* NGUYỄN VĂN THÂN
Trong mấy ngày qua, việc Việt Nam có thể tiến hành kiện Trung
Quốc trước Tòa án Quốc tế làm xôn xao dư luận ở trong và ngoài nước.
Về phiá
Trung Quốc thì họ đã chủ động đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc và cáo buộc Việt
Vịnh Bengal nằm ở hướng Đông Bắc của Ấn Độ Dương bao
gồm khu vực biển khoảng 2.2 triệu cây số vuông và ráp gianh với Sri Lanka, Ấn
Độ, Bangladesh và Miến Điện. Bangladesh có diện tích khoảng 147,000 cây số
vuông, nằm ở phía Bắc và Đông Bắc của Vịnh Bengal, có biên giới với Ấn Độ và
Miến Điện. Miến Điện có diện tích khoảng 678,000 cây số vuông, nằm ở phía Đông
của Vịnh Bengal và có biên giới với Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào và Thái
Lan.
Vào ngày 9 tháng 5 năm 1966 thì Bangladesh và Miến
Điện đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới lãnh thổ dọc theo dòng sông Naaf
(Naaf River Boundary Agreement). Từ năm 1974 tới 2010 thì hai bên đã có tổng
cộng 14 vòng đàm phán về biên giới lãnh hãi, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Sau cuộc đàm phán lần thứ hai, Trưởng Phái đoàn Đàm phán Miến Điện, Phó Đề
đốc Chit Hlaing và Trưởng Phái đoàn Đàm phán Bangladehs, Đại sứ Kwaja Mohammad
Kaiser đồng ký Biên bản Đồng thuận vào ngày 23 tháng 11 năm 1974.
Sau 30 năm yên tĩnh thì tranh chấp lại xảy ra vì trong
thập niên 2000 có sự khám phá trữ lượng dầu khí trong Vịnh Bengal cũng như nhu
cầu năng lượng và khí đốt của cả hai quốc gia láng giềng đều gia tăng đáng kể.
Sau một cuộc đàm phán trong năm 2008, Phó Đề đốc Maung Oo Lwin Trưởng Phái đoàn
Miến Điện và Thứ trưởng Ngoại giao M.A.K Mahmood Trưởng Phái đoàn Bangladesh
cùng ký kết Biên bản Đồng thuận vào ngày 1 tháng 4 năm 2008.
Tới
ngày 17 tháng 8 năm 2008 thì hai chiếc tàu hải quân Miến Điện hộ tống bốn chiếc
tàu khoan tiến vào khu vực tây nam đảo St. Martin của Bangladesh để bắt đầu kế
hoạch khảo sát dầu khí. Lập tức Bangladesh
điều ba tàu chiến tới khu vực và yêu cầu Miến Điện ngưng mọi hoạt động trong
vùng biển tranh chấp. Sau khi Miến Điện tuyên bố sẽ không lùi bước thì
Blagladesh quyết định tiến hành thủ tục pháp lý.
Ngày 8 tháng 10 năm 2009, Bangladesh tiến hành kiện
Miến Điện theo thủ tục Tòa Trọng tài được thành lập dưới Phụ lục VII của Công
Uớc Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 để xin phán quyết phân định biên giới lãnh
hải. Vào ngày 4 tháng 11 năm 2009, Miến Điện hồi đáp và tuyên bố sẽ chấp nhận
thẩm quyền của Tòa Án Quốc tế về Luật Biển. Tới ngày 4 tháng 12 năm 2004 thì
Bangladesh đồng ý với đề nghị của Miến Điện và chuyển hồ sơ qua Tòa án Quốc tế
về Luật Biển. Cùng lúc thì Bangladesh
cũng tiến hành đơn kiện tương tự với Ấn Độ theo thủ tục Tòa Trọng tài dưới Phụ
lục VII. Nhưng Tòa này làm việc có vẻ chậm hơn và cho tới bây giờ thì vẫn chưa
có phán quyết.
Vịnh Bengal |
Kết quả vụ
kiện
Vụ kiện giữa Bangladesh và Miến Điện diễn ra
trước 20 thẩm phán đã được bầu chọn của Tòa án Quốc tế về Luật Biển cùng với 2
thẩm phán được mỗi bên đề cử. Cả hai bên đều thuê mướn các đoàn luật sư thượng
thặng gồm có các vị giáo sư luật quốc tế của các trường đại học nổi tiếng từ
Anh quốc, Pháp quốc, Đức quốc và Hoa Kỳ. Phiên xử kéo dài 15 ngày từ ngày 8 tới
24 tháng 9 năm 2011 và được phát hình trực tiếp qua hệ thống internet
(webcast). Tòa ra phán quyết vào ngày 14 tháng 3 năm 2012. Nói chung, Tòa đã áp
dụng nguyên tắc đường thẳng chia đều (equidistant line) để phân định biên giới
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là phương thức thường
được sử dụng để phân định lãnh hải hai quốc gia lân cận có chung trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Phương pháp này có 3 giai đoạn. Thứ nhất, Tòa áp
dụng đường trung tuyến giữa hai biên giới. Thứ hai, Tòa xem xét các yếu tố liên
hệ ví dụ như chủ quyền truyền thống hoặc hoàn cảnh đặc biệt để quyết định có
cần điều chỉnh lại đường trung tuyến hay không. Sau cùng, Tòa xem lại đường
trung tuyến có tạo ra kết quả bất tương xứng với chiều dài bờ biển của hai bên
hay không. Trong trường hợp này, đường thẳng của Tòa bắt đầu từ biên giới hai
nước từ sông Naaf đi vòng qua đảo St Martin và
thẳng ra đại dương. Đường thẳng này nằm giữa hai đường đề nghị của Bangladesh và
Miến Điện. Có lẽ vì vậy mà cả hai bên đều tuyên bố thắng kiện.
Đảo St Martin
Tòa cũng có phán quyết quan trọng về đảo St Martin . Đảo St Martin thuộc chủ quyền Bangladesh , dài
khoảng 5 km và có diện tích khoảng 13,000 cây số vuông. Đảo này cách biên giới
phía nam Bangladesh khoảng 9 km và cách bờ biển Miến Điện ở phía tây khoảng 8
km. Đảo có dân số khoảng 7000 đa số làm nghề đánh cá nhưng có kỹ nghệ du lịch
thu hút hơn 300,000 du khách hàng năm. Bangladesh
lập luận rằng dựa vào những yếu tố này thì đảo St Martin
nên được hưởng đầy đủ quy chế lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều 121 của Công Ước Quốc Tế về Luật Biển quy định:
(1) "đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên
vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. (2) Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh
hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được
hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất
liền khác. (3) Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc
cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa."
Miến Điện cho rằng đảo St. Martin
có những nét đặc biệt, khác thường. Thứ nhất, nó nằm gần biên giới lãnh thổ của
cả Bangladesh
và Miến Điện và nằm ở bên kia đường trung tuyến gần với Miến Điện. Vì vậy, nếu
đáp ứng đòi hỏi của Miến Điện thì sẽ dẫn đến kết quả bất tương xứng.
Kết cuộc thì Tòa đã dung hòa và ban quy chế lãnh hải
12 hải lý cho Đảo St Martin nhưng không cho Đảo St. Martin hưởng vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa.
Thẩm phán Cao Chi Quốc (Trung Quốc) một thành viên của
Tòa đã ban hành phán quyết riêng bày tỏ sự bất đồng quan điểm với quyết định
của Tòa. Theo Thẩm phán Cao thì Tòa nên sử dụng phương pháp đường phân giác
(angle bisector) vì bờ biển Bangladesh
bị lõm (concavity). Ngoài ra, Thẩm phán Cao cũng đồng ý với Bangladesh là đảo
St Martin nên được hưởng đầy đủ quy chế lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa dựa trên kích thước, dân số thường trực và nền kinh tế đáng kể của
nó. Quan điểm này phù hợp với lập trường của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp
chủ quyền tại Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Một phần phán quyết quan trọng khác của Tòa đáng để
cho chúng ta chú ý là những lý luận về hiệp ước, thỏa thuận ngầm và hành xử
trói buộc vì những nguyên tắc pháp lý này liên quan tới Công hàm Phạm Văn Đồng
và những bằng chứng mà Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã chấp nhận chủ quyền của
họ tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Đảo |
Yếu tố cần
thiết của hiệp ước
Như đã trình bày, sau một vòng đàm phán vào năm 1974
thì hai phái đoàn đã đồng ký Biên bản Đồng thuận 1974 (1974 Agreed Minutes) có
nội dung chính như sau:
1. Phái đoàn Bangladesh và Miến Điện đã thảo luận về
biên giới lãnh hải giữa hai quốc gia tại Rango on từ 4-6 tháng 9 năm 1974 và
tại Dacca từ 20 tới 25 tháng 11 năm 1974 trong tinh thần hữu nghị và thân thiện.
2. Về biên giới lãnh hải giữa Bangladesh và Miến Điện, hai phái
đoàn đồng ý:
I. Ranh giới lãnh hải là đường thẳng từ Điểm số 1 từ
sông Naaf qua khỏi phía nam của đảo St. Martin chia đều bờ biển đảo St Martin
và Miến Điện.
Đường
ranh giới căn bản dựa trên nguyên tắc này đã được vẽ trong Biểu đồ 114 đính kèm
với Biên bản.
II. Biên giới sau cùng sẽ được định đoạt dựa trên
những chi tiết tọa độ mà hai bên cùng đo đạc (joint survey)
3. Phái đoàn Miến Điện cho biết thỏa thuận phận định
biên giới lãnh hải trong đoạn văn 2 nêu trên tùy thuộc vào sự bảo đảm là tàu
thuyền Miến Điện được hưởng quyền tự do hàng hải chung quanh đảo St Martin đến
và từ bộ phận sông Naaf của Miến Điện.
4. Phái đoàn Bangladesh bày tỏ sự chấp thuận của
chính quyền của họ về đoạn văn 2 nêu trên và ghi nhận yêu cầu của chính quyền
Miến Điện về việc bảo đảm tự do hàng hải cho tàu thuyền Miến Điện trong đoạn
văn 3 nêu trên.
5. Phái đoàn Bangladesh đã trao bản thảo Hiệp ước phân
định lãnh hải cho phái đoàn Miến Điện vào ngày 20 tháng 11 năm 1974 để lấy ý
kiến của chính quyền Miến Điện.
6.
Về vấn đề thứ hai liên quan tới vùng đặc quyên kinh tế và thềm lục địa, hai
phái đoàn thảo luận một số nguyên tắc và đồng ý sẽ tiếp tục thương thuyết với
mục đích là đi đến đồng thuận việc phân định mà hai bên đều chấp nhận được.
Ký tên Ký tên
Phó Đề đốc Chit Hlaing Đại sứ K.M. Kaiser
Trưởng
Phái đoàn Miến Điện Trưởng Phái đoàn Bangladesh
23/11/1974
23/11/1974
Sau một vòng đám phán khác trong năm 2008 thì hai phái
đoàn đồng ký vào Biên bản Đồng thuận 2008 (Agreed Minutes 2008) có nội dung
chính như sau:
1. Phái đoàn Bangladesh và Miến Điện đã thảo luận về
biên giới lãnh hải giữa hai quốc gia tại Dhaka từ 31 tháng tới 1 tháng 4 năm
2008 trong tinh thần hữu nghị và thân thiện.
2. Hai bên thảo luận và điều chỉnh một số từ ngữ trong
đoạn văn 3 của Biên bản Đồng thuận 1974.
3. Thay vì Biểu đồ 114 thì hai bên đồng ý áp dụng
những tọa độ dưới đây. Những điều khoản khác của Biên bản 1974 vẫn giữ nguyên
vẹn.
4. Bangladesh
đề nghị là trong việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì đảo St. Martin được ghi nhận tư cách pháp lý đầy đủ của đảo
theo Điều 121 của Công Ước Quốc tề về Luật Biển 1982.
5. Miến Điện đề nghị là trong việc phân định vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa thì áp dụng điểm giữa trên đường thẳng nối liền
đảo St Martin của Bangladesh và đảo Oyster của Miến Điện và đảo Oyster cũng
được ghi nhận tư cách pháp lý đầy đủ của đảo.
6.
Hai bên thảo luận một số nguyên tắc về việc phân định lãnh hải.
7.
Hai bên đồng ý tiếp tục thương lượng với mục đích đi đến đồng thuận về việc
phân định lãnh hải mà cả hai đều chấp nhận được.
Ký tên Ký tên
Phó
Đề đốc Maung Oo Lwin M.A.K Mahmood
Trưởng
Phái đoàn Miến Điện Trưởng Phái đoàn Bangladesh
1/4/2008
Hơn nữa, Bangladesh cho rằng khi ký vào Biên bản 1974
thì cả hai bên đều có ý định thực thi các điều khoản trong Biên bản và vì vậy
Biên bản là một thỏa thuận đơn giản nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của một hiệp ước
theo Điều 15 của Công ước Vienna về Luật Hiệp ước. Trong vụ kiện Biên giới Lãnh
thổ và Lãnh hải giữa Camaroon và Nigeria (2002), Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ)
đã phán rằng một văn bản thỏa thuận quốc tế phân định lãnh thổ và lãnh hải là
một hiệp ước theo đúng nghĩa của Công Ước Vienna 1969 về Luật Hiệp ước.
Miến Điện đã bác bỏ những lập luận này. Thứ nhất, Miến
Điện cho rằng Biên bản Đồng thuận 1974 cũng như 2008 chỉ là dữ kiện ghi chép
lại nội dung của phiên họp và những gì hai bên thảo luận. Miến Điện đã nhiều
lần nhấn mạnh là họ sẽ không ký hiệp ước cho tới khi nào hai bên đạt được đồng
thuận trên mọi khía cạnh tranh chấp bao gồm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Ngoài ra, Biên bản Đồng thuận chưa bao giờ được bên nào thông qua
theo đúng tiến trình hiến pháp của hai quốc gia ký kết.
Hơn nữa, cả Phó Đề đốc Chit Hlaing lẫn Phó Đề đốc
Maung Oo Lwin đều không có thẩm quyền đại diện quốc gia Miến Điện để ký hiệp
ước. Trường hợp này khác với vụ kiện Biên giới Lãnh thổ và Lãnh hải giữa
Camaroon và Nigeria (2002) khi hai nguyên thủ quốc gia là những người có thẩm
quyền ký hiệp ước ràng buộc quốc gia của họ theo đúng điều khoản của văn bản ký
kết. Biên bản Đồng thuận cũng không có đăng ký với Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.
Điều này cho thấy cả hai quốc gia Bangladesh và Miến Điện không có ý
định bị ràng buộc bởi các điều khoản trong Biên bản.
Phán quyết của Tòa là dựa trên Điều 15 của Công ước
Vienna, việc quan trọng không phải là hình thức mà là thực chất, bản chất và
nội dung của văn bản ký kết. Trong vụ kiện Phân định lãnh hải và Lãnh thổ giữa
Qatar và Bahrain (1994), Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng văn bản thỏa thuận
quốc tế có thể có nhiều hình thức và có gọi khác nhau và biên bản đồng thuận
được hai bên ký kết có thể được xem hoặc có giá trị pháp lý như một hiệp ước.
Tuy nhiên, trong trường hợp này thì Tòa phán rằng Biên bản Đồng thuận 1974
không hội đủ điều kiện của một hiệp ước vì Miến Điện đã cho biết rất rõ ràng là
họ sẽ không ký kết bất cứ hiệp ước nào cho tới khi hai bên đạt được đồng thuận
về mọi khía cạnh liên quan tới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Phân định lãnh hải là một việc nghiêm trọng và vì vậy hiệp ước phân định
lãnh hải không thể nào được suy diễn một cách hời hợt. Không chỉ có Trưởng Phái
đoàn Miến Điện mà chính Bangladesh
cũng không cung cấp bằng chứng chứng minh là Trưởng Phái đoàn của họ có thẩm
quyền ký kết hiệp ước.
Thỏa thuận ngầm
Ngoài ra, quan chức và ngư dân của hai quốc gia đã
sinh hoạt và đánh cá theo lãnh hải đã được đồng thuận. Bangladesh đã
nộp bằng chứng qua hình thức của các lời khai hữu thệ của quan chức và ngư dân
họ xác nhận là họ đã tuân thủ biên giới lãnh hải dựa trên Biên bản 1974. Các
tàu kiểm lâm và tuần duyên của Bangladesh
cũng triệt để tuân thủ biên giới lãnh hải như vậy.
Quan điểm của Miến Điện là không có thoả thuận ngầm
nào cả. Trong các cuộc đàm phán thì phái đoàn Miến Điện đã nhiều lần nhắc nhở
phái đoàn Bangladesh là tàu
thuyền của họ đã ra vào chung quanh đảo St Martin
từ nhiều năm. Việc yêu cầu tự do hàng hải chỉ là xác nhận lại quyền hạn mà Miến
Điện đã hành xử từ năm 1948.
Còn
về lời khai hữu thệ của quan chức và ngư dân Bangladesh
thì không có trọng lượng và tính khách quan vì chắc chắn là họ sẽ bênh vực cho Bangladesh .
Tòa
đã chấp nhận lý luận của Miến Điện và phán rằng muốn chứng minh được thỏa thuận
ngầm thì cần có bằng chứng rõ ràng và có nhiều sức thuyết phục (compelling
evidence). Lời khai hữu thệ của các viên chức và ngư dân không đáp ứng được
điều kiện này được.
Estoppel
Miến Điện phản bác rằng Bangladesh không đưa ra bằng chứng
cụ thể nào cho thấy là họ đã bị thiệt hại hoặc thiệt thòi vì dựa vào cung cách
hành xử của Miến Điện. Hơn nữa, cung cách hành xử của Miến Điện không hội đủ
các điều kiện rõ ràng, tuyệt đối và nhất quán cần thiết để chứng minh estoppel.
Tòa
phán là nguyên tắc estoppel sẽ được áp dụng khi một quốc gia A qua cung cách
hành xử đã tạo ấn tượng cho một quốc gia B về một hiện trạng mà họ phải bị
thiệt hại hoặc bị thiệt thòi vì đã thật lòng dựa vào cách hành xử đó. Hậu quả
là quốc gia A sẽ không được quyền phủ nhận hiện trạng đó. Nhưng trong trường
hợp này, Bangladesh không cung cấp đầy đủ bằng chứng cụ thể chứng minh là Miến
Điện đã có những cung cách hành xử rõ ràng, tuyệt đối và nhất quán xác nhận
rằng họ đã chấp nhận biên giới lãnh hải dựa trên Biên bản 1974. Hơn nữa, Bangladesh
cũng không trưng dẫn bằng chứng nào cho thấy là họ chịu thiệt thòi vì đã thực
tâm dựa vào cung cách hành xử đó.
Kết luận
Từ phán quyết của vụ kiện này thì chúng ta có thể rút
ra một vài kết luận như sau:
1. Hiệp ước không dựa vào hình thức mà tùy thuộc vào
thực chất và nội dung của văn bản ký kết. Điều quan trọng là quốc gia ký kết có
ý định chấp nhận giá trị pháp lý ràng buộc của văn bản đã ký hay không? Nhân
vật ký kết có thẩm quyển đại diện và ràng buộc quốc gia hay không? Hiệp ước
phân định lãnh thổ và lãnh hải là một sự việc nghiêm trọng không thể suy diễn
một cách dễ dàng hoặc hời hợt
2. Thỏa thuận ngầm đòi hỏi bằng chứng rõ ràng, có
trọng lượng và có tính khách quan. Bằng chứng của những người trong cuộc hoặc
đơn phương thường sẽ không hội đủ tiêu chuẩn.
3. Thuyết estoppel đòi hỏi đương đơn chứng minh là đối
phương đã có những cung cách hành xử rõ ràng, dài hạn và nhất quán (clear
representation) và đương đơn đã bị thiệt thòi (detriment) vì đã thật lòng (good
faith) dựa vào cung cách hành xử đó (reliance). Thuyết estoppel sẽ dễ thuyết
phục hơn nếu đối phương được hưởng nhiều quyền lợi vì cung cách hành xử của họ.
Nếu áp dụng những nguyên tắc pháp lý này với những
bằng chứng mà Trung Quốc đưa ra thì không có gì chứng minh là Việt Nam đã ký
một hiệp ước công nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
Trung Quốc có thể lập luận rằng đã có một sự thỏa
thuận ngầm nào đó giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Không rõ là Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm phát biểu trong
hoàn cảnh nào? Trong một phiên họp với các viên chức Trung Quốc cao cấp tại Bắc
kinh khi xin viện trợ? Lời phát biểu này có được thu âm không? Lời phát biểu có
được trích dẫn lạc hướng hay không? Ung Văn Khiêm có thẩm quyền đại diện cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhân nhượng chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải hay không?
Có lẽ lập luận mà Trung Quốc theo đuổi sẽ là estoppel.
Qua lời phát biểu của Ung Văn Khiêm 1956, Công Hàm Phạm Văn Đồng 1958 và sách
giáo khoa Địa lý xuất bản năm 1974 thì Trung Quốc có thể lý luận rằng Việt Nam
đã hành xử rõ ràng và nhất quán trong việc công nhận chủ quyền Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về Trung Quốc từ năm 1956. Cho tới năm 1988 thì Việt Nam mới
thay đổi lập trường sau hải chiến Trường Sa và nhất là khi Luật Biển ra đời vào
năm 2012 thì Việt Nam mới chính thức xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
Cho dù Trung Quốc có thành công về điềm này thì vẫn phải chứng minh được các
yếu tố còn lại (good faith, reliance và detriment).
Nhưng nếu có sự thay đổi chính thể tại Việt Nam thì có
thể Trung Quốc sẽ không có cơ sở dựa vào nguyên tắc estoppel trong một vụ kiện
tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa trước tòa án quốc tế.
N.V.T
(Tác giả gửi BVN)
---------------------
Trong trường hợp này mà VN không kiện TQ, thì mãi mãi sẽ không bao giờ có cơ hội nào nữa đâu VÀ COI NHƯ MÂT BIỂN VĨNH VIỄN !!!
Trả lờiXóaTòa án quốc tế tuyên bố:
Trả lờiXóa- Xét theo tiền lệ, nếu một quốc gia từ bỏ chủ quyền đối với một phần lãnh thổ, gọi là bán nước (một phần) phải công khai và có thu tiền từ quốc gia tiếp nhận một phần lãnh thổ đó. Ví dụ trường hợp Hoa Kỳ mua vùng đất Alaska vốn của Nga với giá 7,2 triệu USD ngày 30/3/1867.
Còn không thì vô giá trị - và đó là trường hợp đối với văn bản 1958 của TTg VNDCCH Phạm Văn Đồng. Vì CHNDTH không đưa ra được bằng chứng VMDCCH nhận bất cứ số tiền nào của CHNDTH từ việc bán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tòa cảnh cáo TQ và VN nếu có bất cứ âm mưu đưa hối lộ cho tòa (mà ở hai nước quý vị gọi là "văn hóa đưa phong bì; đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn" quái quỷ gì đó) hòng để tòa đưa ra phán quyết không công bằng. Tòa quốc tế luôn được hoạt động bởi những người công tâm, chứ không phải sâu bọ!
- Nếu CHNDTH không chấp hành phán quyết của tòa, sẽ đối diện với sự trừng phạt quốc tế!
Bãi tòa!
Sau chiến tranh thế giới II liên hiệp quốc đã bác việc giao đảo hoàng sa cho TQ theo đề nghị của Nga,liên hiệp quốc cũng không có ý kiến phản đối nào khi CH VN(chính phủ nam VN)tuyên bố chủ quyền Hoàng sa,trường sa.Về phán quyết quốc tế,như thế là rõ.
Trả lờiXóaCông thư của Phạm Văn Đồng không nói đến TS,HS vì TS,HS lúc ấy không thuộc quyền quản lý của bắc VN theo hiệp định Giơ ne vơ.
Chuyện sách giáo khoa thì cũng chỉ nói chuỗi đảo này bảo vệ TQ,không nói là nó thuộc TQ vì thực tế cùng ý thức hệ thì sách nọ kia nếu có nói VN cũng là vành đai bảo vệ TQ hay đông Âu là vành đai bảo vệ Nga hay ngược lại cũng không phải là không có lý.
Chuyện kiện VN vẫn nên kiện,chuyện tòa quyết thế nào chỉ là theo luật lệ quốc tế NHƯNG trước khi kiện phải có vận động để thế giới tỏ rõ câu chuyện về chủ quyền của VN ở TS,HS,nếu kiện mà thế giới chưa rõ thực ngay thì chưa phải là hay.
Vụ kiện ở vịnh Bengal chỉ thấy hai chính phủ làm việc với nhau, không thấy có đảng, nếu có thì cũng chỉ ẩn phía sau. Đây là vụ kiện thuần lý lẽ.
Trả lờiXóaVịnh Bắc bộ thì khác, ngoài hai chính phủ còn thấy rất rõ vai trò của hai ĐCS VN-TQ. Ra tòa quốc tế, họ không biết hai đảng này là tư cách gì nhưng nó sẽ làm khó kết luận của tòa - rách việc ở chỗ đó. Về lý, VN có thể thắng, nhưng vì ý thức hệ VN lại không muốn thắng, cũng không muốn thua. Tòa cũng bó tay với hai ông CS này. VN chưa muốn kiện chắc cũng có lý do đó. Với người CS, lẽ phải nhiều khi không phải là thước đo sai- đúng.
Nó đang chăm bẵm bú mớm cho sống
Trả lờiXóakhông có T+ chết từ lâu rồi....
KIỆN......hài vãi l...... dân đen, trí thức, lũ nguyên... đang bị lừa......
VN kiện chắc thắng vì chứng cứ TC đưa ra rất nghiệp dư. Còn tại sao CSVN không dám kiện vì đang "cân nhắc" - việc "cân nhắc" nói lên rất nhiều điều hắc ám!
Trả lờiXóaCòn chần chờ gì nữa mà không nộp đơn khởi kiện đi,hay chờ cho giặc chiếm xong hết rồi mới kiện ???
Trả lờiXóaCsvn kien Tq thi co ton tai de cai tri dan den Vn khong? khong the kien la vi the
Trả lờiXóaBM chống lưng dàn xếp để k vỡ ĐCS khi chúng mày đòi đốt củi NHÓM LÒ tại HNTW6 ...thử hỏi ngày nay 'đứa con hoang đàn' có còn được nãnh đạo đến nay k?
Trả lờiXóaBM ôm ấpcho bú mớm giúp đỡ viên trợ...từ thời BÁC HỒ TA ĐÓ CHÍNH LÀ BÁC MAO nên mới đánh thắng 2 đế quốc to cả T nữa là 3?
Theo đuôi T nhân làm tay sai sau1990 không theo học được cái hay mà toàn học cái mất dạy của T để hèn với giăc -T ,ác với dân- VN, người đã cưu mang khi con trứng nước và trực tiếp nuôi chúng mày phổng phao được như ngày nay ,bọn bay còn 'vắt tranh bỏ vỏ' giơ lại còn mặc cả kiện T thách cả lò ĐCS VN hết thế kỉ này nhé???
NGLUY