* NGUYỄN TRUNG
(tiếp theo – Phần 11)
…Giả định rằng ngay sau 30-04-1975, ĐCSVN
với tư cách là người chiến thắng (nói theo Huy Đức là “bên thắng cuộc”) chủ
trương hòa giải dân tộc, giương cao ngọn cờ dân chủ, và với ý thức “không gì
quý hơn độc lập tự do!”, nỗ lực dẫn dắt đất nước phấn đấu đổi đời cả dân tộc,
để trở thành một quốc gia của các giá trị mà ĐCSVN đã từng ghi trên lá cờ của
mình là “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”, đã từng nói lên thành
lời ý chí này trong Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, đã từng thể hiện ý chí này
thành pháp quyền trong Hiến pháp 1946… Ôi, giả thử xây dựng nên một Việt Nam
như thế và cùng đi như thế với cả thế giới!.. Ôi, nếu từ ngày ấy đi theo
con đường này, hôm nay nước ta sẽ là gì và đang đứng ở đâu! ĐCSVN hôm nay sẽ là
đảng gì, thế giới sẽ nhìn nhận Việt Nam ra sao!?..
Tôi không trả lời được những chữ “nếu” như
vậy.
Nhưng trong lòng tôi hôm nay vẫn dào dạt
tâm trạng biết ơn những tình cảm tốt đẹp nhất nhân loại tiến bộ hồi ấy đã từng
dành cho tinh thần yêu độc lập tự do của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mỹ:
“Việt Nam là lương tri của thời đại!”, “Việt Nam trong trái tim tôi!...”
Vâng, lịch sử không làm lại được. Nhưng
nếu ngày nay học được từ lịch sử!
Vâng, sau 30 Tháng Tư Bẩy Nhăm cái giá dân
tộc ta phải trả tiếp cho ý thức hệ và sự ngu dốt thật đắt quá, đau quá!
> Phần 1 ; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5; Phần 6; Phần 7; Phần 8 ; Phần 9 ; Phần 10
> Phần 1 ; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5; Phần 6; Phần 7; Phần 8 ; Phần 9 ; Phần 10
Xin thưa lại chuyện cũ. Trong lịch sử cận
đại, Việt Nam
khi đã hoàn toàn ổn định lại dưới thời Gia Long, đất nước đã từng bỏ lỡ cơ hội
để tìm một con đường như nước Nhật hồi ấy (thời Minh Trị) đã tìm được. Có nhiều
nguyên nhân, song nguyên nhân gốc có thể là thế giới quan hồi ấy của đất nước
là Khổng giáo và Nho giáo, thế giới đối với Việt Nam hồi ấy hầu như chỉ là
Trung Quốc. Nói nôm na: Với cái lõi nhân văn này và tầm nhìn này của triều
Nguyễn lúc thịnh, Việt nam không thể đi xa hơn, không thể với tới xa hơn, hệ
quả cuối cùng đối với số phận của đất nước như chúng ta đã biết. Có gì đau đớn
hơn cho một dân tộc khi bỏ lỡ cơ hội lịch sử?[74]
Làm sao chúng ta có thể chia sẻ với nhau
bây giờ và với mọi thế hệ mai sau: Đừng bao giờ để cho đất nước bỏ lỡ cơ hội
lịch sử!..
Thế nhưng… Vâng, thế nhưng…
…
(1)Hiện nay và trong tương lai, làm thế nào để phát huy sức
mạnh dân tộc?
(2) Làm thế nào để nước ta có thể dấn thân cùng đi với cả thế
giới?
Đấy vẫn là 2 câu hỏi lớn phía trước.
(1)Tư duy ý thức hệ, (2)sự giác ngộ chưa đúng tầm lợi ích quốc gia
và lợi ích dân tộc, (3)sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất lãnh đạo đất nước,
đấy vẫn là 3 rào cản chính đang tiếp tục cản trở lãnh đạo ĐCSVN đi đến những
câu trả lời đúng đắn phía trước phải có cho 2 câu hỏi sống còn nêu trên đối với
đất nước hôm nay.
Vâng, thế nhưng… Cái giá phải trả cho bước
ngoặt định mệnh
Chiến tranh biên giới tháng 02 - 1979 của Trung Quốc chống Việt
Nam lại đột nhiên rộ lên ác liệt tháng 04 – 1984, khi hàng nghìn lính Trung
Quốc ồ ạt tấn công chiếm địa danh Núi Đất (tại xã Thanh Thuỷ, huyện Yên Minh,
tỉnh Hà Tuyên, nay là tỉnh Hà Giang.[75]). Nhưng hồi ấy nội tình Trung Quốc vẫn
tiếp tục đầy rẫy khó khăn. Tháng 5 – 1989 xảy ra vụ đàn áp đẫm máu Thiên An Môn
là hệ quả tất yếu. Trong khi đó Trung Quốc vẫn tiếp tục bắn phá trên biên giới
nước ta; tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, tiếp
tục gây sức ép với ta trong đàm phán bình thường hóa quan hệ 2 nước và trong
giải quyết vấn đề Campuchia, cùng với Mỹ tiếp tục bao vây cô lập nước ta.
Trong khung cảnh như vậy, các nước LXĐA
sụp đổ (1989 -1991). Việt Nam
chấp nhận yêu sách của Trung Quốc, đến hội nghị Thành Đô (ngày 3 & 4 –
09/1990) để hoàn tất việc bình thường hóa hai nước và việc giải quyết vấn đề
Campuchia. Lãnh đạo Việt Nam
hồi ấy coi bước đi này là con đường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
đất nước. Bước đi này cột chặt nước ta vào Trung Quốc đến bây giờ chưa gỡ
ra được, với mọi hệ lụy tác động nghiêm trọng vào toàn bộ con đường phát triển
của đất nước và sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hôm nay[76].
Nhìn thực trạng quan hệ Việt – Trung mọi mặt hôm nay, nhìn vào
thực trạng đất nước từ sau 30-04-1975, chưa bao giờ nước ta bị suy yếu và bị
thách thức nghiêm trọng như hiện tại. Tôi nghĩ rằng thực trạng này bắt đầu từ
hội nghị Thành Đô. Tôi nghĩ, đây là sai lầm đối ngoại lớn nhất mang tính chiến
lược của lãnh đạo nước ta kể từ sau 30-04-1975. Rất mong bước đi này được mổ xẻ
cặn kẽ, để nhìn nhận hiện tại và tiên liệu tương lai cho đất nước[77].
Lại phải nói, lịch sử không làm lại được,
nhưng phải chăng cho phép đặt ra những câu hỏi:
Khi các nước LXĐA sụp đổ, có hay không cơ
hội cho Viêt Nam bứt ra khỏi mọi lệ thuộc vào bất kỳ ai, để thực sự là nước độc
lập tự chủ, đi với cả thế giới tiến bộ?
Phải chăng lợi ích quốc gia đã bị đẩy
xuống dưới, để ưu tiên bảo toàn chế độ chính trị với bất kỳ giá nào?
Bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ hữu nghị với Trung
Quốc là tối cần thiết. Song có thể đi với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ CNXH
giữa lúc quan hệ Việt – Trung có không biết bao nhiêu sự kiện nước ta bị phản
bội và rất đẫm máu?[78]
Đi với Trung Quốc như thế, hôm nay nước ta
mạnh lên hay yếu đi?
Phải chăng nhận thức thế giới và lợi ích của đất nước qua lăng
kính ý thức hệ, cùng với sự tha hóa phẩm chất cách mạng, đã tất yếu dẫn tới
bước đi định mệnh này?
Nói rốt ráo hơn nữa: Phải chăng đã là
ĐCSVN thì chỉ có thể lựa chọn như vậy trong tình huống các nước XHCN Đông Âu
sụp đổ? – Vì tư duy ý thức hệ không có chỗ cho sự lựa chọn khác, không muốn lựa
chọn khác?[79]
…Vận mệnh quốc gia đòi hỏi phải mất công sức tìm ra những câu trả
lời chuẩn xác.
Muốn xây dựng quan hệ láng giềng tốt và
bền vững không thể thiếu với Trung Quốc, càng phải rút kinh nghiêm những chặng
đường đã qua để có bản lĩnh thực hiện đúng đắn mục tiêu này.
Phải chăng có thể kết luận: Vì bất kể lý do gì – hoàn cảnh lịch sử
và tình hình phát triển thấp của đất nước, bối cảnh quốc tế bất khả kháng, sự
trói buộc của ý thức hệ, sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất trong nhận thức
thế giới và trong giác ngộ giác ngộ lợi ích quốc gia, sự tha hóa của đạo đức,
vân vân… - suốt 38 năm qua, tất cả những hệ lụy của những sai lầm và thất bại
trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại, tất cả những việc gì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đòi hỏi phải thực hiện nhưng chưa làm được, đất nước đều
phải trả giá.
*
Sau 38 năm kể từ khi giành lại độc lập
thống nhất, nói chuẩn xác hơn sau 28 năm đổi mới, Việt Nam đã hoàn thành giai
đoạn phát triển đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời
bình. Đây là thành tựu rất to lớn của đất nước.
Một sự thật khách quan là sau 30-04-1975
những công việc phải làm là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn của một nước chịu
nhiều hậu quả của chiến tranh (với nghĩa là 7 cuộc chiến tranh trong một cuộc
chiến tranh) tàn phá nặng nề và kéo dài, lại phải tiến hành trong những điều
kiện đối ngoại rất khó khăn phức tạp.
Về nhiều mặt, những nhiệm vụ phải hoàn
thành trong thời kỳ này nhìn chung đều vượt quá tầm với của bất kể đội ngũ lãnh
đạo nào đất nước hồi ấy có thể có được. Bởi vì đấy là những nhiệm vụ rất khó,
chưa có tiền lệ. Những sai lầm và thất bại nhất định đã vấp phải là điều không
thể tránh khỏi. Không thể có bất kỳ một đội ngũ lãnh đạo toàn năng nào, dù là
được thượng đế ban cho nước ta, cứ được đặt vào vị trí là có thể hoàn thành
được những nhiệm vụ phải làm ấy. Đây cũng là một thực tế khách quan.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là bản chất
của hệ thống chính trị, trước hết là đội ngũ nòng cốt của nó là ĐCSVN, thiếu
hẳn tố chất dân chủ và học hỏi trong thời bình, do đó rơi vào tình trạng:
Khi nhận thức ra sai lầm, đã tiến hành
được công cuộc đổi mới năm 1986, và đã xoay chuyển hẳn được tình thế trong phát
triển kinh tế, nhưng cũng chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà thôi, không thể đi tiếp
sang cải cách chính trị mà sự nghiệp phát triển của đất nước đòi hỏi.
Trong quá trình cầm quyền, vì thiếu tố chất của dân chủ và học
hỏi, lại không có một hệ thống chính trị dân chủ làm được các chức năng: cọ
sát, sàng lọc, thải loại, quyền phải được ràng buộc với trách nhiệm giải trình,
thực hiện công khai minh bạch.., nên hệ thống quyền lực của ĐCSVN tha hóa thành
hệ thống quyền lực cai trị - (nhóm Kiến nghị 72 gọi đấy là hệ thống quyền lực
của chế độ toàn trị). Trở thành một hệ thống chính trị như thế, trước hết là
ĐCSVN trở thành một đảng toàn trị, nắm trọn mọi quyền thế. Hệ quả dẫn tới: Sai
lầm xảy ra nối tiếp sai lầm, tha hóa ngày càng tha hóa, khiến cho đất nước vấp
phải những thất bại nặng nề, và hiện đang rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng[80].
Bản tổng kết 38 năm qua của ĐCSVN phải
chăng như sau:
So với mục tiêu chiến lược của ĐCSVN đã đề
ra trong các cương lĩnh và trong các nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng,
so với nhiệm vụ thực hiện dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc cho
đất nước và cho nhân dân mà ĐCSVN đã cam kết,
so với công sức và nguồn lực đất nước đã bỏ ra, so với các cơ hội to lớn đến với đất nước và so với mọi nguồn lực
bên ngoài đất nước ta đã tranh thủ được,
so với những thành quả lẽ ra đất nước phải giành được và triển
vọng phải có cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước,
so với hệ thống chính trị hiện hành có quá nhiều khuyết tật đang
để lại nhiều hệ quả trầm trọng cho đất nước và đang kìm hãm sự phát triển của
đất nước,
so với những cái giá đất nước phải trả về đối nội và đối ngoại
suốt 38 năm qua,
rồi so mức phát triển của nước ta với các nước có liên quan,
so một bên là tình trạng nguy hiểm hiện nay và những thách thức
lớn phía trước đang đặt ra cho đất nước và một bên là khả năng đối phó rất hạn
chế của đất nước.., vân vân…
so như thế, phải chăng có thể đi tới nhận xét:
Trong 38 năm hòa bình đầu tiên kể từ khi
đất nước độc lập thống nhất, ĐCSVN đã vấp phải nhiều thất bại rất nghiêm trọng;
đất nước phải trả giá và hiện nay đang lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện.
Bản thân ĐCSVN ngày nay tha hóa thành đảng cai trị, qua đó đã đánh
mất phẩm chất chiến đấu cách mạng của mình.
Nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện
và tuyệt đối, ĐCSVN 38 năm qua đã thiết lập nên một chế độ toàn trị, nguồn gốc
cơ bản của biết bao nhiêu quyết sách sai lầm và tệ nạn quan liêu tham nhũng mà
ngày nay đất nước đang phải gánh chịu mọi hậu quả[81].
Có phải như thế không?
Nếu đúng là như vậy, ĐCSVN hôm nay chỉ còn
lại là một lực lượng chính trị lớn nhất nắm vận mệnh đất nước; lợi ích cai trị
của nó và lợi ích đất nước thường không phải là một, và thậm chí có những xung
đột hoặc đối kháng nghiêm trọng. Rất nên trao đổi thẳng thắn trong nội bộ ĐCSVN
và với nhân dân, để làm rõ thực trạng nguy hiểm này và cùng nhau khắc phục,
thay đổi.
Có phải ĐCSVN bây giờ chỉ còn lại là một
lực lượng chính trị lớn nhất trong nước hay không?
Câu hỏi này quá nghiêm trọng, nhất thiết
các đảng viên ĐCSVN phải tìm ra câu trả lời.
Vì lợi ích của bản thân sự tồn tại ĐCSVN
đã đành, nhưng quan trọng hơn thế là vì lợi ích của hòa giải đoàn kết dân tộc
đòi hỏi nhất thiết không để xảy ra xung đột hoặc thậm chí đổ máu giữa một bên
là lực lượng chính trị lớn nhất này (ĐCSVN) và một bên là các lực lượng chính
trị khác trong nhân dân sớm muộn đến lúc nào đó sẽ xuất hiện.
Muốn tránh cho đất nước ta đến một lúc nào
đó sẽ có thể xảy ra cái gọi là “hậu chiến tranh Iraq”, hoặc những cái gọi là
“mùa xuân Ả-rập” đang diễn ra rất đẫm máu.., thì ngay từ bây giờ phải mổ xẻ
thực trạng này, để ĐCSVN phải tự thay đổi chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn
của nhân dân cho cuộc đổi đời này của Đảng. Ngay từ bây giờ nhân dân cả nước
cần thấy rõ triển vọng nguy hiểm này, chủ động đòi ĐCSVN phải thay đổi.
Có không ít ý kiến không phải là thiếu căn
cứ: “Để cho chế độ này sụp đổ đi, rồi làm lại từ đầu. Sự ngột ngạt hiện nay hết
chịu nổi, hà hơi tiếp sức góp ý xây dựng cho nó kéo dài làm gì!.. Hơn nữa quyền
lực ĐCSVN là không thể thay đổi được!”[82]
Thế nhưng…: Sau 4 cuộc chiến tranh liên
tiếp mà 3 thế hệ của đất nước phải gánh chịu, bây giờ Việt Nam có nên chấp nhận
một kịch bản như nêu trên không? đấy có phải là kịch bản tối ưu không? Cũng xin
đừng quên cảnh đục nước béo cò đã nhiều lần dầy vò nước ta suốt 7 thập kỷ vừa
qua, chắc gì không tái diễn?. Xin trí tuệ cả nước – kể cả trong ĐCSVN – hãy
tỉnh táo cân nhắc. Thậm chí: Đây có phải là kịch bản duy nhất như một định mệnh
của đất nước hay không?.. …
Trước sau, riêng tôi chỉ lựa chọn con
đường hòa giải dân tộc. Chỉ đi con đường này, còn nước còn tát.
Nếu như ĐCSVN vẫn còn tự coi mình là một
đảng cách mạng, cam kết chỉ có lý tưởng duy nhất là phục vụ đất nước, nếu ĐCSVN
không muốn phản bội truyền thống chiến đấu hy sinh vì nước của biết bao nhiêu
thế hệ đi trước của đảng mình và của dân tộc mình, thì ĐCSVN nên mổ xẻ thực
trạng hiện nay của mình để tự kết luận.
ĐCSVN hiện nay còn đủ thời giờ và các điều
kiện cần thiết cho một cuộc mổ xẻ như thế để tự thay đổi, và hoàn toàn có thể
thay đổi được. Trong lịch sử đã từng không dưới một lần ĐCSVN đặt lợi ích quốc
gia lên trên lợi ích của đảng một khi tình hình đòi phải làm như vậy. Trong hàng
ngũ đảng viên yêu nước hiện nay không thiếu trí tuệ và tâm huyết cho sự thay
đổi này. Khi còn sống, Võ Văn Kiệt là một trong nhưng tấm gương như thế dấn
thân cho thay đổi ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc[83].
Quả thực, sựa lựa chọn đặt ra cho ĐCSVN
hôm nay rất khắc nghiệt: Hoặc là bảo tồn mình như là một lực lượng chính trị
lớn nhất đang cai trị đất nước – và như thế, đến một lúc nào đó đối kháng giữa
cai trị và bị cai trị là điều khó tránh khỏi. Hoặc là phải thay đổi tất cả để
phấn đấu trở thành lực lượng lãnh đạo mạnh nhất trong nước – với tính cách là
một đảng của dân tộc!?
Song cũng phải nói lên một sự thật khác: Cho đến nay chưa có một
đảng cộng sản đã cầm quyền nào ở các nước XHCN LXĐÂ trước đây có khả năng thay
đổi đến lột xác như thế, các đảng này chỉ có chung một số phận là bị lịch sử
gạt bỏ thô bạo hay lặng lẽ.
ĐCSVN có bề dày mấy thế hệ kháng chiến cứu
nước, liệu có thể là một ngoại lệ được không? Liệu ĐCSVN có thể đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết để tự thay đổi mình được không? Có nên thay
đổi như thế không?..
Phải tìm đường trả lời những câu hỏi này. Vì đấy là con đường đỡ
xương máu và mồ hôi nước mắt cho đất nước, đồng thời tránh cho ĐCSVN cuối cùng
sẽ đi vào lịch sử với tính cách là kẻ đối kháng lại lợi ích dân tộc. Thực ra,
đây là sự thay đổi để trở lại cái bản chất gốc, bản chất ban đầu là chủ nghĩa
yêu nước của những người cộng sản Việt Nam đã từng làm nên Cách mạng Tháng Tám
và tinh thần tiên phong hy sinh chiến đấu suốt mấy thế hệ trong kháng chiến cứu
nước. Sự thay đổi này chính là sự giải phóng của bản thân những đảng viên ĐCSVN
hôm nay khỏi sự nô dịch của ý thức hệ ăn đong và vay mượn từ bên ngoài. Ý thức
hệ này đâu có phải là sản phẩm tinh thần của dân tộc mình và của văn minh nhân
loại[84]!
Nghe có vẻ kỳ quặc, sự thật là đã đến lúc
các đảng viên ĐCSVN hôm nay hơn bao giờ hết phải đấu tranh giải phóng chính
mình, để trở thành con người tự do! Nói cay nghiệt hơn: Đã đến lúc những đảng
viên ĐCSVN hôm nay cần vứt bỏ cái lý tưởng nhân danh ý thức hệ mà trên thực tế
nó hầu như chỉ còn là cái bình phong che đậy sự sa ngã của tha hóa và phi đạo
đức.
Nhiều cá nhân đảng viên yêu nước ở các
nước XHCN LXĐÂ cũ đã thực hiện được sự thay đổi như vậy. Nhiều đảng viên có
phẩm chất và năng lực sau này vẫn được nhân dân trao cho những trọng trách
trong chế độ dân chủ ở các quốc gia này. Vậy rất nên đưa vấn đề lựa chọn
sống còn này ra cho các đảng viên ĐCSVN thảo luận dân chủ, công khai và thẳng
thắn trong nội bộ để quyết định.
Chưa bao giờ ý chí độc lập - tự chủ, chưa
bao giờ tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” của đất nước bị xâm
phạm, bị sa sút như ngày nay. Sau 38 năm độc lập thống nhất, hiện nay đất
nước ta đang ở thời kỳ bên trong thì lòng dân vô cùng bức xúc; trong khi đó sự
uy hiếp và thách thức từ bên ngoài đối với đất nước vô cùng nguy hiểm. Cả nước
nhất thiết phải cùng nhau nhìn nhận lại tất cả . Phải cùng nhau nhìn nhận lại
tất cả! – xin được phép nhấn mạnh như vậy, vì đất nước này không phải là của
riêng ai, mà là của tất cả mỗi người Việt Nam chúng ta! …
(còn tiếp)
---------------
Chú thích:
[74] Tham khảo: YOSHIHARU TSUBOI Nước Đại Nam đối diện với Pháp
và Trung Hoa - Lịch sử Việt Nam www.lichsuvietnam.info/index.php?... Không phải ngẫu nhiên một số học giả đã đề ra ý tưởng
“thóat Á luận”, “thoát Trung Quốc luận” để giải thoát nước ta khỏi cái quán
tính đầy tai ác của lịch sử.
[75] (1)
Năm 2009, nhân dịp 20 năm ngày nổ ra chiến tranh 17-02-79, sách và báo Trung
Quốc có một số bài thừa nhận cuộc chiến 1984 của quân Trung Quốc chiếm vùng Núi
Đất của ta vấp phải sự kháng cự vượt sức tưởng tượng của họ, gọi đấy là một
trận “tiểu Stalingrad”, mỗi bên thương vong hàng nghìn binh sỹ.
(2) Trận chiến núi Đất năm 1984
giữa Việt Nam
và Trung Quốc
[76] Tham
khảo: Nguyễn Trung, “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô
1990” http://www.vietstudies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
[78] Xin lưu ý, khi bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam theo lập trường của phía Trung Quốc, phía Trung Quốc nhấn mạnh: Khép
lại quá khứ, hướng tới tương lai, là đồng chí (ý nói cùng là xã hội chủ nghĩa),
chứ không phải là đồng minh (ý nói không có chuyện đứng chung với nhau một
chiến tuyến trong bất kể việc gì). Như vậy đây là thứ quan hệ gì?
[79] Đối với ĐCSVN, tôi nghĩ câu hỏi này vô
cùng quan trọng tới mức sống còn (to be or not to be?!); bởi lẽ câu hỏi này đòi ĐCSVN phải xem lại
chính mình: Tổ quốc trên hết, hay ý thức hệ trên hết!
[80] Sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh Trung – Triều
1950 – 1953, chính thể Hàn Quốc dười thời Lý Thừa Vãn và Pác Chung Hy là một
chính thể độc tài, quân phiệt khét tiếng. Tuy nhiên, đặt trên nền móng dù chưa
hoàn hảo của kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền, sự phát triển của Hàn Quốc
dần dần dựa trên một nền móng hoàn hảo hơn của kinh tế thị
trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự, được
nuôi dưỡng bởi một nền giáo dục coi trọng phát huy các giá trị. Đấy là
những yếu tố cơ bản chuyển hóa Hàn Quốc thời hậu chiến thành nước công nghiệp
phát triển như ngày nay.
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_T2_Final.pdf
[82] Tổng thống Nga Yeltsin đã từng nói như vậy
và đã làm mọi việc xóa bỏ ĐCSLX qua tòa án hiến pháp.
[83] Nhìn lại, có thể có căn cứ xác đáng để
nhận định: Võ Văn Kiệt đã sớm có ý tưởng này giữa lúc ông là đương kim
thủ tướng. Trong bức thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị ĐCSVN ông nêu ra 4
vấn đề: (1)Phải nhìn nhận lại thế giới; (2)Phải xem lại đường lối phát triển
đất nước; (3)Phải xây dựng nhà nước pháp quyền; (4)Phải xây dựng lại ĐCSVN về
tổ chức và về đường lối, loại bỏ cái gọi là nguyên tắc tập trung dân chủ. Cho
đến khi đi xa..., ông vẫn kiên trì quan điểm phải xây dựng lại ĐCSVN trở thành
đảng của dân tộc.
[84] Tham khảo bài đã dẫn: Nguyễn Trung, “Diễn văn của Tổng thống
CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
-----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét