(Ảnh minh hoạ)
* PHẠM
THÁI
ĐỊNH MỆNH.
Lão ngồi đó, trong căn nhà trống trơn. Lão
ngồi im như chiếc bóng. Lão mệt mỏi, hay đang suy tính điều gì? Không. Lão
không biết. Tôi không biết. Mọi người cũng không biết!
Tôi do dự, nửa muốn bước tới ôm choàng lấy ông
cụ, nửa muốn lùi lại. Tôi đứng tần ngần sau cái bóng của lão mà cuộc sống chỉ
tính bằng ngày. Nhìn ông cụ, đầu óc tôi liên tưởng đến cái thây ma. Sao tôi
nghĩ ác thế! Tôi cũng không biết. Ước nguyện duy nhất lần này về quê là được
gặp ông lần cuối, như trả một món nợ, nhưng tại sao tôi phải nghĩ thế. Tôi tự
mâu thuẩn với mình! Tôi không biết hay né tránh, không dám nhìn thẳng vào sự
thật. Sự thật đầy trắc ẩn và phủ phàng. Không. Không phải thế! Mặc kệ, ai nghĩ
sao cũng được. Nhưng trước mắt tôi hiện hữu một lão ông bằng da bằng thịt.
Lão
thuộc lớp người sống dai nhất làng, đã qua tuổi thượng thượng thọ, nhưng điều
kỳ diệu, ông cụ có căn số mà các loại sách tử vi hay bất kỳ ông thầy bói toán nào
cũng không thể chấm được mạng sống của lão. Hàng trăm lần đối diện với cái chết,
từ hồi kháng Pháp, sang thời chống Mỹ, những vết thương đầy người, cái miễng
đạn cối 81 bằng hạt bắp còn hằng sâu trong da thịt. Lúc trở trời trái gió nó
nổi cơn hành hạ cái thân xác già nua của ông. Những năm tháng tuổi thơ, tôi đã
ít nhất hai lần chứng kiến ông chết hụt. Lần đầu vào mùa khô năm 1966, lính Đại
Hàn càn xuống làng bắt ông, và đám trẻ con chúng tôi, lùa dân làng dồn vào một
góc sân trường học chuẩn bị nhã đạn. Chúng tôi cầm chắc cái chết, bởi trước đó
mấy ngày lính Đại Hàn đã bắn chết hàng trăm người dân ở hai làng kế bên (làng
Nam Yên- Long Bình 35 người, An Phước trên 50 người, thuộc xã Bình Hòa). Nhưng rất
may cho ông, cho cả chúng tôi. Sáng đấy lính Mỹ đi càn, chúng vào từ phía sau
làng, đụng đầu với toán lính Đại Hàn đang lục soát, và bắn một trái khói màu
xanh. Sau trái khói, bọn lính Đại Hàn bỏ đi. Sau này tôi mới biết trái khói màu
xanh là ám hiệu khu vực Mỹ kiểm soát. Gía như sáng hôm đó chúng bắn nhầm trái
khói màu đỏ, thì bà con cả làng tôi sẽ chung số phận với những người dân làng Long
Bình, An Phước...
Lần hai, hôm đó vào giữa trưa, trời nóng
như đổ lửa, tôi đi học về tới sân nhà, một chiếc “rọ” lao đến như con chim sắt,
phanh “kịt” trên không, cách đầu tôi khoảng năm sáu mét. Có lẽ chúng nhầm tôi
là một cán bộ, hay du kích, bởi tôi mang chiếc cặp giống kiểu cán bộ thường
dùng. Một loại chất liệu làm bằng bông xô của Mỹ. Bằng một thứ phản xạ, tôi
liền giơ hai tay, giật chiếc nón lá khỏi đầu. Một tên Mỹ trắng nhô đầu ra cửa
máy bay nhìn tôi, rồi quay ngoắt nòng súng về phía nhà lão Nhất. Nhà lão cách
sân nhà tôi bởi một hàng rào dăm bụt. Ông đang hóng mát nơi gốc cây khế trước
sân, thấy tàu bay đến vội chạy vào nhà. Chiếc trực thăng liền quay đầu về phía
nhà ông, nó sà xuống sát mái, quạt mạnh, tức tốc mái tranh tơi tả bay vèo vèo,
chỉ còn trơ lại chiếc hầm đá ong xây hình chữ L. Chúng dí nòng súng M60 siết
cò, đạn nổ rát lỗ tai, tuýt đạn văng vãi trên đầu, rơi trước mặt tôi. Bắn xong
chúng lao đi, tôi và những người hàng xóm chạy đến chui vào hầm lay mạnh nhưng
ông chỉ bị thương nhẹ, viên đạn xuyên qua gót chân. Rất may cho hai ông bà,
chúng không ném lựu đạn như những lần trước. Có lẽ nó nghỉ bắn đạn đại liên là
đủ tiêu diệt mục tiêu, nên không phải dùng lựu đạn. Hơn nữa, mục tiêu không
chống cự-không phải VC
Hơn
chín mươi năm, thì có quá nữa thời gian chinh chiến mà ông trực tiếp đối đầu
với bom rơi đạn lạc. Bốn người con trai ông rút ruột đẻ ra nuôi dưỡng đến tuổi
trưởng thành đã lần lượt ra đi, bị bom đạn giết chết tức tử bên sự tuyệt vọng
của người cha. Vậy mà ông vẫn sống, vẫn khỏe mạnh, vẫn minh mẫn. Dường như trời
đất khiến lão sống để làm một chứng nhân thời cuộc. Có lần lão buồn bã nói với
tôi “sao mình không chết, để mấy thằng
con trẻ sống”.
Quê tôi, làng tôi trải qua bao cuộc chiến
tranh tàn khốc, bom đạn cày xới đến những nấm mồ yên nghỉ dưới lòng đất từ bao
đời cũng không qua khỏi chiếc mai sắc bén của những chiếc máy ủi quân dụng siêu
nặng dưới thời chiến tranh đặc biệt, huống gì nhà cửa, con người làm sao tránh được
bom đạn Mỹ. Trải qua hai cuộc chiến nhà nào cũng nặng vành khăn tang, có gia
đình hy sinh, chết đạn không còn người thừa kế, thắp hương. Kết thúc chiến
tranh tháng tư năm 1975, kiểm lại trong làng có bốn mươi gia đình mất gần trăm
người chết đạn, phần lớn họ được ghi công liệt sĩ, anh dũng hy sinh. Người nào
còn sống sót thương tật đầy mình, trong nhà trên tường vách đất treo đầy bắng
Tổ quốc ghi công, Huân chương, Huy chương đủ hạng. Lão Nhất cũng không nằm
ngoài số phận của những con người ấy. Ông trải qua hai cuộc chiến tranh tàn
khốc, những lớp người như ông ở cái làng này, chết hồi tám hoánh. Họ không chết
vì bom Tây, đạn Tàu cũng chết vì ốm đau, bệnh tật gìa cỗi theo quy luật sinh
tồn.
Một giây, hai giây trôi qua, bộ nhớ của
mình đã sao lục lại hàng loạt sự kiện. Tôi nghỉ bâng quơ. Ông vẫn ngồi đó như
bức tượng. Tôi nhìn ông một lần nữa hết lượt từ chân đến cái đầu trống trơn
không sợi tóc. Cũng có thể đây là lần cuối gặp ông. Tôi từ tốn:
-Thưa cụ, cụ có khỏe không?
Lão liền quay đầu lại. Một động thái phản
xạ nhanh nhẩu như thời ông chạy càn trốn Mỹ. Cái nhanh ở độ tuổi thiên niên kỷ.
Cụ nhìn tôi, nói liền:
- Con về khi nào, đi với ai, có dẫn con trẻ về không?
- Dạ…con về hồi sáng sớm, đi mỗi một mình.
Gương mặt cụ hiện rõ trụi trần theo thời
gian. Đôi mắt già nua, cụ nhìn tôi rạng rỡ, thấu suốt, lắng đọng hằng sâu những
quá khứ xa xăm. Nước từ trong đáy mắt ông cụ rịn ra. Tôi im lặng, kéo thời gian
ký ức về phía mình. Ông nho nhã nói:
-Có thể đây là lần cuối qua (1) nhìn thấy em,
và nhờ em tý việc.
-Việc gì, thưa cụ?
Tần ngần một lúc, ông cụ bảo:
- Đi tìm xương cốt mấy thằng con.
Tôi tỏ thái độ ngạc nhiên. Ngạc nhiên bởi
sau 40 năm ngày thống nhất đất nước, toàn bộ liệt sĩ ở cái làng này, xã này đã
quy tụ đầy đủ chỉ thiếu mỗi hai người con của ông. Mặt khác hai người con ông
là bộ đội địa phương, hy sinh nơi chính quê hương mình? Việc lớn, việc khó như
làm hồ sơ phong xã anh hùng họ còn làm được. Vụ này rắc rối lắm: Sau hai mười
năm bị từ chối bởi một trong ba thôn bị chế độ chính quyền Sài Gòn chiếm đóng,
có nhiều lính ác ôn; nhân dân của hai thôn đấu tranh mãi, cuối cùng Nhà nước
cũng phải phong danh hiệu anh hùng cho toàn xã. Gía như cái danh hiệu này được
phong cho cấp làng, cấp xóm thì cái xứ Long Bàn này, Xóm Núi này thượng phong
đến mấy lần anh hùng chống giặc ngoại xâm cũng xứng đáng. Thôi thì đành vậy, trên
tỉnh, trong huyện có mấy xã cùng thời đánh Tây, chống Mỹ như nhau mà được cái
vinh danh này.
Không
phải vậy, dường như ông cụ đoán được suy nghỉ của tôi. Cụ nói tiếp.
-Thằng Tống, thằng anh cả chết trận hồi tết Mậu
thân, nó chết tại thị xã, chết ngay đợt nổ súng đầu tiên trong cái đêm mồng một
tết.
-Sao cụ biết?
-Hồi đó bạn nó sống sót về nói với qua. Sau
lần ấy không thấy nó trở lại, nghe nói nó cũng hy sinh trong một trận chống càn
gần Núi Thành.
Nói đến đây, tôi thấy ông cụ xúc động, muốn
cắt câu chuyện, nhưng ông không muốn dừng:
-Đêm đó quần
nhau với địch suốt đêm, thương vong quá nặng, sáng hôm sau bộ đội buộc phải rút
hết, không lấy được xác. Thằng Tống con qua cùng mười mấy anh em D48 nằm lại
vĩnh viễn nơi cái thông hào vành đai thị xã Quảng Ngãi.
-Sao cụ không
đi tìm?
-Có chứ, đi
miết không tìm thấy. Qua nghe nói năm rồi đài báo loan tin công ty gì đó thi
công đaò xúc phát hiện mười mấy cái cốt nơi thông hào, chỗ thằng con hy sinh.
Nhưng chờ hoài không thấy trên tỉnh đưa danh sách về có tên thằng Tống. Hay nó
đi bộ đội thay đổi tên khác, qua cũng không biết. Còn thằng…
-Thằng nào nữa?
-Thằng Tờn và
hai đứa sau cũng chết trận.
Nói đến đây
ông nghẹn lại nơi cổ họng. Tôi cũng vậy.
Tôi biết Tờn,
biết từ thuở nhỏ. Anh độ tuổi người anh trai của tôi cũng hy sinh gần đợt với
anh tôi, nhưng may mắn tìm được xác đem về nhà, còn anh Tờn họ chôn cất ngay
tại trận địa ngoài Bình Thuận, bây giờ là khu vực cảng nước sâu Dung Quất. Sau
năm 1975, khu vực này Nhà nước giải tỏa xây dựng khu công nghiệp- nhà máy dầu
khí- bến cảng… người ta đưa anh về nghĩa trang nhưng bị thất lạc tên tuổi.
Ông cụ bảo:
-Nghe nói nó
chôn ngoài nghĩa trang Bình Thuận, qua đi tìm hoài không thấy tên nó. Giờ thì
không còn đi được nữa, qua nhờ em có dịp nào tìm đưa thằng Tờn, thắng Tống về
quê, chết mới yên lòng.
ĐIỀU KHÔNG MUỐN KỂ
Lão
Nhất kể:
-Năm 1972, qua
nhận tin thằng con thứ hai hy sinh. Lúc đó khoảng chiều tối, mấy đưá trong đơn
vị nó mặt mũi hốc hác be bết máu, hớt hải bảo: “Anh Tờn hy sinh hồi khuya, địch
kháng cự dữ quá nên anh em đành phải để ảnh nằm tại chỗ”.
Khác với tin dữ lần trước, ba tháng sau
ngày anh Tống hy sinh, đơn vị mới đưa cái giấy báo tử cho ông, lần này anh Tờn
hy sinh ở xã bên cạnh, cách nhau hai quả đồi, lại biết tin ngay trong ngày,
nhưng ông không được nhìn mặt con lần cuối. Hơn thế, mấy cái huyệt bỏ trống bên
trảng hoang ông cùng mấy anh em trong xóm đào sẵn, để hờ nếu có anh em nào đánh
đồn trong đêm hy sinh thì vác xác về mai táng. Đó là một thứ tiền lệ của cái
làng này kéo dài suốt trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Bởi nơi đây là vùng
giải phóng, là căn cứ địa của cách mạng an toàn. Căn cứ này có từ thời 1954,
sau khi tập kết ra Bắc, cách mạng cài cắm cán bộ ở lại nằm vùng hoạt động như
các ông Chinh, Nguyễn Hạnh, Tô Ưu… Luật 10/59 ra đời chế độ Ngô Đình Diệm khủng
bố, những người hoạt động bí mật như ông Chinh, ông Hạnh, bị địch bắt, tàn sát tra
tấn dã man đến chết. Sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1/11/1963) nơi
đây trở thành vùng giải phóng, thành căn cứ địa cách mạng. Tháng 8/1965 bộ chỉ
huy trung đoàn Một (trung đoàn Ba Gia) của ông Nguyễn Chơn làm trung đoàn
trưởng về “ếm quân” ở đây để đánh trận Vạn Tường.
Ông cụ
bảo tôi, hồi trước, đêm đêm ông nằm nghe tiếng đạn pháo nổ đùng đoàng trên quận,
hoặc mấy cái tiền đồn lính ngoài Động Bằng, ông hồi họp muốn ngợp tim, chờ anh
em bộ đội, dân công khiêng xác chiến sĩ hy sinh về tập kết nơi cái trảng hoang
này. Mỗi lần mai táng các anh, trước khi đặt các tử thi xuống huyệt, ông thường
soi đèn pin, lật qua lật lại xem kỹ mặt mũi có phải thằng con mình hay mấy đứa
cháu trong xóm. Sau này, hàng năm cứ đến đầu tháng Chạp, đi dẫy mộ cúng âm
linh, nhìn những cái mộ hoang xếp hàng ngang, ông cảm nhận bóng dáng con mình
vất vưởng đâu đây. Không biết dạo này họ đã đưa hết mấy anh em vào nghĩa trang
chưa, hay còn nằm lại cái trảng cỏ buồn tênh kia. Gia đình, cha mẹ mấy anh có
người ở tận ngoài Bắc. Anh Hương, anh Lâm, anh Phụng, anh Thảo, anh Tự…nghe bảo
ở miệt Mộ Đức, Đức Phổ hay trong Bồng Sơn, Tam Quan gì đó ông không rõ lắm,
không biết họ đã tìm được con em mình, đưa về quê chưa. Tội nghiệp quá!
Ông lại kể: Sau lần đó, ông chưa kịp hoàn
hồn thì thằng em kế nằn nì đòi đi bộ đội trả thù cho anh, nhưng may mắn chị Hai
nó trong Nam
về dẫn đi luôn. Trong bụng ông mừng lắm, nhưng không dám hé răng. Ông tiên đoán
thằng này sẽ thoát chết. Nhưng đâu ngờ, sau một năm thay đổi cuộc sống mới, nó
lớn như thổi, nó bị bắt lính. Chị nó gởi liền cho ông hai lá thư. Lá thứ nhất
kể lại chuyện nó bị bắt đi lính đưa vào Sư đoàn 23 bộ binh Việt Nam Cộng Hòa,
và đưa lên tận Plây-me. Lá thứ hai báo tin người ta chở xác nó về bằng chiếc
hòm kẽm, không thể khui nắp nhìn mặt. Sau ngày thống nhất, ông vào tận trong Nam nhìn ngôi
mộ con và nhiều ngôi khác cùng thời nằm xếp hàng ngay ngắn…
Kể đến dây, ông lau nước mắt. Tôi nhìn
xuống đất! Tôi không muốn nghe. Sự xúc
động tràn về từ hai phía.
Ông lại kể: Cuối năm 1973, tới lần giỗ đầu
thằng con thứ ba, địch càn quét đánh phá ác liệt, bắt dân vào khu dồn. Ông
không có thời gian bày mâm cổ mà chỉ thắp hương khấn vong hồn nó từ trong Nam về phù hộ
cho thằng em kế và gia đình bình an, nếu phải ép vào khu dồn. Ông kiên quyết
bám trụ tại làng, tiếp tục làm hậu cứ cho cách mạng, nhưng vợ con buộc phải vào
ấp chiến lược. Thằng thứ tư, chưa đến tuổi phải đi quân dịch, nên ông cảm thấy
tạm an lòng để nó theo mẹ. Ban ngày đi làm lụng kiếm sống, tối về ở trong khu
dồn. Trên đỉnh khu dồn là một cái tiền đồn lính bảo an, dưới chân đồi nhà dân sắp
lớp, họ làm theo hình vòng cung ôm quả đồi, bên ngoài hàng rào ấp chiến lược.
Hàng rào người ta dựng bằng cây tre vót nhọn, bên trong đào giao thông hào, cắm
chông. Đêm xuống mọi người dân đến tuổi mười tám đều phải luân phiên canh gác.
Nếu thấy Việc Cộng về ấp thì gõ tùng xèng. Những người đàn ông trai tráng, bị
bắt làm dân vệ (lính phòng vệ dân sự), được ghi tên và trang bị súng carbin.
Thằng con ông cũng bị chọn vào đội dân vệ. Một thời gian ngắn, ông ở trong vùng
giải phóng nghe tin nó hung hăng, cầm súng hù dọa những người có con em đi bộ
đội, du kích. Nghe thế, ông bực tức muốn lộn ruột, dự định sẽ kêu nó về cho đi
bộ đội. Nhưng chưa kịp thực hiện thì quân giải phóng tiến về phá ấp chiến lược,
xóa sổ cái đồn lính Bảo an trong một đêm. Nó chết chung với hàng chục thằng lính
Cộng Hòa. Nhưng được cái là ông đem xác nó về chôn ngay trên mảnh đất quê nhà,
đến ngày giỗ chạp còn có chỗ tới thắp
cho nó nén hương.
Tôi không muốn, nhưng ông cứ kể và tôi phải
nghe. Tôi tò mò:
-Thế, ngày trước cụ được hưởng tiền tuất của
hai người lính Cộng hòa?
-Có…nhưng …
Ông
kể: Thằng thứ ba chết trên tận Plây-me, người ta trả tiền tử tuất một lần, sau
này nghe chị Hai nó kể lại, ông cũng không quan tâm lắm chuyện tiền bạc. Chiến
tranh lo cái mạng sống chưa xong, ở đó
mà tính đến việc lấy tiền để làm gì!
-Nhưng người thứ tư, đi lính dân vệ chết?
-Không có. Hồi đó qua nghe nói dân vệ không
phải là lính có số quân, họ không trả lương, nên khi chết không chi trả tiền tử
tuất. Ở cái xã này có mấy thằng ấp trưởng, dân vệ ác ôn khắc tiếng bị cách mạng
xử tử, nhưng thân nhân họ đâu có được lãnh tiền tử tuất.
Ông kể đến đây, tôi bất chợt liên tưởng đến
mấy tờ giấy chứng tử, bằng Tổ quốc ghi công được Nhà nước hai phía chứng nhận
cho những người lính tử trận, hoặc bộ đội hy sinh. Mấy cái tờ giấy còn đó, đang
treo lơ lửng trên bàn thờ nhà ông. Mặt dù hai tấm bằng Tổ quốc ghi công lâu
ngày bị nhạt nhòa, song nét chữ viết nắn nót bằng mực xạ, một chất màu đen kịt còn
in rõ nét tên họ người hy sinh: Phạm Tống, hy sinh năm 1968…Phạm Tờn, hy sinh
ngày…
QUÁ KHỨ TRỖI DẬY
Mỗi
lần về quê, tôi thường đi hết lượt các nhà trong xóm, thăm hỏi, xem người còn
người mất. Lớp trẻ sao cũng xong, nhưng mấy cụ già nhất thiết phải đến, không
phải mang theo bất kỳ một thứ quà cáp gì, miễn họ nhìn mặt mình là thỏa ước rồi.
Cái lệ này, không phải tôi hay bất kỳ ai hễ đi xa trở về là phải trình làng.
Cái quý giá, cái văn hóa làng quê là ở chỗ đó.
Mấy chục căn nhà, vườn ai nhà ấy vẫn như
xưa. Có khác chăng một số gia đình vượt nghèo, thay đổi nhà tranh vách đất bằng
tường xây, mái ngói. Nhiều nhà còn giữ nguyên tường đá ong loang lổ vết đạn của
thời chống Mỹ còn lại như một kỷ vật hoài niệm. Lớp trẻ bây giờ biết biến đồng
ruộng lúa, rẫy bắp bằng những loài cây ngắn ngày thành thứ hàng hóa nông sản,
bán thu tiền liền, không còn khái niệm sản xuất tự túc, tự cấp như thập niên
tám mươi. Nhà nào cũng có của ăn của để.
Lão Nhất cũng nằm trong số những người mà
tôi phải đến. Ngoài việc tuổi tác, ông còn là chứng nhân lịch sử. Cái lạ, cái
hiếm ở vào tuổi chín mươi, cận kề cái chết nhưng ông cụ rất minh mẫn, nhớ rõ quá
khứ, dự đoán tương lai. Ông thuộc lòng đến từng chi tiết, thời cuộc, ông nói cả
ngày không hết chuyện. Năm nào đánh đuổi giặc Nguyên-Mông, trận nào Việt Minh
giết Tây, đuổi Nhật cụ kể như thánh. Cụ thuộc làu tên tuổi các vị Tiền hiền trong
làng. Thuộc đến mức người nào, tuổi gì, sinh vào năm con giáp thứ mấy, chết năm
nào ông cụ bấm vào đốt lóng tay nói vanh vách, không cần tra cứu sách vở. Nếu
so với cụ Trọng Vĩnh ngoài Bắc hay cụ Nguyễn Đình Đầu trong Nam thì không thể
bởi cụ Vĩnh cụ Đầu còn có học hàm, học vị, thường xuyên tra cứu sử sách, viết
sách, viết báo đưa lên mạng INTETNET bài Tây xích Tàu. Còn cụ Nhất chính danh
một anh nông dân chân đất thứ thiệt, suốt cả cuộc đời gắn liền ruộng vườn, với
hạt lúa, củ khoai.
Lão Nhất kể rằng: Trước năm 1945, dưới thời phong
kiến Pháp thuộc ở cái làng này bình an lắm, nhà nào cũng làm ăn dư dã, không có
giặc đến càn quấy, không biết nạn đói. Cán bộ xã thì có mỗi ông Lý trưởng, thêm
ông Hương kiểm làm phụ tá. Còn quan Tri huyện, Tri phủ cũng nghe vậy thôi chứ cả
đời không giáp mặt, cấp Chánh tổng, Phó tổng cũng chỉ biết, mấy khi họ về làng.
Còn bây giờ cán bộ nhan nhãn, cả xã nghe nói trăm người, mỗi lần về làng xe cộ đậu
đỗ đầy đường, xong việc rủ nhau đi hàng quán.
Nói tới đây, ông cụ dừng lại như có điều gì
trắc ẩn. Cụ hỏi tôi với thái độ thăm dò:
-Qua nghe trên đài nói ở tận ngoài Bắc có cái
xã nào đó tới năm trăm cán bộ, em có biết không?
Tôi ấm ờ cho
qua chuyện chứ nghe thấy trên đài trên báo đưa tin ngoài Thanh Hóa xã Quang
Vinh, huyện Quảng Xương biên chế 500 cán bộ, bị trung ương phê bình, sau đó Chủ
tịch tỉnh phải làm công văn báo cáo giải trình lên Chính phủ còn lại 254 người.
Ông lại hỏi
như trách cứ:
-Qua thấy thời này sao nhiều cán bộ quá hở em?
Tôi lại phải
nghe, phải nhét vào óc những thứ mà nó không còn muốn chứa chấp. Ơ cái thôn này,cái
xã này cũng đủ thứ ban bệ, chức tước không khác mấy hàng chục ngàn đơn vị hành
chánh của cả nước Việt thời hiện đại hóa, dân chủ hóa như bây giờ. Đủ thứ chức
danh chủ tịch: nào là chủ tịch xã, chủ tịch huyện, rồi chủ tịch hội nông dân,
chủ tịch hội phụ nữ, chủ tịch mặt trận…Thời Việt Minh, chín năm kháng Pháp,
mười năm chống Mỹ ở cái làng này, xã này cũng có bộ máy chính quyền nhưng không
loạn cán bộ như bây giờ. Mà thời đó nhiều cán bộ lấy đâu ra lương thực nuôi quân
đánh giặc. Nói đến đây ông lại tần ngần, nhìn xa xăm, thở dài:
-Qua nghe mấy
đứa nhỏ nói tàu Trung Quốc nó vào đến gần đảo Lý Sơn rồi phải không em?
-Dạ, nhưng tàu
đánh cá !
-Đánh cá với
quân sự mấy hồi. Thời chống Mỹ lũ qua tiếp nhận mấy chiếc tàu đánh cá dưới bãi biển
Mãi Giáng- An Cường khi vào bờ mới biết súng đạn của Nga của Tàu chất đầy. Mấy
đứa du kích bộ đội thấy súng đạn mới cáu sướng rơn cả người.
Thấy tôi do
dự, ông dẫn giải:
-Thời ấy những
chiếc tàu không số chở đạn dược, vũ khí nó không bao giờ cặp cảng chính như
cảng Sa Kỳ, Chu Lai, Bình Sa, Vũng Quýt… mà nó chỉ vào những bãi cạn vùng giáp
ranh hoặc vùng giải phóng kiểm soát. Nhưng có lần, cũng tại bãi An Cường bị
địch phát hiện anh em mình phải cho nổ mìn đánh chìm tàu phi tan.
Qua câu chuyện tôi mới biết ông có thằng cháu
đi nghĩa vụ quân sự đóng ngoài đảo Lý Sơn, sắp đổi ra Trường Sa, nên ông đặc
biệt quan tâm. Hồi chống Mỹ trong đất liền thằng con thứ tư nó chết tức tử. Gía
như ông nhanh chân một tý sẽ cứu được nó, đỡ mang tiếng theo Ngụy làm ác ôn.
Thằng út sinh sau đẻ muộn, nó gầy đéc, tính nết gàng rỡ, lính chê khỏi phải lo.
Nhưng tức cái nó bắt chước mấy đứa trên xã ăn chơi liêu lỗng, uống rượu quên
lối về nhà. Ông bảo: Lũ trẻ bây giờ là vậy, khuyên nó không nghe, còn hờn dỗi.
Ông còn mỗi mình nó nối dõi tông đường nên phải chiều theo, lỡ nó dại dột thì
tiệt giống, còn ai lo bữa kỵ nén hương.
ĐẤT LÀNG
Trước ngày đi
khỏi làng, tôi ghé chia tay ông cụ như một thông lệ mà ở độ tuổi như tôi ở cái
làng này ai cũng phải làm thế. Một thứ thông lệ chỉ có lợi cho tâm hồn lẫn kẻ ở
người đi, mà đến cái tuổi bạc đầu rồi tôi mới thấy thấm thía tâm can.
Lần này lão
Nhất không kể chuyện huyên thiên, nói một cách mạch lạc đi thẳng vào vấn đề.
Ông bảo tôi:
-Con lấy bút ghi, lỡ đi đường xa quên hết.
-Ghi những gì, thưa cụ.
Lão không trả lời thẳng vào câu hỏi, mà
hành động như mặc định:
-Lương qua Nhà nước trả tháng triệu tám, có
thiếu nương nhờ bà con lối xóm, sống chết thế nào đã có số.
Mặt
ông xám xịt. Ông buồn lắm, ông nói:
-Làng mình có năm mẫu đất. Đất này có từ bao
đời rồi qua không biết chắc, nhưng từ khi đẻ ra qua đã thấy nó rồi. Đất làng là
của của làng, không ai được quyền mua bán chia cắt! Họ bảo không làm giấy được nên
bán quách cho xong, em nghe có được không?
Tôi chưng hửng, ghi chép cẩn thận lời lão dặn:
Trước đây tôi
có nghe loáng thoáng, nhưng bây giờ ông nói đúng đến từng chi tiết mới vỡ lẽ.
Lão kể rằng: Ngày xưa, cấp xã có ruộng công điền, làng xóm thì có đất làng.
Ruộng công điền nhằm để chia cho những người bần cố nông thiếu đất cày. Đất
làng là để giao khoán luân phiên cho người làng canh tác, trích hoa lợi gây quỹ
giúp người cùng đinh, xây dựng làng, sửa san đình miếu, cúng tế, ghi công các
vị Tiền hiền, Thủ bổn có công. Bây giờ họ bảo đất làng làm giấy không được, Nhà
nước không cấp sổ đỏ, vì không có chủ thể đứng tên nên đem bán, lấy một cục
tiền chia đều cho các hộ là xong chuyện. Sau này lấy của đâu ra lo việc sửa
sang đền thờ, cúng tế âm linh. Cúng âm linh hàng năm là việc lớn phải làm, mọi
người nhất thiết phải tham gia dẫy mả hoang, tham dự cúng tế. Đó là trách nhiệm
của người sống với những sinh linh không còn mồ mả, không còn thân thân cúng
bái, linh hồn phiêu bạt…Nói đến đây, tôi thấy lão rưng rưng nước mắt. Lão khóc.
Miệng lão méo xẹo, vỡ òa như một đứa trẻ. Lão bảo: lão nhớ con, nhớ thằng Tống,
thằng Tờn, thằng Năm, thằng Sáu…không biết chỗ nó nằm bây giờ họ có dẫy mả cúng
cơm cho chúng nó không?
Lão nói với
tôi: Cái làng này có mười mấy người đi tập kết về. Mỗi lần về họ đều đến thăm
hỏi. Họ kể nhiều chuyện về công cuộc xây dựng thành công CNXH ở Miền Bắc, họ
khoe với ông như một thứ chiến công. Ngược lại lão bảo mấy ông đó ghi chép như
tôi bây giờ, nhưng ông nào cũng vâng vâng dạ dạ không để tâm rồi bỏ đi tuốt
tuột. Đến ngày tế làng cũng không thấy ai về. Họ bảo bận công tác, nhưng mấy
ông về hưu rồi có bận bịu gì đâu cũng đi luôn ra Bắc vào trong Nam . Còn mấy
đứa trẻ thì cứng đầu cứng cổ nói không nghe, cứ làm theo ý chúng. Đứa nào có
học hành tử tế thì bỏ xứ đi, chúng nó bảo về làng không có việc làm. Khu kinh
tế Dung Quất, nhà máy hóa dầu Bình Sơn cũng chỉ dành cho lớp người có chuyên
môn cao. Mấy đứa con gái lên tỉnh vào khu công nghiệp làm thợ may cũng bỏ về.
Nghe nói nhà máy không có việc làm, cán bộ không trả lương công nhân, tiền trợ
cấp thất nghiệp không đủ đong gạo.
Tôi cứ ngỡ
lão quan tâm đến mấy cái vong linh liệt sĩ, và nhờ tôi tìm hộ, song qua việc
nói chuyện tôi mới thấy ông cụ nhìn xa, biết rộng. Cuộc sống cận kề cái chết mà
còn lo lắng cho lớp trẻ, nghỉ đến chuyện tồn vong của cái làng bé tí này. Tôi
nghe nói người già bao giờ cũng thế, nhất là những típ người “đoán” được thời
khắc của mình sẽ đi xa.
Ra về, đầu tôi
nặng trĩu ưu tư, ngậm thấm từng lời ông cụ dặn dò. Khi hầu chuyện mình tưởng sẽ
san sẻ cùng cụ nổi niềm của người xa xứ, song nghe ông kể lòng se lại, như dồn
thêm gánh nặng. Cái nặng thứ nhất về cái hài cốt của hai người con ông cụ. Trên đài
trên báo ngày ngày vẫn còn tiết mục nhắn tìm đồng đội, tìm thân nhân liệt sĩ,
biết đâu gặp may có ngày nào đó các con ông sẽ đoàn tụ. Nhưng lời khuyên thứ
hai, cụ bảo tôi tiếp quản mấy thứ lệ làng, đòi lại mấy mẫu đất làng thì chào
thua.
Tôi nghĩ một
ngày nào đó không xa ông cụ phải ra đi về với bốn người con nơi cõi vĩnh hằng. Chắc
các anh, các con ông cũng không còn giận nhau, chia phe ra đánh nhau như thời
chống Mỹ - của kiếp trước.
Trên thế
gian này, ở cái làng nhỏ bé và heo hút này chắc sẽ có người thay ông. Biết đâu có
ai đó trong số mấy ông già, đảng viên kỳ cựu thời kháng Pháp tập kết ra Bắc
cuối đời lại quay về quê thay lão lo chuyện lễ làng.
Trên cõi này
đâu có cái gì chắc chắn, có mấy ai biết trước được thời cuộc, nhất là chuyện
sinh tử!
Trời trở gió,
tiếng sét tóe lửa như trái phá thời chiến. Tôi ghé mắt nhìn qua cửa sổ nhà lão
Nhất, trên bầu trời mây giăng vầng vũ, xám xịt.
P. T (Tác giả gửi BVB)
----------------/
(*) - Tái
bút: khi những trang viết này lên khuôn, ông- lão Nhất đã theo những người con
của cụ về cõi vĩnh hănng.
Anh: Lão
Nhất, còn gọi là Lão Nhị.
(1)Qua và em
là ngôn ngữ cho người thứ bậc lớn xưng với người nhỏ hơn.
(2) Anh: tức Lão Nhất
(2) Anh: tức Lão Nhất
------------
4 người con của ông Nhất phải chia ra 2 phe bắn giết nhau rồi tất cả đều chết chính là điều mà theo lời ông Thành,con trai của Lê Duẩn,một nghị sĩ Hàn Quốc rất khâm phục.
Trả lờiXóaChuyện nhà ông Nhất chỉ là hình ảnh thu nhỏ của đất nước khi "đảng ta" phát động cuộc chiến tranh thôn tính miền Nam.
Tội ác này chắc chắn lịch sử dân tộc sẽ ghi lại đầy đủ.
Chiến tranh Nam Bắc là 1 cuộc nội chiến tương tàn của 2 phe CS và Tự do , những mất mát do chiến tranh đau thương thì vô bờ , đã lùi xa trong quá khứ 42 năm rồi . Nhưng hậu quả thì mãi đến nay đất nước VN vẫn bị nghèo nàn và tụt hậu , tương lai đen tối .
Trả lờiXóaMà bi thảm nhất là đất nước VN dưới chế độ CS lại xấu số nhất trong tất cã các nước theo CNCS .
Các nước khác vướng nạn CS làm đất nước te tua nhưng rồi cũng đã thoát khõi . Đói nghèo , vô cùng độc tài như Bắc Hàn nhưng dân của họ cũng được “ sống trong cảnh nghèo mà hạnh phúc “
Còn duy nhất VN lại rơi vào nguy cơ mất nước diệt tộc : Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh .
VN đã rơi vào mưu đồ , cạm bẩy của Tàu ngay từ đầu cuộc chiến !