Translate

Trang BVB1

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Vì sao người ta phải thoát Khổng?

              
                * MAI HUY BÍCH 
Theo Khổng giáo, người và người không thể sống tách rời nhau mà có muôn nghìn quan hệ gắn bó lại với nhau trọng phạm vi những cộng đồng nhất định. Các cộng đồng cơ bản nhất, từ nhỏ đến lớn là gia đình (gia), nước (quốc), và thiên hạ. Như nhà nghiên cứu Quang Đạm đã vạch rõ, gia đình là chỗ đứng phải giữ vững trong mối quan hệ giữa người với người, trong quan hệ giữa mình với đất nước và thiên hạ. không bao giờ thoát ly gia đình – đó là một điểm rất cơ bản của Khồng giáo.
Không vướng gia đình, không bị “vướng thê nhi”, “vợ bìu con ríu”, làm một cá nhân độc lập – đó không phải là một giá trị xã hội mà là một bất hạnh lớn lao. Theo Không giáo, đau khổ bậc nhất là những người không thuộc một cộng đồng gia đình nào, không có nhà để gắn mình vào. Đó là bốn loại người (Quan: đàn ông góa hoặc lớn tuổi không vợ; Quả: đàn bà góa hoặc lớn tuổi không chồng; Cô: trẻ mồ côi; Độc: người già không con).
Tính chất cộng đồng thể hiện ở địa vị thống trị của gia đình đối với mỗi thành viên. Cá nhân không tồn tại như một thực thể độc lập, không có quyền tự do cá nhân, mà mọi mặt cuộc sống đều gắn chặt vào gia đình, phải hoàn toàn phục tùng gia đình. Người ta chống lại, kìm hãm những mong muốn riêng tư, coi mục tiêu sống của mỗi người là duy trì sự tồn tại, êm ấm, hài hòa của gia đình, chủ trương hòa tan tất cả những gì của riêng, cá nhân vào gia đình. Tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá hành vi mỗi thành viên là có đúng và tốt cho gia đình hay không, có được mọi người trong gia đình tán thành hay không.
Nét khác biệt giữa gia đình Việt Nam và Á Đông nói chung với gia đình phương Tây là ở chỗ này: nếu như gia đình phương Tây tồn tại để nâng đỡ cá nhân, tạo ra môi trường thích hợp để nuôi dạy cá nhân. Khi cá nhân trưởng thành, gia nhập đời sống xã hội thì gia đình đạt được mục tiêu của nó. Trong khi đó, ở Việt Nam, mỗi người sống để tiếp nối, duy trì, phục vụ gia đình. Chính đặc trưng này – về cơ cấu gia đình – mà theo chúng tôi là nổi bật nhất của gia đình Việt Nam, chứ không phải một số tiêu chí khác, chẳng hạn tiêu chí gia đình hạt nhân, hay mở rộng mà nhiều nhà nghiên cứu vẫn vạch ra. – đã quy định đặc thù của những chức năng cơ bản mà gia đình Việt Nam đảm nhận. Hơn bốn thập niên biến thiên vừa qua, một mặt đã tạo nên những thay đổi lớn lao và mạnh mẽ, ví dụ những nội dung trực tiếp của giáo lý đạo Khổng (hiếu, đễ, v.v…) không còn như cũ nữa, nhưng mặt khác, nhiều yếu tố của cấu trúc cũ vẫn còn lại, đan xen với các yếu tố mới (chẳng hạn tính cộng đồng vẫn còn, thậm chí được tái cấu trúc), tạo nên đặc thù về cơ cấu và từ đó quy định chức năng gia đình Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Chức năng xã hội hóa của gia đình
Ở Việt Nam con cái được hình dung chủ yếu để bảo đảm sự tiếp nối gia đình, dòng dõi, kể cả đảm bảo bảo vệ và sự sống còn của những thành viên người lớn, và người già trong gia đình. do đó khác biệt đầu tiên giữa gia đình Việt Nam với gia đình phương Tây trong chức năng xã hội hóa là quan hệ giữa chủ thể và khách thể xã hội hóa, tức là giữa cha mẹ và con cái. ở phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, nơi cơ cấu giá đình điển hình là hạt nhân, quan hệ cha mẹ - con cái phổ biến là quan hệ một đối một bền vững, chủ yếu chỉ có mẹ/ cha với con cái. Hơn thế, xã hội Mỹ đặt ra những chế tài văn hóa nghiêm khắc chống lại việc một nhóm đông người chăm sóc trẻ em. Trong khi đó, ở Việt Nam, một đứa trẻ ra đời trong gia đình có cơ cấu hoặc mở rộng, hoặc mang hình thái gốc (ông bà sống gần con cháu) không chỉ thuộc về người mẹ trong xã hội Mỹ. trẻ em Việt Nam thuộc về cả gia đình đông người đó, tiếp thu sự xã hội hóa nhiều người, của một tập thể. Do đó, con cái ngoan nhờ công cao của cả gia đình, con cái hư là do lỗi của chung, không của riêng ai.
Điều trước tiên cần vạch rõ là cộng đồng gia đình Việt Nam được tổ chức rất chặt chẽ. Các thành viên được dạy phải đặt lợi ích của gia đình ở địa vị tối cao, quyền lợi mỗi người không được trái với lợi ích gia đình, mà phải phục tùng gia đình. muốn vậy, người ta không dạy trẻ em tính tự lập, khả năng phân biệt đúng – sai, những điều cần thiết nhằm phát triển nhân cách độc lập, tự chủ - mà dạy cách nhận thức những gì được cộng đồng tán thành hoặc không tán thành, thừa nhận hay bác bỏ.
Con người phải kìm nén, dập tắt những ý muốn, nguyện vọng riêng tư nếu nó trái với chuẩn mực cộng đồng đã quy định. Nếu không sẽ bị “kẻ chê, người cười”, bị mất “thể diện”. khi so sánh khác biệt giữa văn hóa Nhật bản và văn hóa phương Tây, Ruth Benedict đối lập nền “văn hóa xấu hổ” của Nhật vốn lấy động cơ là sự xấu hổ, sợ xã hội chê bai với “văn hóa của tội lỗi” ở phương Tây vốn dựa vào ý thức cá nhân, nhận thấy mình tội lỗi trước Chúa, lương tâm cắn rứt, do đó xưng tội cho nhẹ người. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là: một bên là những xã hội vẫn khẳng định tính cộng đồng Nhật bản và Việt Nam. Còn một bên là xã hội đã giải phóng cá nhân. Ở Việt Nam, người ta đề cao cộng đồng và hạ thấp cá nhân đến mức phi lý. Người ta thủ tiêu cá tính, cào bằng hết thảy cố sao mỗi người như mọi người, không hơn, không kém. Mọi người được rèn luyện từ nhỏ theo tinh thần cộng đồng, coi sự đánh giá của cộng đồng là thước đo cao nhất, và chỉ ứng xử cốt sao được cộng đồng tán thành, chứ không phải theo đúng, sai. Trong hai mươi bốn người con hiếu vẫn được truyền tụng (thập nhị tứ hiếu), người ta ca ngợi cả “ngu hiếu”, tức là hiếu một cách mù quáng, quái gở). Ý kiến của người xung quanh hết sức quan trọng. Trong nhà, con cái được đánh giá trước hết ở chỗ có ngoan- theo nghĩa có vâng lời người trên – hay không, chứ hoàn toàn không chấp nhận những trẻ em dám “lý sự”. với tinh thần ấy, kỷ luật dựa trên cơ sở những điều mà người xung quanh, đặc biệt những những “người quan trọng” tán thành hoặc coi là thích hợp. Con trẻ được dạy để hiểu rằng phải ứng sử sao cho những người xung quanh nói rằng cha mẹ hạnh phúc có đứa con như vậy. Đừng làm gì để bản thân bị “mất mặt” cũng như gây tổn hại đến thanh danh chung của cả gia đình, dòng họ. Con đường sống trên đời là nhượng bộ quyền uy người trên, và ý kiến những người có thế lực, có ảnh hưởng ở hàng xóm. Và tuân thủ mô hình hành vi của những người xung quanh. Lối giáo dục đó khiến trẻ em không biết tự định hướng, và khả năng phân biệt đúng sai rất kém. Chỉ biết dựa theo gia đình và số đông. Chính vì thế bố mẹ có thể dạy bảo con làm việc trái đạo đức, thậm chí phi pháp. Nếu con cái không nghe theo thì dứt khoát là “con không nghe cha mẹ trăm đường con hư”, dù có đúng lẽ phải vẫn là hư.
Một nội dung xã hội hóa hết sức quan trọng trong gia đình Việt Nam truyền thống, bất kể gia đình quan lại, nhà nho, hay nông dân, là phải quán riệt cho trẻ em thấm nhuần cơ cấu có tôn ti trật tự trên dưới theo chiều dọc và tinh thần cộng đồng chặt chẽ của gia đình. Mỗi người trong gia đình bao giờ cũng có vị trí nhất định trong 3 thứ bậc trật tự trên dưới như sau: 1- thế hệ; 2- lứa tuổi; 3- giới tính. Như vậy tôn ti của gia đình đè nặng lên 2 loại người: những người thuộc lứa tuổi trẻ hơn và thế hệ bé hơn; và những người phụ nữ. Trẻ em được dạy dỗ là phải thấm nhuần rằng họ chỉ là một thành viên của gia đình, họ hàng. Giá trị của mỗi người được tính theo tiêu chuẩn là con ai, cháu ai, dòng họ nào, chứ không phải theo tư cách cá nhận, bản thân họ là gì, tài đức họ thế nào. Hơn thế, ngay cả những người thành đạt, thì trong gia tộc vẫn chỉ là một thành viên bình thường, có kẻ trên, người dưới, và phải tuân thủ những quy tắc ứng xử theo vị trí của mình trong gia tộc. đó không phải là gì khác hơn là sản phẩm của một xã hội đặt cộng đồng lên trên cá nhân. Đây cũng là nét khác biệt giữa xã hội Việt Nam với nhiều xã hội Đông Nam Á. Ví dụ Thái lan, Một mặt Thái Lan người ta tôn trọng vị trí con người trong xã hội. mặt khác họ công nhận phẩm giá mỗi người, bất kể địa vị của họ ra sao.
Trẻ con được giáo dục theo Khổng giáo, tuân theo “hiếu” “lễ”
Đi liền với cách giáo dục theo khuôn mẫu Khổng giáo là hệ thống kiểm soát xã hội. Những biện pháp khen thưởng, trừng phạt, gây sức ép nhằm đảm bảo sự tuân thủ những chuẩn mực đã được thừa nhận và tránh vi phạm, lệch lạc. Những biện pháp kiểm soát xã hội trong gia đình truyền thống Việt Nam là nhằm phát huy cao nhất tinh thần tuân thủ thụ động. Hòa tan cá nhân trong cộng đồng. và trong hệ thống xã hội hóa theo tinh thần cộng đồng, cơ chế kiểm soát xã hội chủ đạo là bắt chước, và thưởng phạt. Khác hẳn với hệ thống xã hội hóa theo tinh thần cá nhân. Nơi chủ yếu là cơ chế tự điều chỉnh. Khác biệt cụ thể là ở chỗ. Trong cơ chế đầu, sự kiểm soát được thực hiện từ bên ngoài. Phải có một lực lượng chuyên thực hiện sự kiểm soát. Và điều buộc người ta tuân thủ là sợ bị trừng phạt. Còn trong cơ chế thứ hai, mỗi người biết tự mình phân biệt đúng sai, áp dụng những quy chuẩn hành vi để tự xem xét hành vi của mình. Tự thực hiện sự kiểm soát bên trong. Mong mọi người thừa nhận mình.
Trong cơ chế kiểm soát mang đậm tính cộng đồng như vậy, sự trừng phạt thường rất nặng nề. Bản thân gia đình rất chú trọng sự trừng phạt nghiêm khắc đối với mọi hành vi của con em mà gia đình coi là trái với lợi ích gia đình. Trừng phạt nghiêm khắc là đặc điểm nổi bật của cơ chế kiểm soát hành vi con cái trong gia đình Việt Nam so với một số xã hội láng giền, chẳng hạn Lào, và Thái Lan. Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đều xác nhận điểm này. Ví dụ trong gia đình Lào, trẻ em không biết đến những chuẩn mực và quy tắc nghiệt ngã như gia đình Trung Quốc và Việt Nam.
Cần vạch rõ: xã hội, thông qua luật pháp, coi việc vi pham uy quyền gia đình là đ dọa trực tiếp trật tự xã hội, nên tiếp tay rất đắc lực cho sự kiểm soát hành vi các thành viên trong gia đình.
Để tăng cường sự kiểm soát của gia đình đối với hành vi của các thành viên, để xiết chặt thêm mỗi thành viên vào cuộc sống cộng đồng, gia đình, pháp luật cũ quy định tư cách pháp nhân của gia tộc, coi gia tộc - chứ không phải mỗi cá nhân – như một đơn vị xã hội. với đường lối “liên đới trách nhiệm”, luật pháp của các chế độ cũ chỉ nắm lấy cộng đồng gia tộc chứ không phải từng người, buộc mỗi thành viên trong gia tộc phải theo dõi hành vi của nhau, chịu trách nhiệm lẫn nhau trước pháp luật. tạo thành một hệ thống kiểm soát xã hội “trăm tay nghìn mắt”. Không những đạt hiệu quả kiểm soát cao mà còn kìm trói, không bao giờ cho phép mỗi người có tư cách pháp nhân độc lập, trở thành những cá nhân. Như vậy, trong xã hội Việt Nam truyền thống, quan hệ kinh tế trong nội bộ họ hoàng có thể yếu ớt, không đáng kể, nhưng quan hệ pháp lý lại hết sức chặt chẽ.
Lối giáo dục nhấn mạnh tuyệt đối các chuẩn mực nhóm và tư cách thành viên nhóm không chấp nhận việc nuôi dưỡng cái “tôi” lấy mình làm trung tâm với tư cách là yếu tố then chốt trong xây dựng nhân cách sẽ đem lại kết quả gì? Không thể phủ nhận được rằng nếu mỗi thành viên trong gia đình không có nhiều nhu cầu. Không có khát vọng riêng trái với lợi ích cộng đồng hoặc biết kìm nén cái riêng thì không khí gia đình như thế thật vô cùng thân thương, và đầm ấm. Gia đình bảo đảm thỏa mãn mọi nhu cầu của mỗi thành viên. Nhưng mặt khác, nếu đạo lý, lễ nghi khắt khe đến mức bóp nghẹt sự sống của con người, thì không khí ấy cũng cực kỳ khắc nghiệt. Hơn thế nữa, với lối xã hội hóa như thế, nhiều trường hợp ra ngoài xã hội, thiếu sự kiểm soát của gia đình, nhiều khi chỉ sự tán thành của một nhóm bạn bè, một hội cùng tuổi, cũng dễ làm trẻ em hư hỏng. Không chỉ khi còn nhỏ mà cả lúc đã rưởng thành, những người được rèn luyện phải sống theo số đông, theo cộng đồng như thế đều không có tính độc lập, tự chủ trong suy xét, phán đoán, chỉ biết rập khuôn nghe theo số đông. Không biết độc lập suy nghĩ, không có và không dám bảo vệ ý kiến trái với số đông. Họ “gặp việc ác không dám phản đối, gặp điều hay mà trái ý kiến nhiều người thì không dám theo, cho nên chỉ thích an thường thủ phận mà tiến thủ” (câu của Đào Duy Anh, 1939. Khổng giáo phê bình tiểu luận. Huế. Quan hải tùng thư). Những con người chỉ biết vâng lời theo số đông, “ai sao tôi vậy” như thế không phải giàu tinh thần đoàn kết, tinh thần tập thể mà chính là con đẻ,là sản phẩm của lối xã hội hóa đặt cộng đồng lên trên hết thảy, bóp nghẹt tính độc lập, tự chủ từ trong ý nghĩ trở đi. Và lý tưởng của loại gia đình như thế không phải là sự biến đổi phát triển mà là hòa thuận, ổn định đến mức trì trệ, bảo thủ.
MHB
----------------

13 nhận xét:

  1. ƯỚC VỌNG CỦA BÙI QUANG THANH tại
    NGỌC CHÂU HẢI DƯƠNG

    Với Việt – Nam ta . Phải loại trừ hàng đâu bọn tiến sĩ ngu dốt được dạy bảo
    Trong các trường ngu dốt do bọn cộng sản áp đặt , không hiểu một chút gì về :
    Hai từ ( trần gian ) lại lấy ( CN . Mác ) làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt . Vậy thì được
    Biểu thị trong cuốn phim ( Thằng Bờm ) là đủ , bọn chúng xem để cười không ngẫm nghĩa nên không thể rời bọn Mao được .
    Dựng lại NƯỚC VIỆT NAM bây giờ cần :
    1. / Tất cả những người con dòng máu Việt đã từng học rồi nghiên cứu lịch sử Việt Nam từ Thuở Hồng Bàng đến nay bất kể ở trong hay ngoài nước hội tụ.
    2 . / Không được lấy khoa học hù dọa dân đen
    3 . / Bỏ hẳn nền giáo dục mất gốc hiện nay .
    4 . / Phải làm theo lời Vua Quang Trung : ( dành độc lập để dân tự do làm ăn buôn bán )
    5 . / Các đảng phái được quốc hội phê chuẩn , được đóng góp ý kiến lên
    Quốc hội . lập tức phải giải tán đảng cộng sản Việt Nam .
    Bùi Quang Thanh Trước khi chết ước vọng trên đất nước Nam Phải dựng lại Nên học nho giáo chính thống đạo đức Khổng Tử .
    Trẻ con từ 7 đến 14 tuổi nếu muốn học . từng gia đình làng xóm dạy
    Chỉ cân đạt chữ thật đẹp với 4 phép tính thật giỏi .

    Hải Dương ngày 14/6/2014

    Trả lờiXóa
  2. Khổng giáo đã ăn sâu vào não, tủy của người TQ và VN. Các nước châu á khác hình như ít bị ảnh hưởng hơn. " thoát Khổng " với người Việt xem ra hơi bị khó, nó đã trở thành lối suy nghĩ, hành động, ứng xử, nếp sống. Nghị quyết đảng, nếu soi kỹ cũng thấy tư tưởng Khổng giáo ẩn hiện khá nhiều. Thoát Khổng, không thể bằng lý luận, vân đông, tuyên truyền, Nó sẽ tự biến đi khi không còn phù hợp với thực tế cuộc sống, tức tự đào thải. Xã hội VN bây giờ cũng đã thấy có nhiều biểu hiện thoát Khổng ngay trong gia đình.
    Bàn chuyện thóat Khổng bây giờ là hơi sớm. Thoát Trung, thoát cộng thực tế hơn. Thoát được hai cái này cũng sẽ mở ra điều kiện để thoát Khổng.

    Trả lờiXóa
  3. Chính đạo Khổng là tác nhân kéo dài sự thống trị cũng như tư tưởng phong kiến với TQ và các nước phương Đông bị ảnh hưởng như VN.

    Đạo Khổng làm xã hội phong kiến kéo dài ra không cần thiết ,gây cản trở sự phát triển của xã hội vì đạo Khổng là học thuyết xây theo phương thức lấy sự tồn tại chế độ phong kiến làm tiền đề,không lấy con người làm trung tâm trong đó vua được tôn lên thành con trời,dân là con cái của quan...vì đạo Khổng và chế độ phong kiến không lấy con người là yếu tố trung tâm của xã hội ,do đó nó triệt tiêu cái tôi,cái tự do , sáng tạo của con người.

    Không khác mấy đạo Khổng,học thuyết CNXH của Mark cũng ý thức xây dựng con người XHCN,theo đó,con người như một chi tiết trong cỗ máy XHCN,trong đó con người được cung cấp nuôi dưỡng và làm việc theo sự phân công sắp đặt của cán bộ lãnh đạo...mà theo cách hiểu thô thiển hơn,Polpot đã cụ thể hóa CNXH theo kiểu ăn chung ở chung dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của bộ máy chuyên chính vô sản với vồ đập đầu và cuốc bổ sọ...

    Ngày nay ai cũng rõ,thể chế xã hội không phải là mục tiêu xuyên suốt mà chỉ là một phương thức trong quan hệ sản xuất, trong đó phương thức này sẽ thay thế phương thức kia theo trình độ phát triển của sức sản xuất.Cái này chính là một nội dung trong học thuyết kinh tế của Mark nhưng những chính trị gia CS chỉ lợi dụng học thuyết của Mark,đặc biệt là kinh nghiệm giành chính quyền về tay giai cấp vô sản (nếu có)của Lenin về đấu tranh giai cấp,về chuyên chính vô sản và biến xã hội cạnh tranh phát triển kinh tế lành mạnh theo luật thành xã hội đấu tố trong đó con người mất nhiều quyền tự do nhân sinh.Như thế,động lực phát triển xã hội không còn là kinh tế mà là chính trị,hoàn toàn traí ngược triết học duy vật của Mark...do vậy cũng như đạo Khổng,CNXH đang là rào cản phát triển xã hội...

    Trả lờiXóa
  4. Người Nhật rất khôn ngoan khi loại bỏ văn hóa Trung Hoa khỏi đời sống của họ. Họ cho rằng như vậy mới thoát khỏi sự Hán hóa. Từ năm 1873 (năm Minh Trị thứ 6), Nhật Bản đã không ăn Tết Tàu nữa, mà ăn tết Dương Lịch. Rất trùng hợp, từ đó họ đi lên ào ào.

    Trả lờiXóa
  5. Những học thuyết tốt ở đâu chẳng có? Việc gì phải chúi đầu vào theo Trunh Hoa?

    Trả lờiXóa
  6. Các Bác nói vậy sao đc . không theo thì Đ ta nguy mất . đành hs lợi ích của dân vậy.

    Trả lờiXóa
  7. Dường như tác giả bài viết hơi viển vông. Những vấn đề cần "thoát Khổng" trong bài này hầu như đã ...cơ bản được giải quyết. Này nhé:
    Quan hệ thày - trò: Chắc là khó tìm được trường hợp "tôn Sư, trọng Đạo", không hiếm thày cô đã từng bị ăn đòn!
    Quan hệ gia đình: "cá không ăn muối cá ươn,...": Tìm được cá ăn muối thời nay cũng khó, vì đã có ...tủ lạnh!
    Quan hệ hôn nhân: "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy" - còn lâu nhé, thời này cha mẹ cong đít lo cho con được toại nguyện ấy chứ.
    Người phụ nữ "tiết hạnh": "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" - chị em đã tiến bộ vượt bậc, sức mấy chịu vậy!
    ...
    Đơn cử như vậy để thấy rằng, "đạo" nào cũng có cái hay, cái dở. Khổ nỗi ở VN ta hình như đang theo Đạo ...Ù Ù. Cứ nhìn toàn đảng toàn dân rất là lo ...đi lễ là thấy rõ.

    Trả lờiXóa
  8. Quá khó cho VN nước ta khi muốn giữ gìn phát triển ĐẠO ĐỨC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ ÁP DỤNG VẬN HÀNH KHOA HỌC PHƯƠNG TÂY như 1 nước Nhật? khi mà vẫn độc tài độc đảng không đứng ngang hàng TQ mà cứ ôm mãi chân Tàu khi chúng đã rút chân ra khỏi ủng?
    NGLUY

    Trả lờiXóa
  9. "không bao giờ thoát ly gia đình – đó là một điểm rất cơ bản của Khồng giáo. "? Đó cũng là việc làm xã hội phương Đông kém phát triển hơn phương Tây, vì làm con người không có được sự trưởng thành độc lập. VN cũng có câu rất hay trái ngược với chuyện "không bao giờ thoát ly gia đình" - "Đi chi biết đó biết đây/Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn?"
    Thậm chí Khổng giáo, Lão giáo, Nho giáo của Trung Hoa còn áp đặt rất vô lý - Vua bắt chết là tôi trung phải chết? Đó cính là lý thuyết, mong muốn của lũ độc tài!

    Trả lờiXóa
  10. Đạo đức nhân loại phải chọn không thể phân biệt người ấy ở tôn giáo nào .dân tộc nào .
    phải tránh dữ chuộng lành . thánh mới khảng định tất cả của cải vật của giời . nho giáo mới thật
    chữ thánh Hiền . chống lòng tham vô đáy cố hữu .

    Trả lờiXóa
  11. chơ nhằm đức Khổng Tử người Tàu mà ghét ...?

    Trả lờiXóa
  12. Đã là người VN mà vẫn còn gọi Thằng Khổng tử là Đức KT thì hết nói gì được nửa rồi !!! Tại sao? Thằng Khổng Tử là thằng Đại ngu …không biết gì là CHÂN LÝ … chỉ có người VN mới hiểu được CHÂN LÝ LÀ GÌ, có ai trên khăp thế giới ngoài VN có thể định nghĩa được 2 chử CHÂN LÝ ?
    Thử xem , hì hì BVB có dám in cái ý kiến này không ? VOA đã không in cái ý kiến này trước đây cũa tôi, bởi vì tôi không giãi thích gì thêm …2 chử chân lý tự nó đã nói rõ cả rồi
    Nếu KT là dân Mỹ thì phải nói là Shit KT
    Nếu KT là dân Việt phải nói là Đồ chúa ngục KT
    Nếu KT là dân Pháp phải nói là KT DE LA MERDE

    Trả lờiXóa
  13. Ông Mai Huy Bích có phải là đảng viên cộng sản không .? sao Ông viết hay thế ?
    Một cơ hội lớn cho bọn phản đông Tàu Mao lợi dụng . chúng không phải loài ngươi ...

    Trả lờiXóa