Ly Vu [mailto:ly.daingu@gmail.com]
Sent: Wednesday, August 07, 2013 5:15 AM
Subject: NHÂN PHẨM OR MONEY ?
Sent: Wednesday, August 07, 2013 5:15 AM
Subject: NHÂN PHẨM OR MONEY ?
MỌI ĐIỀU BẠN TƯỞNG BIẾT
VỀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ LÀ SAI LẦM
(Và
vì sao việc này trở nên quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay)
-----------------
Leon
Aron, Foreign Policy
Trần Ngọc Cư dịch
Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc
Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất.
Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức
chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy
ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do
nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô
và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô
viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của
họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở
thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng
thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù
người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại
trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh
mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.
Vậy,
do đâu mà có sự thiển cận đều khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương
Tây không tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại
(historical revisionism) — tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng
(anti-anti-communism) — một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và tính chính
danh của chế độ Xô viết. Tuy nhiên, một số nhân vật khác vốn không được coi là
mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của
chế độ này. Một trong những người thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh
Lạnh, ông George Kennan, viết rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự
vụ quốc tế trong thời hiện đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến
cố nào lạ lùng, đáng kinh ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn
sự tan biến đột ngột và toàn bộ…của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc
Nga rồi đến Liên Xô”. Richard Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và
cũng là một cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần
đây của Nga là “bất ngờ”. Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo
chung của Liên Xô trong một số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ
National Interest (Lợi ích Quốc gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ
nghĩa Cộng sản Xô viết”.
Nếu
có thể hiểu được dễ dàng hơn, thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có
thể đã được an toàn xếp vào một hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm
của khoa học xã hội rồi bị lãng quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng
cách 20 năm, giả thuyết cho rằng Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình
trạng lúc đó hay bất quá cuối cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá
lâu, có vẻ là một kết luận không kém phần hợp lý.
Thật
vậy, vào năm 1985 Liên Xô gần như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự
của 10 năm về trước. Chắc chắn là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu
khá xa, nói chi đến phương Tây. Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương
thực, những hàng người dài trước các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt
diễn ra đều khắp xã hội. Nhưng Liên Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn
hơn thế và đã có thể đối phó mà không hề mất một mảy may quyền kiểm soát của
nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế, lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.
Không
có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm
họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên
Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt
được 1,9% một năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm
khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố
kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng
hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia
tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết
năm 1989 — một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay
trở được (manageable).
Giá
dầu lửa rơi cực nhanh, từ 66 đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng
năm 1986 (trong số 2000 giá cả) chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính
Xô-viết. Tuy vậy, nếu điều chỉnh theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu
lửa trên thị trường thế giới vẫn cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập
niên 1970 một phần ba mà thôi. Nhưng đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô
viết gia tăng hơn 2% vào năm 1985, và sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương
của họ còn tiếp tục gia tăng trong 5 năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ
trung bình trên 7% mỗi năm.
Vâng,
tình trạng đình đốn kinh tế của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng
như giáo sư Đại học Wesleyan, ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những
chứng bệnh kinh niên của Liên Xô không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước
này”. Ngay cả nhà nghiên cứu hàng đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách
mạng này, ông Anders Aslund, cũng ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình
hình “là không mảy may sôi động”.
Từ
quan điểm của chính quyền, tình hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo
ngại hơn trước. Sau 20 năm liên tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả
những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp
Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong
các trại cải tạo và nhà giam.
Cũng
gần như không có bất cứ một dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng
tiền cách mạng (pre-revolutionary crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống
thường được coi là có thể dẫn đến sự suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ
bên ngoài. Trái lại, thập niên trước đó được các học giả đánh giá đúng đắn là
thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện được tất cả những tham vọng quân sự và ngoại giao
quan trọng”, như nhà sử học và ngoại giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết.
Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài,
nhưng đối với một quân lực gồm 5 triệu binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại
tại đó là không đáng kể. Thật vậy, mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc
duy trì một đế quốc về sau trở thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận
sau năm 1987, nhưng bản thân những chi phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm
cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985,
đó là một phần không đáng kể trong tổng sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.
Hoa
Kỳ cũng không phải là một lực tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan”
bao gồm nỗ lực chống lại và, nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô
trong Thế giới Thứ ba quả có tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những
nơi như Afghanistan, Angola, Nicaragua, và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn
của Liên Xô ở đó cũng chẳng có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế
độ.
Trong
một màn giáo đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn
kém cho đối phương, Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do
Reagan đưa ra thực sự có ý nghĩa nghiêm trọng – nhưng đề xuất này
không hề báo hiệu một sự thất bại quân sự cho Liên Xô, vì Điện Cẩm Linh biết
chắc rằng việc triển khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ không gian của Mỹ cũng
mất vài thập kỷ nữa mới thực hiện được. Tương tự như thế, mặc dù cuộc nổi dậy
chống cộng sản bất bạo động của công nhân Ba Lan là một tình hình rất bức xúc
cho giới lãnh đạo Xô viết, làm nổi bật sự mong manh của đế quốc của họ tại châu
Âu, nhưng vào năm 1985 Phong trào Đoàn kết (Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên
Xô hình như thích nghi được với việc tung ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12
năm một lần – Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980 — bất
chấp dư luận thế giới.
Nói
thế khác, đây là một Liên Xô đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn
cầu của mình, theo quan điểm của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại.
Sau này, sử gia Adam Ulam đã nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985,
không một chính phủ của một quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững
chắc và có đường lối chính sách rõ ràng như chính quyền Liên bang Sô viết”.
Hẵn
nhiên, có nhiều lý do thuộc về cơ chế — kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết
tại sao Liên Xô phải sụp đổ như nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không
thể giải thích đầy đủ biến cố này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa
là, làm sao trong một thời gian từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp
phải những tình trạng tồi tệ gay gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn
đề cơ chế khác, mà nhà nước và hệ thống kinh tế Xô viết bỗng dưng bị một quần
chúng đủ đông đảo coi là ô nhục, thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải
sụp đổ?
Gần
như hầu hết mọi cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được
khởi động bằng một tiến trình tự do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do
căn bản của nó vượt quá nhu cầu sửa sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường
quốc tế tốt đẹp hơn. Cái cốt lỏi trong sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng,
đó là điều không thể chối cãi: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn.
Vì
mặc dù chiêu bài đưa ra là cải thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và
những người ủng hộ ông trước hết muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai
lầm kinh tế. Hầu hết những điều họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của
chương trình tái cơ cấu (perestroika), bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách
biểu lộ nỗi khổ tâm của họ về sự suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo
lý của thời đại Xít-ta-lin. Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm
kiếm những câu trả lời cho các vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại
thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo
ra một trật tự kinh tế và xã hội công chính? Một nhà nước chính danh và đàng
hoàng là như thế nào? Quan hệ của một nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như
thế nào?
“Một
không khí đạo lý mới mẻ đang thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như
thế trước Ủy ban Trung ương Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông
tuyên bố rằng glasnost (chủ trương cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho
perestroika (chủ trương tái cơ cấu) xã hội Xô-viết của ông. “Việc
thẩm định lại các giá trị và xét lại chúng một cách sáng tạo đang được tiến
thành”. Sau này, khi nhắc lại cảm tưởng của ông rằng “chúng ta không thể tiếp
tục như thế thêm nữa, và chúng ta phải triệt để thay đổi lối sống, dứt khoát
với những sai trái trong quá khứ”, ông gọi đó là “lập trường đạo lý” của ông.
Trong
một bài phỏng vấn vào năm 1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr
Yakovlev, nhớ lại rằng, vào lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm đại sứ tại
Canada, ông cảm thấy đã đến lúc người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta
không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo
một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá
khứ và tương lai của chúng ta…Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta
không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây — một cách nhục nhã,
ngoài mức chịu đựng”.
Theo
ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý
[nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
[Chúng
ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong
các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong
láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra —
từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.
Một
thành viên khác trong nhóm thân cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm
những nhân vật chủ trương tự do, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng
khổ tâm không kém vì tình trạng thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ
lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải
thay đổi thôi”.
Trở
lại thập niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã
lần đầu thấy rõ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên
trên sự khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết
cảm thấy tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông
tỏ ra tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ
dàng về mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ
trương dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của
perestroika”. Nhiều năm về sau, ông đã trả lời phỏng vấn như sau:
Mô
hình Xô-viết không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị
đánh bại ngay trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những
người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên
bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt
tinh thần lẫn chính trị.
Sự
thể những cải tổ đã đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ
một nguyên nhân “lý tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì
thế, ông cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi
tầm mức của các biến chuyển bắt đầu vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai
các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một
hành động phản lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại
Gorbachev đã nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải
đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu
tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm
như vậy”.
Vai
trò của tư duy và lý tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ
nét hơn khi chúng ta nhìn vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một ký
giả Xô-viết hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ
trương glasnost, ông Aleksandr Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng
của perestroika đã “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn
tham nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở
chặn đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay
có thực chất đang bàng bạc trong không gian”, một chứng nhân khác
nhớ lại, và những người mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét
(appreciable constituency) đang đòi hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những
kỳ vọng đã đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và
ngày càng gia tăng đến độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của
ông. Đột nhiên, chính các tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể
trong cuộc cách mạng đang diễn ra.
Theo
cách nói của Yakovlev, cái uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn
bộ hệ thống chính trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang
rã rệu nhanh chóng. Nhận thức mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với
chế độ và tạo ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính
chính đáng của các sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn.
Trong một trường hợp điển hình của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học]
Robert K. Merton xây dựng thành lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế
là có thực, thì tình thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự
suy đồi thực sự của nền kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau
khi và bởi vì có một chuyển biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh
giá thành tích của chế độ.
Viết
cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến
chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”.
Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách
mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc
thăm dò dư luận quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận
tiêu biểu đầu tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có
tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết
– sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc
lập vẫn còn bất hợp pháp. Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò
trong một vùng nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng
phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”.
Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một
cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm
một năm sau thì số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.
Những
người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là
những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện
đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville
nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như
vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra
những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn
bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.
Tại
Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám
đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng
ngày thường bán sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày
càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của
những nhà bình luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ
của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth):
kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và
Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor
Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor
Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.
Đối
với họ, việc phục sinh đạo lý là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những
chỉ rà soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật
ngược các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên
bình diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như
Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề
“Vậy thì việc gì đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy
nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ
yếu để họ thoát khỏi chính mình, thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết
chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào?
Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định
mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của
Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho
tình hình không thể đảo ngược này? Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người
tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của
chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ
trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có
khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và láo khoét, bất
luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở
lại của một nhà nước độc tài”.
Lối
lý luận vòng vo này — để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng
người ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người
“từ bên trong” — gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư
duy về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương
perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan
kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan
trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô
lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu
thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được
đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi
những láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng,
chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào
của một đất nước tự hào!”
Nhìn
kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi
tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng
hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù
người dân “có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều
hơn”.
Thông
thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những
Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins
của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng
này đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực
tìm kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật
đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại.
Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm
hãnh diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu
tượng của cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập
cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông
nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia],
trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của
Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp
và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
Mohamed
Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi
cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không
phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa
phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để
tố cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như
thế. Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông
hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!”. Tại Ai Cập, các đám
đông đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến
lúc không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp
tục tướt đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York
Times, ông Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu
có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm
1991.
“Nhâm
phẩm có ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế
Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ
liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao,Libya cũng đang phát triển
kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp này nhắc nhở
chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay
thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta không nhớ
kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách mạng màu”
trong thế giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì chầy trước
một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc
trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý thức mãnh
liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự
do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng
nào mà các chế độ độc tài "ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước
Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu
khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính
trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi
đã bưa lắm rồi’ (enough is enough)”.
Hẳn
nhiên, động lực đạo lý tuyệt vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều
kiện cần nhưng không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ
sức lật đổ chế độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục
được nền văn hóa chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định
chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông
cạn, không thể giữ vững một nền dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền
thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có
thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập –
đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lý ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ
vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo
dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của não trạng đế quốc trong hằng triệu người
Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân độc tài của Putin
(neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao
vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế
nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây
ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã
làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người rao giảng glasnost
từng mạnh mẽ cảnh báo.
Đó
là lý do nước Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm
perestroika khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và
giá dầu lửa tăng cao hiện nay đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng
có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của
tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh
thường dư luận đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt
đầu lên tới (nếu không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên
1980.
Người
ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay,
tốt hơn nữa, liếc qua các trang nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy
Zhurnal), diễn đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của
những nhóm trí thức đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm
ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm
nữa!” đang trở thành tín điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự
do đang tái khẳng định chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp
trong các giới trí thức và những nhà hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện
Phát triển Đương đại (the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên
cứu chính sách tự do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đã xuất bản
một tài liệu có vẻ như là một chương trình vận động tranh cử tổng thống Nga năm
2012:
Trong
quá khứ nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do
để sống còn…Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống
giá trị, hun đúc một ý thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện
đại với tư duy cũ…Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người]
là Tự do và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con
người.
Chính
cuộc tìm kiếm có tính cách trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự
hào và tự trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với
quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà
nước Sô-viết đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một
chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991. Câu
chuyện về hành trình đạo lý và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm
vị trí trung tâm về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.
Nguồn: Foreign Policy, July/August 2011,
Trần
Ngọc Cư dịch
(Từ nghiencuulichsu.com)
-----------------
Sent: Tuesday, August 06, 2013 10:10 PM
To: undisclosed-recipients:
Subject: Fwd: Chuyển tiếp: Fwd: Tin khẩn mọi người c ần phải đọc ..về bánh trung thu.
To: undisclosed-recipients:
Subject: Fwd: Chuyển tiếp: Fwd: Tin khẩn mọi người c ần phải đọc ..về bánh trung thu.
Cám ơn bác DCD.
Nat.
---------- Thư đã chuyển tiếp
----------
Từ: Dam Cao
Ngày: 09:11 Ngày 06 tháng 8 năm 2013
Chủ đề: Chuyển tiếp: Fwd: Tin khẩn mọi người c ần phải đọc ..về bánh trung thu.
Từ: Dam Cao
Ngày: 09:11 Ngày 06 tháng 8 năm 2013
Chủ đề: Chuyển tiếp: Fwd: Tin khẩn mọi người c ần phải đọc ..về bánh trung thu.
---------------
Tin khẩn mọi người cần phải
đọc qua và giúp mình loan tin cho người khác cùng biết!
Tình hình là hôm qua nhà mình nhận được cú điện thoại của ông chú đang đi công tác ở bên Trung Quốc gọi về báo 1 tin rất ư kinh thiên động địa. Mình quyết định hôm nay chia sẻ với mọi người để đất nước ViệtNam ta không bị bọn Trung Quốc đầu
độc, giết hại. Chú mình điện về tối hôm qua báo, bên Trung Quốc đang có sự bất
thường là bánh Trung Thu bên Trung Quốc đợt này làm ra người dân không ăn mà
tất cả được đưa về Việt Nam. Chú mình có hỏi người dân xung quanh thì nói bánh
này không ăn được, đợt sau mới sử dụng.
Chú bảo cả nhà đừng ăn bánh Trung Thu đợt này, vì không biết trong bánh có chất gì mà dân Trung Quốc không chịu ăn. Chú còn nói sẽ tìm cách xem trong bánh có gì mà dân Trung Quốc lại không dám ăn.
Nghe chú nói mình rụng rời tay chân, tụi Trung Quốc này sao ác thế không biết. Vừa nảy đọc báo thì thấy Trung Quốc mới phát hiện vụ bánh Trung Thu mốc từ 2010 được làm lại để bán đợt 2013, thật là khiếp sợ bọn này. Không biết vụ chú mình gọi về có phải vụ này không nữa.
Mọi người khi mua bánh Trung Thu nên xem kỹ xuất xứ, tình trạng bánh, tuyệt đối không nhìn vào hạn sử dụng vì nó in giả, bánh phải mới và không bị bể hay sứt mẻ chỗ nào nhé...
Mong mọi người chia sẻ tin này cho nhiều người biết và đề phòng, còn việc bánh Trung Thu có chất gì thì mình đang đợi chú gọi về và sẽ thông tin cho mọi người biết.
Tình hình là hôm qua nhà mình nhận được cú điện thoại của ông chú đang đi công tác ở bên Trung Quốc gọi về báo 1 tin rất ư kinh thiên động địa. Mình quyết định hôm nay chia sẻ với mọi người để đất nước Việt
Chú bảo cả nhà đừng ăn bánh Trung Thu đợt này, vì không biết trong bánh có chất gì mà dân Trung Quốc không chịu ăn. Chú còn nói sẽ tìm cách xem trong bánh có gì mà dân Trung Quốc lại không dám ăn.
Nghe chú nói mình rụng rời tay chân, tụi Trung Quốc này sao ác thế không biết. Vừa nảy đọc báo thì thấy Trung Quốc mới phát hiện vụ bánh Trung Thu mốc từ 2010 được làm lại để bán đợt 2013, thật là khiếp sợ bọn này. Không biết vụ chú mình gọi về có phải vụ này không nữa.
Mọi người khi mua bánh Trung Thu nên xem kỹ xuất xứ, tình trạng bánh, tuyệt đối không nhìn vào hạn sử dụng vì nó in giả, bánh phải mới và không bị bể hay sứt mẻ chỗ nào nhé...
Mong mọi người chia sẻ tin này cho nhiều người biết và đề phòng, còn việc bánh Trung Thu có chất gì thì mình đang đợi chú gọi về và sẽ thông tin cho mọi người biết.
-----------------
Đọc bài viết này có thể nhận ra một điều nhỏ như sau. Liên Xô tồn tại qua rất nhiều đại họa vì sức ép phải vượt lên đến từ bên ngoài. Nhưng khi họ cho rằng họ đủ mạnh và chịu được sức ép từ bên ngoài họ sẽ tự sụp đổ bởi các những sai lầm nội tại vốn đủ lớn. Như là một khối ung thư đã to như cái bát.
Trả lờiXóaNhìn lại và liên tưởng tới TQ và VN, họ đang tạo ra một bức tranh mong muốn nhằm tránh kết cục giống Liên Xô và hàng loạt những nước Đông Âu cũ. Họ nghĩ họ có thể sửa chữa. Vì vậy việc nắm quân đội và buộc quân đội phải bị chi phối bởi quyền lợi là điều đảng CSVN cũng như TQ mong muốn. Và đó cũng là điều kiện sống chết tồn vong, của đảng chứ không phải của quốc gia hay dân tộc. Lợi ích của quốc gia đã không còn là lợi ích của chế độ từ hơn chục năm nay rồi.
Chế độ chỉ là một ngô từ lừa đảo , mỵ dân. Hệ thống chính trị hiện tại đang duy trì có lợi cho ai?bộ máy cồng kềnh, thiếu hiệu quả , tốn kém này lấy tiền đâu để tồn tại.Ai sẽ là người chịu thiệt thòi? Tất cả đều biết.
Trả lờiXóaTuy nhiên mâu thuẫn nội tại ngày một phát triển và nó sẽ sụp đổ . Thời kỳ quá độ nhân dân sẽ khổ,tài nguyên sẽ cạn kiệt , môi trường sẽ bị huỷ hoại ,đạo đức sẽ xuống cấp,văn hoá, giáo dục,KHKT sẽ yếu kém...Chúng ta bên cạnh Trung Quốc ,với họ kinh nghiệm ngàn đời gần mà xa, xa mà gần , để giữ hệ thống chính trị họ đã ký các hợp tác tự bó tay dân tộc. Ngày mai không ai cho vay tiền,tài nguyên , đất đai bàn hết, sản xuất đình trệ ,có thay đổi hệ thống chính trị này e rằng tồn tại xã hội phải giải quyết cũng rất nặng nề.
"Theo ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov,tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
Trả lờiXóa[Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên."
TÌNH HÌNH CỦA VIỆT NAM BÂY GIỜ ĐÚNG Y CHANG NHƯ LIÊN XÔ NĂM 1985 - 1991. CHỈ CẦN CÓ MỘT GORBACHEV VÀ SAU ĐÓ MỘT ENXIN LÀ SẼ THAY ĐỔI NGAY THÔI.
CÓ LẼ SẼ VÀO NĂM 2015.