở
thành một vấn đề gây tranh cãi vì những thay đổi trong vị trí các mốc phân chia
biên giới đã được thực hiện từ năm 1955, và cả hai bên cáo buộc lẫn nhau về
việc thay đổi hiện trạng. Tranh chấp biên giới đất liền biến thành xung đột
biên giới từ năm 1974 trở đi.[30]
——–
* “CPMO” viết tắt của: Hồ sơ Văn
Phòng Phủ ThủTướng (“Collection of the Prime Minister’s Office”), lưu ở Trung
Tâm Lưu Trữ Quốc Gia 3 (“National Archive No. 3”), Hanoi .
[1] Xem Taylor Keith W. The Birth ofVietnam . Berkeley
and Los Angeles : University
of California Press, 1983;
Duiker William J. China and Vietnam : The Roots of Conflict. Berkeley : Center for
Chinese Studies, 1986; SarDesai D. R. Vietnam: The Struggle for
National Identity. 2nd ed. Boulder, Colo. :
Westview Press, 1992; Nguyen Khac Vien. Vietnam : A Long History. Hanoi : Thế Giớii
Publishers,1993; Kenny Henry. Shadow of the Dragon: Vietnam ’s Continuing Struggle with China and the
Implications for U.S. Foreign Policy. Dulles , Va. :
Brassey’s, Inc.,2002.
[1] Xem Taylor Keith W. The Birth of
[2] Xem Truong Buu Lam.
Patterns of Vietnamese Response to Foreign Intervention: 1858–1900, Monograph
Series no. 11,
Southeast Asia Studies. New
Haven : Yale
University
Press, 1967 and Inoguchi Takashi. “China ’s
Intervention in Vietnam
and its Aftermath, 1768–102.” Journal of Law and Diplomacy 73:5 (1975),
pp. 36–83.
[3] Duiker William J. China
and Vietnam :
The Roots of Conflict. Berkeley :
Center for Chinese Studies, 1986, p. 6.
[4] Xem Westad Odd Arne.
“History, Memory and the Languages of Alliance-Making.” In 77 Conversations
between
Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977, eds. Odd Arne Westad et al., pp. 8–19.
Washington : Woodrow Wilson
Center , Cold War
International History Project Working Paper no. 22, May
1998, pp. 11–16.
Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977, eds. Odd Arne Westad et al., pp. 8–19.
1998, pp. 11–16.
[5] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel
Hill: The University
of North Carolina
Press, 2000, p. 79
[6] Xem Nguyễn Ngọc Tuyên. Quan hê gữa cách mạng Trung Quốc và cách
mạng Viêt Nam
(“Relations between the
Chinese revolution and the Vietnamese revolution”). Nhà Xuâấ Bản Sự Thật,Hanoi , 1959.
Chinese revolution and the Vietnamese revolution”). Nhà Xuâấ Bản Sự Thật,
[7] Zhai (như [5]), p. 79
[8] Ibid., p. 219
[9] Xem Ang Cheng Guan. The
Vietnam War from the Other Side: The Vietnamese Communists’ Perspective. New York , N.Y. RoutledgeCurzon,2002
[10] Olsen Mari. “Forging a
New Relationship: The Soviet Union and Vietnam , 1955.” In Behind the
Bamboo Curtain: China ,
Vietnam , and the World
Beyond Asia , ed. Priscilla Roberts, pp.
97–126. Stanford , Calif. :
Stanford University Press, 2006
[11] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel
Hill: The University
of North Carolina Press,
2000, pp. 20–24
[12] Zhang Shu Guang. “Beijing ’s Aid to Hanoi
and the U.S.-China Confrontations.” In Behind the Bamboo Curtain:
China , Vietnam , and the World Beyond Asia ,
ed. Pricilla Roberts, pp, 264–66. Stanford , Calif. : Stanford
University
Press, 2006, pp. 264–66, 273–74
Press, 2006, pp. 264–66, 273–74
[13] Westad 1998 (như [4]), pp.
11–16
[14] Han Xiaorong. “Spoiled
Guests or Dedicated Patriots? The Chinese in Northern
Vietnam , 1954–1978.”
International Journal of Asian Studies 6:1 (2009), p. 10; xem thêm Chang Pao-min. “The Sino-Vietnamese Dispute over the Ethnic Chinese.”China Quarterly
90 (June 1982),.
International Journal of Asian Studies 6:1 (2009), p. 10; xem thêm Chang Pao-min. “The Sino-Vietnamese Dispute over the Ethnic Chinese.”
[15] Zhai (như [5]), 2000, p. 209
[16] Ibid. Muốn biết thêm chi
tiết, xem biên bản cuộc họp giữa Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Phó Thủ tướng Lí
Tiên Niệm tại Bắc Kinh ngày 10 tháng 6 năm 1977, CPMO, Hồ sơ 10460, p. 5. Có
mặt tại cuộc họp về phía Việt Nam là Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn
phòng Thủ tướng Chính phủ, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ
Nguyễn Trọng Vĩnh. Về phía Trung Quốc có Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa và Thứ
trưởng Hàn Niệm Long. Tác giả chép tay lại tài liệu này từ Trung tâm Lưu Trữ
Quốc Gia 3, Hà Nội, Việt Nam .
[17] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5;
xem thêm Hyer Eric. “The South China Sea Disputes: Implications of China ’s Earlier
Territorial Settlements.” Pacific Affairs 68:1,1995, p. 37; Lưu 1995, p. 143.
[18] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5.
[19] Chen 2001, pp. 215–216.
[20] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 5–6.
[21] Ibid. Lưu 1995, p. 143. Lặp lại lời giải thích mập
mờ của Phạm Văn Đồng cho Lí Tiên Niệm ngày 10/6/1977, Lưu Văn Lợi cho rằng
tuyên bố của VNDCCH ngày 9 tháng năm 1965 đã được thực hiện để đáp ứng tuyên bố
của Hoa Kỳ ngày 24 tháng 4 về một vùng chiến tranh kéo dài 100 hải lí tính từ
bờ biển của Việt Nam, vì thế cần đặt việc VNDCCH công nhận các tuyên bố của
Trung Quốc trong bối cảnh của cuộc chiến tranh mở rộng.
[22] Xem Westad 2006, pp. 1–7.
Xem thêm Chen Jian, Mao’s China
and the Cold War. Chapel Hill: University
of North Carolina Press ,
2001, p. 237, và Zhai (như [5])2000, pp. 152–54.
[23] Chen (như [22]), p. 237 và
Zhai 2000, pp. 219–20.
[24] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 20.
[25] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 17.
Xem thêm Quinn-Judge Sophie. “The Ideological Debate in the DRV and the
Significance of the Anti-Party Affair, 1967–68.” Cold War History 5:4 (2005,
pp. 483–84.
[26] Han (như [14]), pp. 12–13.
[27] Ibid., p. 13.
[25] See Path forthcoming; also
see Chen (như [220), p. 237, and Zhai (như [5]), p. 140.
[29] CPMO, Folder 10460, p. 20;
Zhai (như [5]), p. 79.
[30] See Chang (như [14]), pp.
25–35; Duiker (như [3]), pp. 72–73.
----------------
Trong quan hệ quốc tế mà ca ngợi sự "anh em" là bất bình đẳng rồi! Coi như một nước tự nhận mình là "em", hay nói trắng ra là "tay sai"!
Trả lờiXóahì...hì.....
Xóaanh em cùng cha khác bố
Thế là loạn luân à?! Thế thì chết à?!
Xóa(Hung Sình)
Còn nhớ thập niên 1960 trẻ em Hà Nội đã hát vang:
Trả lờiXóa"VN Trung Hoa
Đít liền đít
Mông liền mông
Chung một chòm lông!..."
Nói chung các bài hát đều bị xã hội xuyên tạc lời, mà không phải của thế lực thù địch làm ra. Lòng dân đã "diễn biến" từ hồi đó.
Chẳng hạn: "Mao Trạch Đông chết đuối trên sông Trường Giang!.... Toàn nhân dân cả nước đang vui mừng... À à a a..."
Trẻ em thời đó đã phản động quá
XóaThượng Đế:
Trả lờiXóa- Ta tạo ra loài người!
Ác quỷ:
- Vậy tôi tạo ra chính trị!
Quá khứ dù sao cũng là quá khứ, khó có thể thay đổi. Một quá khứ của hơn một thiên niên kỷ dân tộc ta bền bỉ, can trường, quyết liệt trong công cuộc bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, viết nên những trang sử bi tráng của một dân tộc nhỏ chống lại một đế chế phong kiến mạnh nhất, tàn bạo nhất để bảo tồn một quốc gia, dân tộc,nền văn hiến Việt nam.
Trả lờiXóaMột quá khứ hơn một trăm năm chống đế quốc phương tây, phương đông có sự đóng góp không nhỏ của Trung quốc dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản; cùng chung ý thức hệ đã tạo nên mối quan hệ được tô vẽ "vừa là đồng chí, vừa là anh em" nhưng về bản chất các nhà lãnh đạo hai nước lợi dụng lẫn nhau để thực hiện mục tiêu "cách mạng" .
Chính các mục tiêu cách mạng rất cực đoan, đã đẩy thái độ hợp tác cũng rất cực đoan khi thì được đẩy lên "vừa là đồng chí, vừa là anh em' rồi khi thì "kẻ thù truyền kiếp'. Các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt nam vì mục tiêu của mình luôn tìm cách lợi dụng những người Cộng sản Trung quốc, gần đây nhất để bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ đã có phương châm và quan hệ ứng xử "4 tốt, 16 chữ vàng.'
Nhưng những người cộng sản Trung quốc không phải những con lừa, họ lợi dụng triệt để sự non nớt, yếu đuối của những người Cộng sản Việt Nam để thực hiện mục tiêu lớn nhất là bành trướng, bá quyền trên mọi phương diện. Và họ gặt hái không ít thành công.
Chính vì sự lá mặt lá trái của Đảng cộng sản Việt nam mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc từng gọi họ là "xét lại", "vô ơn", phản động" và gần đây nhất là "đứa con hoang".
Nhưng tất cả đã là quá khứ, chúng ta không thể viết lại lịch sử quá khứ. Và một quá khứ đang hiển hiện đó lá chúng ta loay hoay tìm đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bằng mọi giá bảo vệ sự lãnh đạo của đảng, nhiều quyền lợi dân tộc, nhân bị hy sinh, người được hưởng lợi lớn nhất là những người cộng sản Trung quốc. Độc lập, chủ quyền đứng trước nguy cơ nghiêm trọng hơn bao giờ hết.
Trước nguy cơ đó, đáng lẽ phải cung cấp đầy đủ thông tin, bộc lộ thái độ, hy sinh quyền lợi của đảng để đoàn kết toàn dân... thì thái độ của Đảng làm cho dân hoàn toàn thất vọng. Đảng đã thất bại trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh lại tiếp tục xóa mình trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền.
Đã đến lúc, đảng không thể khư khư dựa vào "quá khứ vẻ vang", tin tưởng vào "sức mạnh vô địch" của chủ nghĩa Max -lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng phải thay đổi mục tiêu về với dân tộc và nhân dân, lấy dân tộc độc lập, đất nước phồn vinh, nhân dân tự do làm mục tiêu cách mạng để tồn tại và hoàn thành sứ mệnh đã nhận của mình.
"Đảng phải thay đổi"?
XóaTôi chán những ý kiến kiểu này lắm rồi! Khi một kẻ làm chúng ta đau khổ, tốt nhất là ke ấy nên cút đi, ho85c ít nhất chúng ta nên tránh mặt nó! Nó có "thay đổi" đến cỡ nào cũng vẫn chỉ là một tên nguy hiểm!
Định hướng suy nghĩ của mình một cách sáng suốt thực sự đi, các ông bà ơi!...
Câu:
Trả lờiXóa"Mối tình thắm thiết Việt Hoa,
Vừa là đồng chí, vừa là anh em"
là của Hồ Chủ tịch, trích trong Diễn văn đón Lưu Thiếu Kì khi ông ta sang thăm VN năm 1960.
Còn bên Trung Quốc người ta xây một bức tường, trên đó viết nhiều khẩu hiệu, trong số đó có câu:
"Trung Việt hữu hảo, vạn cổ trường thanh" (Tình cảm tốt đẹp Trung Việt muôn năm xanh tươi).
Nhưng nay câu đó bị bỏ rồi, không hiện diện trên bức tường đó nữa.
Tôi thấy ý kiến của blogger H.N.Chênh rất hay bằng cách
Trả lờiXóanói ngược lại luận điệu tuyên truyền dối trá và vu cáo :
nhà nước đã lợi dụng chủ nghĩa CS.để đánh phá đất nước
và dân tộc VN.! Đó là một thứ mạo danh đến ô danh !
Một chính phủ giành độc lập 1945 mà tồn tại một cách thiếu kiêu hãnh. Một quốc gia 2 ngàn năm không cần một chính phủ như vậy.
Trả lờiXóaCốt lõi của vấn đề đó là : các thế hệ lãnh đạo của cái đảng CSVN duy trì sự tồn tại và độc quyền cai trị cái đất nước này . Nếu không duy trì được sự độc tài ấy thì cái đảng CS này cũng chỉ là một tổ chức chính tri như mọi đảng phái khác ( nếu có ) . Đó là điều tối kỵ đối với những kẻ đang vận hành cái đảng CSVN này . Vậy thì phải làm sao ? Hãy bằng sức mạnh của một dân tộc đãchiuj nhiều khốn khổ , chiến tranh và áp bức : xoá bỏ quyền độc tài của cái ĐCS này ! Đó là điều duy nhất đúng .
Trả lờiXóa1 triều đại k đưa đất nước phồn vinh, hùng mạnh ,thất bại trong bảo vệ toàn ven lãnh thỏ biển hải đảo...Lich sử VN cho thấy dó là giai đoạn cuối của 1 triều đại tham nhũng ,thối nát suy vong ,mạt vận... triều đại đó phải được thay thế ,bởi đòi hỏi cấp bách sống còn của DT VN?
Trả lờiXóaNGLUY
Ngẫm cho kỹ thì chỉ là sự "Cướp" mà thôi. Thắng lợi cái con khỉ mốc!
Trả lờiXóaBọn đàn em đỉnh cao không hề ảo tưởng
Trả lờiXóalợi dụng nhau và sống cộng sinh vô nhau
Câu:
Trả lờiXóa"Mối tình thắm thiết Việt Hoa,
Vừa là đồng chí, vừa là anh em"
Bây giờ em thấy nó dở hơi quá !
"Đường ta đi HỒNG MÀU CỜ THẮNG LỢI" ! A á!....
Trả lờiXóaHãy dùng băng vệ sinh X cho "những ngày ấy"...