* TÔ VĂN TRƯỜNG
BVB - Đã
hơn 38 năm đất nước thống nhất, non sông liền một dải “cả nước cùng đi lên xã
hội chủ nghĩa” như tuyên bố đầy tự hào của những vị lãnh đạo đất nước. Vậy mà
đến nay, Việt Nam vẫn nằm
trong danh sách những nước chậm phát triển và ở nông thôn người nông dân Việt Nam vẫn đang
phải vật lộn vất vả trong cuộc chiến chống đói nghèo.
Những vất vả thiệt thòi,
cay cực của hàng triệu con người trên chính mảnh đất của mình làm chúng ta
không chỉ xót xa, than thở mà cần phải chung tay có những hành động cụ thể,
quyết liệt và hiệu quả hơn nữa. Ở đây, then chốt là phải đi sâu vào cốt lõi của
nông nghiệp, làm rõ các nguyên nhân trì trệ để thay đổi thể chế quản lý trong
nông nghiệp.
“Tỷ
giá cánh kéo”
Quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa cũng còn là quá trình công
nghiệp bóc lột nông nghiệp, thành thị
bóc lột nông thôn. Đấy còn là quá trình thực hiện sự bóc lột nông dân để lấy
vốn tích lũy cho quá trình công nghiệp hóa, còn được diễn ra dưới tên gọi là “tỷ
giá cánh kéo”.
Đây
là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa giá của hàng hóa công nghiệp với giá nông
sản. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ nông dân càng ở thế bất lợi.
Trong
một buổi họp Quốc hội đã lâu, tôi nhớ có đại biểu chất vấn Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ về “tỷ giá cánh kéo”. Tường thuật
trực tiếp trên truyền hình, thì Bộ trưởng trả lời đó là tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa nhưng khi báo đăng tường thuật thì cắt bỏ đoạn đó.
Về
nguyên tắc, quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa XHCN phải có nhiệm vụ khắc phục mâu thuẫn về kinh tế giữa công
nghiệp với nông nghiệp. Thực ra, các nước phát triển trước khi công nghiệp hóa
cũng phải dựa vào nông nghiệp, nhưng sau đó họ nhanh chóng lấy từ công nghiệp
để đầu tư trả lại cho nông nghiệp. Nghĩa
là thành quả của nông nghiệp sẽ chỉ bị “tạm ứng” một thời gian đủ ngắn để nông
dân có thể chịu đựng và chấp nhận được, không có tình trạng kéo dài “lê thê”
như ở Việt Nam .
Chủ
trương và hiện thực
Tại
Hội nghị tổng kết nông nghiệp ở Thái Bình vào năm 1974 có đề ra nhiệm vụ tổ
chức lại sản xuất và cải tiến quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn. Lúc
đó, các hợp tác xã đang ở trình độ hợp tác giản đơn của các tổ sản xuất.
Theo
Gs Nguyễn Lang đánh giá trong lĩnh vực trồng trọt thì vấn đề này được bước đầu
thực hiện qua khoán 10 với việc phân chia các khâu do hợp tác xã và hộ gia đình
đảm nhiệm, gắn với chuyển phương thức phân phối từ theo công điểm sang phương
thức khoán sản phẩm. Quá trình này đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển,
nhưng sau đó, có khoán 10, dẫn đến hình thành mô hình phát triển hộ gia đình
hoạt động theo phương thức tự sản, tự tiêu. Đồng thời chúng ta cũng coi việc
phát triển trang trại là con đường phát triển nông nghiệp tất yếu, nhưng trang
trại chỉ là mô hình hộ gia đình mà chiếm hữu một diện tích canh tác quy mô lớn
hơn. Tức là thực chất, vẫn chỉ phát triển hộ gia đình về quy mô chứ không phải
về chất lượng để tiến lên sản xuất lớn.
Quan
điểm của tôi khác với Gs Nguyễn Lang, vì
kinh tế hộ chính là bước đi đáng ghi nhận, đã tạo bước đột phá và làm nên kỳ
tích ngoạn mục của nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới. Trong suốt thời kỳ từ 1988 đến gần đây, kinh
tế hộ gia đình vẫn là yếu tố chủ chốt đem lại thành tích đáng ngưỡng mộ của
nông nghiệp VN. Không có kinh tế hộ thì
lấy đâu ra nông sản dư thừa mà xuất khẩu.
Thành
lập hợp tác xã theo kiểu “cha chung
không ai khóc” (không tự nguyện, thiếu dân chủ)
là thất bại tất yếu, nhưng phát triển trang trại lại là con đường rất
hiệu quả, nếu các trang trại này được tổ chức lại. Không phải là vào hợp tác xã
để làm chung mà chỉ là để có tiếng nói thực sự trong các quan hệ hợp đồng với
doanh nghiệp, còn việc sản xuất của họ vẫn ở cấp nông hộ hoặc trang trại (tức
là nông hộ lớn). Vì kinh tế nông hộ hay trang trại vẫn là hiệu quả nhất trong
nông nghiệp hiện nay.
Nông
dân Việt Nam
Người
ta đã tổng kết về người nông dân Việt Nam có mười cái nhất:
"Cống
hiến nhiều nhất.
Hy sinh lớn nhất.
Hưởng thụ ít nhất.
Được giúp kém nhất.
Bị đè nén thảm nhất.
Bị tước đoạt nặng nhất.
Cam chịu lâu dài nhất.
Tha thứ cao cả nhất.
Thích nghi tài giỏi nhất.
Năng động khôn ngoan nhất".
Hy sinh lớn nhất.
Hưởng thụ ít nhất.
Được giúp kém nhất.
Bị đè nén thảm nhất.
Bị tước đoạt nặng nhất.
Tha thứ cao cả nhất.
Thích nghi tài giỏi nhất.
Năng động khôn ngoan nhất".
Ta
có chủ trương đảm bảo cho nông dân trồng
lúa có 30% lợi nhuận. Tỷ lệ có vẻ to nhưng hiện nay, nông nghiệp vẫn là nền sản
xuất nhỏ với quy mô hộ gia đình. Trong điều kiện đó, dù có tỷ suất lợi nhuận là
30% nhưng con số tuyệt đối mà hộ gia đình nhận được vẫn nhỏ, không đủ dự phòng
khi có thiên tai, khi bị bệnh, cần tiền cho con đi học nên khả năng tái sản xuất mở rộng bị hạn chế. Đó
là chưa kể đến tình trạng nông dân bị ép giá ở cả đầu vào và đầu ra không còn
lợi nhuận 30% như chủ trương của Nhà
nước.
Theo
điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp thực hiện từ
2006-2012 tại 12 tỉnh, thành cho thấy chi tiêu của các hộ nông thôn tăng mạnh
trong khi tỷ lệ hộ nghèo không giảm, thậm chí số hộ tái nghèo lại tăng. Thu
nhập từ nông nghiệp đang sa sút do người nông dân phải chịu đựng những cú sốc
từ khách quan có thiên tai, dịch bênh, biến động thị trường, chưa kể chủ quan
do sức khỏe, mất việc, mất đất khiến nông dân điêu đứng xoay trần ứng phó.
Tình
trạng suy thoái kinh tế khiến giá nông sản giảm mạnh đã gây ra những cú sốc
khiến nhiều hộ nông càng điêu đứng hơn. Có đến 45% số hộ nông dân cho biết họ
đang phải nợ nần. Trong khi đó, hỗ trợ của chính quyền cho các hộ khi gặp
các “cú sốc” trong đời sống rất hạn chế. Lẽ ra, khoản tiền bảo hiểm phải là
cách ứng phó tốt nhất cho “vận đen” không may của họ, thế nhưng hầu hết nông
dân lại chưa mua bảo hiểm, đặc biệt loại hình bảo hiểm nông nghiệp.
Trong
điều kiện của VN tại sao hầu hết không ai tham gia bảo hiểm nông nghiệp tự
nguyện? Trên thế giới người ta tham gia bảo hiểm với mong muốn sẽ bảo toàn được
tài sản của mình nếu rủi ro xảy ra, về phía công ty bảo hiểm họ cũng là doanh
nghiệp kinh doanh nên họ sẽ phải đặt ra yêu cầu và hướng dẫn để người mua bảo
hiểm giảm thiểu nguy cơ dẫn đến rủi ro, nhưng ở VN không phải như thế. Vì thu
nhập của họ từ nông nghiệp có đáng là bao, trong khi các điều khoản bảo hiểm
chưa hấp dẫn và thủ tục chi trả bảo hiểm quá phức tạp đối với nông dân.
Cánh
đồng mẫu lớn với… nông dân nhỏ?
Chúng
ta đừng quên hiện tượng trong ngành thủy sản nông dân cũng có qui mô sản xuất
rất lớn. Nhiều người có hàng chục ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Thế nhưng
vẫn chết toi hàng loạt cá để rồi phải bán lại ao với giá rẻ cho các doanh
nghiệp và các ông chủ lớn.
Vậy
thì có phải tích tụ ruộng đất là con đường duy nhất đúng như người ta đang hô
hào hay ngược lại, đó là nông dân nhỏ nhưng cánh đồng mẫu lớn?
Nếu
“nông dân nhỏ với cánh đồng mẫu lớn” được tổ chức tốt, ta sẽ giải được bài toán
việc làm cho hàng triệu nông dân. Và ngược lại nếu “nông dân lớn” hay chính xác
là doanh nghiệp nông nghiệp qui mô lớn sẽ có hàng triệu nông dân phải ra đứng
đường vì họ đâu có dễ tìm được việc làm phi nông nghiệp?
Tuy
nhiên, cần nhắc lại là “nông dân nhỏ và cánh đồng mẫu lớn” phải được tổ chức
hợp lý, nghĩa là sao cho nông dân phải có tiếng nói trong mối quan hệ với doanh
nghiệp trong khi ký hợp đồng. Giá trị gia tăng của ngành phải được chia sẻ hợp
lý với nông dân. Ví dụ điển hình nên học tập là trường hợp công ty cổ phần chè
Than Uyên (Lai Châu). Mặc dù trong mấy năm qua ngành chè rất khó khăn, hiện
tượng tranh bán tranh mua diễn ra ở khắp nơi, nhưng ở Than Uyên không có đầu
nậu nào có thể tranh mua với công ty, vì giá thu mua của công ty luôn luôn bằng
hoặc cao hơn giá thị trường.
Ngược
lại, người nông dân, mặc dù hầu hết là người dân tộc thiểu số nhưng luôn tin
tưởng và sản xuất theo đúng yêu cầu của công ty và chỉ bán nguyên liệu cho công
ty. Vấn đề mấu chốt của mối quan hệ hợp đồng là ở sự tin tưởng của người dân
vào doanh nghiệp, và sự chia sẻ lợi ích của doanh nghiệp với người nông dân. Công
ty chè Than Uyên luôn đặt lợi ích của đối tác lên hàng đầu, cung ứng cho nông
dân đầu vào đảm bảo chất lượng với giá rẻ hơn nếu tự mua bên ngoài, hướng dẫn
kỹ thuật cho dân và thu mua với giá ngang bằng hoặc cao hơn thị trường.
Hiện
tại các doanh nghiệp của VN rất ít nơi làm được như vậy vì thiếu một sự chia sẻ
lợi ích hợp lý. Các doanh nghiệp chỉ tìm cách bán đầu vào cho nông dân với giá
trên trời và tìm cách thu mua đầu ra của nông dân với giá bèo bọt, cốt để họ
phải thua lỗ và bán lại đất cho mình. Họ dùng nhiều cách, trong đó có cả cách
sử dụng cán bộ địa phương ngăn chặn không cho thương lái vào mua tranh nguyên
liệu.
Mâu
thuẫn trong quan điểm tích tụ ruộng đất
Để
đảm bảo quá trình phát triển nông nghiệp bền vững, cần chú ý đến cả khía cạnh
kinh tế xã hội và không nhất thiết phải thực hiện tập trung ruộng đất vào tay
một số ít người, như con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, mà phải tổ chức
liên kết các hộ gia đình trong các vùng chuyên canh.
Do
đó, chấp nhận duy trì tổ chức hợp tác giản đơn tự nguyện giữa các hộ nông dân
nhưng với điều kiện là phải từ bỏ tập quán canh tác tiểu nông, để chuyển sang
tập quán canh tác có tổ chức, kỷ luật, khoa học của người sản xuất lớn.
Hiện
tại, một số người đang hô hào tích tụ ruộng đất, thực chất là nhằm hợp pháp hóa
phần diện tích mà các cá nhân và tổ chức bấy lâu nay đã âm thầm mua lại của
nông dân bằng nhiều cách. Trong đó có cả cách cạnh tranh không lành mạnh, nghĩa là tìm cách làm cho nông dân
thua lỗ liên tục 2- 3 vụ sau đó mua lại với giá rẻ. Bên cạnh việc hô hào cho
tích tụ ruộng đất còn có ý kiến ủng hộ việc lôi kéo các doanh nghiệp FDI vào để
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo qui mô lớn. Những người ủng hộ trường phái
này cho rằng hiện nay khó khăn nhất của nông nghiệp Việt Nam là không có
thị trường tiêu thụ nông sản, nên cần phải tổ chức sản xuất theo hợp đồng gắn
sản xuất với tiêu thụ sản phẩm để nâng cao chất lượng và giảm bớt khâu trung
gian.
Theo
họ chỉ cần vài ông lớn FDI là có sản lượng lớn với chất lượng cao, nông nghiệp
hiện đại và giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên giá trị gia tăng cao đó vào túi ai
mới là điều quan trọng? Có ý kiến cho rằng đây là cách làm chẳng có lợi lộc gì
cho dân, cho nước cả. Làm theo cách đó thì hàng triệu nông dân sẽ đi đâu, làm
gì? Đây là bài toán hệ thống tái cấu
trúc nền kinh tế của cả nước phải đi trước tái cấu trúc ngành nông nghiệp.
Khi
sản xuất nông nghiệp nằm trong tay một vài ông lớn FDI lúc đó họ sẽ áp dụng
công nghệ hiện đại, cơ giới hóa và thế là nông dân sẽ ra đứng đường. Người tiêu
dùng thì phải ăn đắt vì chỉ còn một vài nhà cung ứng thôi, vấn đề xã hội sẽ rất
lớn trong khi nhà nước thì thất thu.
Điều
này đã thấy nhãn tiền ở ngành chăn nuôi rồi. Hiện nay ngành chăn nuôi chủ yếu
nằm trong tay vài doanh nghiệp FDI. Doanh thu và lợi nhuận ròng của các vị này
rất lớn. Năm 2010 chỉ riêng công ty CP ở VN đã thu về 01 tỷ USD lợi nhuận ròng,
nhưng nghĩa vụ nộp thuế của họ lại rất ít (nếu có) vì họ luôn báo lỗ. Họ cũng không hề phải trả một đồng phí môi
trường nào cả mặc dù họ gây ô nhiễm môi trường rất nhiều. Điều này là vì ngoài
phần tự đầu tư thì một phần lớn sản lượng của họ đến từ các hợp đồng gia công
với nông dân/ trang trại.
Khi
đầu tư, để được ưu đãi thì họ nhận cả phần đầu tư của các trang trại là của họ,
nhưng khi địa phương yêu cầu đóng phí môi trường thì họ từ chối với lý do đó là
đầu tư của nông dân, mà của nông dân thì ai thu được phí môi trường bao giờ.
Vấn
đề chỉ là “tỷ giá cánh kéo” quá bất lợi cho nông dân (do lợi ích nhóm) khiến
nông dân khó cạnh tranh, đồng thời diện tích đất của nông dân quá ít nên ngay
cả khi họ có lãi tới 100% thì họ cũng chẳng thể sống nhờ vào nông nghiệp được.
Đó mới là vấn đề!
Vai
trò của Nhà nước
Để
đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa lớn cần phải đảm bảo sự ổn định tối thiểu
về sản lượng, chất lượng và tiến độ giao hàng phù hợp với yêu cầu của người
tiêu dùng. Có đạt được sự ổn định đó thì mới xây dựng và bảo vệ thương hiệu của
hàng hóa nông sản Việt Nam ,
giữa phát triển thị phần trên thị trường trong và ngoài nước.
Để
đảm bảo sự ổn định của hàng hóa nông sản về các mặt nói trên, nông dân Việt Nam
phải đi vào con đường sản xuất có tổ chức, có kỹ thuật, có sự phân công hợp tác
vì quyền lợi chung để thực hiện quản lý sản xuất theo các quy chuẩn bắt buộc.
Như vậy, phải có sự tự chuyển hóa, khắc phục tâm lý và tập quán của người tiểu
nông đang in đậm dấu ấn lên cách sản xuất theo phương thức tự sản, tự tiêu.
Người
nông dân phải được đảm bảo các yếu tố đầu vào một cách phù hợp, phải được các
nhà khoa học hướng dẫn và chuyển giao công nghệ sản xuất hiện đại theo quy
chuẩn bắt buộc, có sự phối hợp giữa nông dân với các cơ sở chế biến và tiêu thụ
nông sản. Đặc biệt phải nhấn mạnh đến vai trò của thương nhân vì họ là người tổ
chức cung ứng các yếu tố đầu vào và tổ chức tiêu thụ nông sản ở đầu ra.
Để
thực hiện được yêu cầu đảm bảo sự thống nhất đó, vai trò quản lý của Nhà nước
giữ vị trí rất quan trọng. Tuy nhiên, lâu nay, Nhà nước không thực hiện tốt vai
trò của mình, nghĩa là việc của mình thì không
làm (đặt ra luật chơi và kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật) nhưng
lại quá sa đà vào việc không phải của
mình như sản xuất, kinh doanh.
Theo
tôi hiểu, Nhà nước chỉ cần đặt ra tiêu chuẩn chất lượng và buộc tất cả các nhà
sản xuất kể cả nông dân lẫn doanh nghiệp phải tuân theo sao cho sản phẩm làm ra
phải đạt mức độ an toàn tối thiểu. Và giám sát, kiểm soát việc họ thực hiện.
Đó
mới đúng là chức năng quản lý Nhà nước
Thay
cho lời kết
Trong quản lý hoạt động nông nghiệp cũng như trong một
dàn nhạc, Nhà nước phải là nhạc trưởng với chiếc đũa trong tay để chỉ huy đồng
bộ, dứt khoát, uyển chuyển các nhạc công, chứ không phải làm thay, hoặc giành
lấy phần sản xuất kinh doanh của họ. Khi mà đời sống kinh tế xã hội của đất
nước còn bị điều hành bởi các quan chức thiếu tầm và còn bị chi phối bởi những
nhóm lợi ích thì người nông dân Việt Nam vẫn phải lặn ngụp trong vũng lầy đói
nghèo, và như thế một nước Việt Nam “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào
năm 2020” vẫn chỉ là câu chuyện hoang đường! TVT
----------------
Là Một người con của ĐBSCL trong những năm qua Tôi chứng kiến và thấy được những khó khăn vất vả của người nông dân như thế nào. Cuộc sống có khá hơn trước năm 1975 nhưng so với những vùng khác ở VN thì còn quá chậm so với những gì mà Bà Con nông dân chúng tôi bỏ công sức ra. Các Bạn hãy thử thống kê xem một năm ngành Nông, Thủy, hải sản xuất siêu bao nhiêu % ? Như tôi nhớ không lầm năm 2012 là trên 10 tỷ USD, Còn nông dân chúng tôi được gì ? Con gái miền Tây làm công việc nhạy cảm (Bia Ôm, massage, bán dâm) nhiều nhất nước, bán mình lấy chồng nước ngoài nhất nước, học hành kém nhất nước, được mùa và mất giá đứng đầu thế giới,...Cứ như thế này thì Nông dân chúng tôi SX để làm chi nữa ? để được tiếng là XK gạo số một thế giới mà chúng tôi được gì ? Đã đến lúc cần phải suy nghĩ lại....
Trả lờiXóaSao bác Tra Bay, không tự hào, những người con của ĐBSCL ?.
XóaMột người con, cựu y tá, làm thủ tướng. Rồi người con nữa, làm thường trực BCC, một người con,tiến sỹ kiến trúc xây dựng, ở tận cựu đế quốc USA về, chưa thiết kế xây dựng gì, làm thứ trưởng bộ xây dựng, một người con,vừa tốt nghiệp kỹ sư ngành kỹ thuật hàng không ở cựu đế quốc thực dân PHỚT Ăng lê,làm ban bí thư trung ương doàn.
Toan lu an tan pha hoai dang dieu hanh mot dat nuoc day tiem nang thi lam sao ma kha len duoc
Trả lờiXóaNông dân là lực lượng chính tham gia cách mạng. Họ hy sinh mất mát nhiều nhất. Nhưng hãy xem sau gần 40 năm thông nhất thì nông dân được gì Ngoài sự "lỗ kép"?
Trả lờiXóaXuất khẩu gạo nhất nhì thế giới đâu có Lợi ích và sự tốt đẹp cho nông dân? Hãy nhìn ra khu vực và thế giới để đánh giá đúng và khách quan. Sự chung thủy của nông dân Việt đang bị coi rẻ
Mong Lãnh đạo Đảng - Nhà nước VN đừng diễn trò "tự sướng nữa".