* NGUYỄN TRUNG
(tiếp theo - Phần 10)
Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Hệ thống chính trị của đất nước đã
sản sinh ra những cụm từ tiêu biểu cho bản chất và cấu trúc của nó. Đó là sự
xuất hiện của những hiện tượng xã hội mang những cái tên gọi như “văn hóa phong
bì”, “đấu tranh, tránh đâu”, “sống lâu lên lão làng”, “chính sách cơ cấu”, “tân
quan tân chính sách”, “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh”, “quan
hệ”, vân vân… Nội hàm của những cụm từ này phong phú đến mức ngôn ngữ gần như
bất lực trong việc chứa đựng chúng.., cũng có nghĩa là sự tha hóa đạt tới mức
vượt ra ngoài khả năng diễn đạt của ngôn ngữ[68].
Vô vàn sự việc xảy ra trong đời sống cho thấy “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế
GDP tỉnh” và “quan hệ” là 3 sát thủ chính đang hàng ngày tìm cách giết chết mọi
giá trị và hy vọng vốn là nguồn gốc làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Chính
sách ngu dân, sự bưng bít thông tin, cùng với sự tha hóa của đạo đức và lối
sống – con đẻ của quan liêu tham nhũng và bất công xã hội – đang
tàn phá nghiêm trọng đời sống tinh thần của đất nước. Tâm lý thờ ơ, vô cảm, mất
phương hướng, mất lòng tin, không cần quan tâm đến trách nhiệm và đến tương lai
(cái gọi là chủ nghĩa mackeno) đang lan rộng ở mức nguy hiểm trong xã hội. Việc
dư luận viên đã tới mức phải dùng đến cả sổ hưu làm công cụ biện hộ cho các lý
lẽ bảo toàn chế độ và sự vô cảm ẩn chứa nhiều tâm trạng trái ngược nhau của
người nghe cho thấy sự khốn quẫn trong trạng thái tinh thần của đất nước đã tới
mức hoàn hảo! Còn điều nào đau lòng hơn? …Giữa lúc đất nước cần xốc lên tinh
thần quật cường của cả dân tộc trong giai đoạn đầy sóng gió hiện nay của đất
nước...
Sự
giả dối và trấn áp nhân danh “giữ vững định hướng” của bộ máy tư tưởng và hệ
thống báo chí lề phải càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Đến mức khoảng một năm
nay, lần đầu tiên trong lịch sử đất nước xuất hiện trong ngôn ngữ chính thống
cụm từ “đội ngũ dư luận viên”!.. Nghĩa là để thực thi bạo lực trấn áp bây giờ
có thêm binh chủng “dư luận viên” bên cạnh những binh chủng sẵn có khác. Trong
lãnh đạo đã có người công khai nói lên niềm tự hào của mình về sự đông đảo của “đội
ngũ dư luận viên” này… (!) Người ta không thể không liên tưởng đến những cụm từ
“móc ngoặc”, “bọn móc ngoặc”, “con phe”… xuất hiện trong thời kỳ bao cấp và tem
phiếu cách đây ba thập kỷ. Chỉ có điều khác biệt là những cụm từ này là do nhân
dân hồi ấy tặng những người làm các việc không chính đáng này với hàm ý phê
phán; còn cụm từ “đội ngũ dư luận viên” lại là sản phẩm trí tuệ của ĐCSVN, nói
lên nội dung một việc làm đang được ĐCSVN thực thi và tôn vinh.
Trong
mọi sự tha hóa đất nước đang phải trải qua, có lẽ sự dối trá là nghiêm trọng
nhất, là cái đẻ ra mọi tha hóa khác, đang hủy hoại mọi giá trị của đời sống mà
tầm tay sự dối trá có thể với tới!
Thất
bại nào trong đối nội cũng là tổn thất rất to lớn đối với đất nước. Nhưng điều
làm tôi trăn trở nhất là những thất bại trong nền giáo dục của nước nhà. Tôi
thực sự lo lắng không biết nước ta rồi đây – khi ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy
hiểm này và thiết lập nên được một hệ thống chính trị mới - sẽ phải cần
bao nhiêu năm hay bao nhiêu thế hệ nữa, để có thể lấy lại được và xây dựng mới
những giá trị tạo dựng nên những thế hệ con người mới không thể thiếu cho một
nước Việt Nam phát triển, hiện đại, dấn thân và cùng đi được với cả thế giới!
Cần một chế độ chính trị như thế nào để có thể kiến tạo một nền giáo dục đất
nước phải có?!..[69]
VII
– 1.4. Thất bại lớn nhất của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nằm trong mặt trận đối
ngoại
Thời bình, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chủ yếu diễn ra trên mặt trận đối ngoại. Vì
lẽ này, tôi xin tập trung trình bẩy một số ý kiến của mình trên phương diện
này. Những vấn đề khác liên quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ biên giới trên bộ, và các vùng biển, đảo… xin được bàn vào một dịp
khác.
Cũng như các phần trên, tôi xin đặt sang một bên cho một dịp khác việc đánh giá
các thành tựu đạt được. Trong phần này xin tập trung tìm hiểu những việc chưa
làm được, những thiếu sót hoặc sai lầm.
Chuỗi
các sai lầm đầu tiên rất trầm trọng với nhiều hậu quả lâu dài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chứa trong lòng nó 7 cuộc chiến
tranh. Đó là:
- Cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược;
- Cuộc
chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc trực tiếp xảy ra trên
đất Việt Nam, nước ta tự nhận về mình nghĩa vụ là một tiền đồn của phe xã hội
chủ nghĩa;
- Cuộc
chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế giới giữa một bên là Liên Xô và liên
minh và một bên là Mỹ và liên minh trên đất Việt Nam (một hình thái thể hiện cụ
thể của “chiến tranh lạnh 1945 – 1991” diễn ra trên đất Việt Nam);
- Cuộc
chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trên đất Việt Nam - với mục tiêu giữ kẻ thù
Mỹ của Trung Quốc càng xa biên giới Trung Quốc càng tốt, với ý chí của Trung
Quốc tọa sơn quan hổ đấu và quyết tâm chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng..;
- Cuộc
chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế giới và trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế giữa Liên Xô và Trung Quốc;
- Cuộc
chiến tranh của phong trào độc lập dân tộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
trong đó Việt Nam là một ngọn cờ tiêu biểu; và
- Việc
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hồi ấy tiến hành âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam
đã dẫn tới chiến tranh Bắc – Nam 1954 – 1975, đấy là một cuộc nội chiến kéo dài
và đẫm máu.
Đấy là thực tế lịch sử khách quan đã xảy ra.
Việc
mổ xẻ các khía cạnh để phân tích 7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh
như vậy không thuộc phạm vi bài này. Tuy nhiên, điều tất yếu có thể rút ra tại
đây là: Khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, khách quan của sự vật đòi hỏi nước
ta phải giải quyết hậu quả và mọi hệ quả liên quan về sau của tất cả 7 cuộc
chiến tranh này.
Nhưng
khi kháng chiến kết thúc, chủ trương chính sách đối ngoại của nước ta hồi ấy
lại không nhận thức được hay không thừa nhận điều tất yếu này.
Sẽ phải tốn rất nhiều công sức mổ xẻ ngoại giao của nước ta thập kỷ đầu tiên
sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc.
Theo
nhận thức của tôi, xin được kết luận ngay như thế này: Vì bỏ qua điều tất yếu
nói trên, ngoại giao nước ta khi ra khỏi chiến tranh vừa say sưa chiến thắng,
vừa có nhiều bất cập và bị động nghiêm trọng; nhất là thiếu vắng hẳn truyền
thống ngoại giao Việt Nam của cha ông ngàn xưa: Đó là luôn luôn biết giữ thể
diện cho các kẻ thù sau khi ta đánh bại họ, chủ động bình thường hóa quan hệ
với họ… Vì mục đích “lên dây cót” cho dân, cho đến hôm nay lúc này lúc khác vẫn
ra rả làm bẽ mặt đối phương cũ, nhưng lại không rút ra những bài học cần rút
ra.
Đất
nước ta đã phải trả giá rất đắt cho thiếu vắng sự hiểu biết này sau kháng chiến
chống Mỹ!
Ra
khỏi kháng chiến (7 cuộc chiến tranh), lại trong bối cảnh phe xã hội chủ nghĩa[70] không
còn là một hệ thống thế giới thống nhất (Trung Quốc và Mỹ đi với nhau từ 1972),
ngay lập tức nước ta phải đối phó với những
kẻ ta đã đánh bại nhưng không chịu buông tha nước ta: Trung Quốc, Mỹ;
thân
phận nước ta không thể tránh được là nước “bên thứ ba” trong cuộc tranh chấp
không dứt giữa các cường quốc, giữa cộng sản và chống cộng
sản, nhất là trên địa bàn ĐNÁ thời đó - trong đó đặc biệt là 3 nước Đông Dương
- là một điểm nóng; những
nhiệm vụ vô cùng nan giải nhằm khắc phục những hậu quả sâu sắc của sự tương tàn
Bắc – Nam và phục hồi đất nước sau những thập kỷ chiến tranh tàn khốc.
Song
sự lựa chọn của lãnh đạo lại là thừa thắng xông lên, tiến thẳng lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội: “tiến lên chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại”,
“sự lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam”, “độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” ??? Vân vân…[71]?
Lịch
sử không làm lại được, nhưng có lẽ lịch sử có thể giúp ta suy luận: Để giải
quyết 3 thách thức (a, b, c) nói trên sau khi ra khỏi chiến tranh, Việt Nam lẽ
ra phải vận dụng những kinh nghiệm sống còn đã làm nên thắng lợi của kháng
chiến chống Mỹ; đó là (1)phát huy sức mạnh dân tộc, và (2)tranh thủ sự hậu thuẫn
của cả thế giới tiến bộ.
Song
làm sao phát huy sức mạnh dân tộc, nếu không thực hiện được hòa giải dân tộc
ngay sau khi chiến tranh kết thúc?
Sự
thật là ngay sau 30 Tháng Tư, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN là
người duy nhất có cơ hội và có đủ quyền lực trong tay thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ khó khăn và vô cùng nhạy cảm này: Hòa giải dân tộc.
Nhưng
tư duy ý thức hệ dứt khoát không chịu nhìn nhận trong 7 cuộc chiến tranh của
kháng chiến chống Mỹ mà đất nước lâm vào có cuộc nội chiến. Cho đến ngày hôm
nay vẫn vậy.
Do
đó đã không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc. Hệ quả là (1) vết thương nội chiến
cho đến hôm nay vẫn bị bỏ qua không được hàn gắn, chẳng những thế mà còn để xảy
thêm những chết chóc, tổn thất mới đau lòng (các vấn đề “nạn kiều”, “thuyền nhân”,
cải tạo tư sản…) và bao nhiêu tổn thất khác; (2) nội hàm đích thực của phát huy
sức mạnh dân tộc là áp đặt duy ý chí tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Thực
trạng đã xảy ra sau 30-04-1975 là: Trong khi vết thương nội chiến cũ còn nguyên
vẹn, đất nước phải chịu đựng thêm những thất bại nghiêm trọng về mọi mặt kinh
tế, chính trị, xã hội, đối ngoại… của duy ý chí “độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Do đó cho đến hôm nay, vẫn không thể phát huy sức mạnh
dân tộc với đúng nghĩa, đất nước bị làm yếu đi nghiêm trọng giữa lúc phải đối
phó với không biết bao nhiêu thách thức ngổn ngang.
Nói
ra hay không nói ra, không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc một cách thực tâm,
trên thực tế và trong thâm tâm có nghĩa ĐCSVN tiếp tục coi phía bên kia chiến
tuyến cũ vẫn là thù địch. Càng để lâu, vết thương dân tộc này càng khó khắc
phục. Ngày nay, trong tình trạng tha hóa trầm trọng của chế độ chính trị, vết
thương này tự nó sâu sắc thêm, hoặc tâm lý hận thù cũ đang cố ý làm cho vết
thương này sâu sắc thêm!.. Tất nhiên, chỉ có đất nước phải gánh chịu mọi
hậu quả mới tiếp theo. Điều vô cùng phi lý: Tại sao ĐCSVN đã thực hiện khép lại
quá khứ với Mỹ, mà lại không khép lại quá khứ với một nửa khác của chính mình
bên kia chiến tuyến thời chiến tranh?
Song
quan trọng hơn thế, chừng nào ĐCSVN hôm nay chưa thực tâm khắc phục vết thương
dân tộc này, chừng nào còn xem nhẹ vấn đề hòa giải dân tộc mãi mãi, thực tế này
phải chăng chỉ càng cho thấy: ĐCSVN của hôm nay không muốn giương cao ngọn cờ
dân tộc và dân chủ chấn hưng đất nước, đơn giản vì ĐCSVN hôm nay không có bản
chất này và do đó cũng không có năng lực làm việc này. Đơn giản là ĐCSVN hôm
nay không coi đó là mục tiêu cách mạng của mình. Có phải như vậy không? Nếu
đúng như thế thì nguy hiểm quá. Từng đảng viên trong ĐCSVN phải xem lại sự biến
chất này so với khi ĐCSVN làm Cách mạng Tháng Tám và tiến hành các cuộc kháng
chiến.
Kháng
chiến chống Mỹ thắng lợi, ngoài sức mạnh kiên cường của dân tộc, còn có nguyên
nhân quan trọng không thể thiếu: Sự ủng hộ của toàn thể loài người tiến bộ.
Nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ anh em của các nước xã hội chủ nghĩa hồi
ấy; nhân dân ta còn được các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý khắp thế
giới và ngay cả trên nước Mỹ cổ vũ, hậu thuẫn, được phong trào phản chiến của
những lực lượng này tiếp sức.
Xin
nói ngay, sự cổ vũ, hậu thuẫn của phong trào phản chiến nói trên là dành cho
những giá trị của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam mà những lực
lượng tiến bộ này của thế giới chia sẻ. Xin đừng ngộ nhận đấy là sự ủng hộ Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – mặc dù những lực lượng tiến bộ
này của thế giới biết rất rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam do ĐCSVN lãnh
đạo. Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh này còn có nguyên nhân là thế giới tiến
bộ không chấp nhận một siêu cường đem vũ lực của mình bóp chết ý chí của một
dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do – đó là Việt Nam.
Có
thể kết luận: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứng minh hùng hồn: Để bảo vệ
mình, Việt Nam phải đi với cả thế giới, phải đứng trong hàng ngũ tiến bộ của
nhân dân thế giới. Cuộc kháng chiến này còn là sự đóng góp trực tiếp của Việt
Nam vào hòa bình và các giá trị tiến bộ của thế giới, đó cũng là sự dấn
thân trực tiếp của Việt Nam trong trào lưu tiến bộ của nhân loại. Thực tế này đã
góp phần trực tiếp làm nên sức mạnh bất khả kháng của Việt Nam.
Trong
thời bình bảo vệ tổ quốc lại càng phải làm như vậy. Nhưng trong thời bình,
ĐCSVN đã không làm như vậy.
Nhìn
lại thời hậu chiến, nước ta làm không tốt (1) nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn
dân tộc và (2) nhiệm vụ phát huy sức mạnh cùng đi với cả thế giới tiến bộ ngang
tầm với những thách thức và cơ hội đặt ra. Vì 2 khuyết điểm này, nên đã vấp
phải nhiều thất bại nghiêm trọng về đối nội cũng như đối ngoại. Đất nước bị suy
yếu và uy hiếp nhiều mặt.
Những
sai lầm này đã được Khmer đỏ khai thác triệt để cho cuộc chiến tranh chống Việt
Nam. Những sai lầm này tạo thêm thuận lợi cho Trung Quốc xâm lược biên giới
phía Bắc Việt Nam tháng 2 – 1979, vào hùa với Mỹ cô lập và bao vây cấm vận
chống Việt Nam cả một thập kỷ sau chiến tranh. Những sai lầm nay làm cho quá
trình hội nhập quốc tế sau đó của nước ta diễn ra cực kỳ chật vật, quanh co,
nhiều cơ hội quan trọng bị bỏ lỡ[72].
Đấy
là những sai lầm rất nghiêm trọng trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước ở thời kỳ này,
để lại nhiều hệ lụy cho hôm nay.
Có
không ít ý kiến biện hộ: …Những sai lầm như thế vấp phải trong thời hậu chiến
là tất yếu, là bất khả kháng trong bối cảnh quốc tế và khu vực lúc đó…
Không thể vỗ cánh bay qua bối cảnh lịch sử và đốt cháy giai đoạn trong tư duy…
Những
lập luận như thế không hoàn toàn vô lý, thậm chí có nhiều khía cạnh xác đáng.
Lịch sử cũng không thể làm lại được. Nhưng nếu muốn lịch sử là người thầy cho
hiện tại và cho tương lai, nhất thiết cần mổ xẻ tới căn nguyên mọi sự việc đã
xảy ra.
Riêng
tôi xin thưa: Suy cho cùng, điều đau lòng vẫn là tầm trí tuệ hạn hẹp và sự nhìn
nhận thiên lệch của tư duy ý thức hệ của lãnh đạo hồi ấy về thế giới bên ngoài
cũng như về lợi ích quốc gia, khiến cho đất nước rơi ngay vào chặng đường đau
khổ mới, ngay sau khi vừa ra khỏi chiến tranh. Có phải sự thật là như vậy
không?
ĐCSVN nói riêng và là người Việt Nam nói chung có lẽ nên suy ngẫm về
quãng đường lịch sử không ít máu và nước mắt này. Tôi không dám cho mình cái
quyền giữ chân lý về mình, nhưng tôi thực sự nghĩ như thế, đinh ninh như thế.
Xin được chia sẻ để cùng tham khảo. Vì không nói ra cũng sẽ là có tội với đất
nước. Còn chuyện đúng / sai, để cho sự thật phân giải, để cho mọi người sẽ phân
giải.
Hơn
nữa, nhìn rõ thế giới, hiểu đúng lợi ích quốc gia của ta – điều này luôn luôn
là vấn đề nóng bỏng và có ý nghĩa mất / còn đối với hiện tại và của tương lai
của đất nước.
Có
thể kết luận: Sau kháng chiến, không phát huy được sức mạnh dân tộc, không cùng
đi được với thế giới như vậy, thế là sai lầm. Đất nước yếu đi nghiêm trọng cả
về thế và lực, nên đã phải trả giá đắt.
Đã 38 năm trôi qua. Nhưng hôm nay nhìn lại, trong lòng tôi canh cánh nỗi niềm:
Phải chăng một cơ hội lịch sử của dân tộc ngàn năm mới có một lần đã bị bỏ lỡ?
– ngàn năm với cả nghĩa đen của cụm từ này –[73]. (còn
tiếp)
-------------
+ Chú thich:
[68] Ví dụ: Có những affairs các nhóm lợi ích
mặc cả với nhau: Giải
quyết việc này sẽ hết bao nhiêu “quan hệ”? Khái niệm “quan hệ” này chứa đựng những
gì? Khối lượng tiền?, “sổ đỏ”, “dự án”, “cơ chế”, cái bằng? cái ghế?, “cặp chân dài”, trao đổi giữa “tội” với “tội”,
trao đổi giữa “tội” và “cơ hội”… vân vân và vân vân… Chỉ có chúa trời mới biết
được đích xác!
[69] Có một sự thật đang bị trối bỏ: Gần 3 thập
kỷ nay công cuộc cải cách giáo dục của nước nhà hoàn toàn thất bại, cho đến nay
đất nước ta chỉ có một nền giáo dục đào tạo ra con người công cụ, không phải là con người của chính nó và sáng tạo. Một nền giáo dục như thế trên thực tế
đang góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại các giá trị chân chính và đạo đức xã
hội. Qua những con người trong các bộ máy của hệ thống chính trị do nền giáo
dục này (bao gồm cả hệ thống trường Đảng) đào tạo nên, đất nước
đang bị làm hỏng và biến dạng nghiêm trọng về mọi mặt. Nền giáo dục hiện
tại đang trực tiếp làm hỏng các thế hệ con người của đất nước, vì trong bản
thân nó ngấm ngầm tồn tại quá nhiều cái sai trái, cái lạc hậu… Những nỗ
lực bỏ ra cho cải cách giáo dục là rất lớn và rất tốn kém, nhưng cho đến nay
đều không mang lại kết quả mong muốn. Nguyên nhân chính là những nỗ lực này không
thắng nổi 2 kẻ tử thù của giáo dục là tham nhũng và dối trá. Đó lại chính là 2
kẻ thù có chỗ ẩn náu rất sâu trong hệ thống chính trị của đất nước, được nuôi
dưỡng bằng mọi giá trị và văn hóa của chính hệ thống chính trị này sản sinh ra.
Đã đến lúc cần rút ra kết luận: Cải cách giáo dục chỉ có thể thành công khi
đồng thời cả nước tiến hành cuộc cải cách chính trị sâu sắc. Lịch sử ngàn năm
của nước ta các thời đã chứng minh: Không thể nào có một nền giáo dục chân
chính trong một chế độ xã hội bất lương (tham khảo: Hoàng Lê Nhất Thống Chí).
[71] Tham khảo các văn kiện của ĐCSVN sau chiến
thắng 30-04-1975, các văn kiện các Đại hội toàn quốc ĐCSVN từ đại hội IV.
[72] Xin đừng quên: Sau 30-04-1975, cơ hội bình
thường hóa quan hệ với Mỹ và với các nước ASEAN đến sớm hơn rất nhiều so
với việc bình thường hóa đã diễn ra. Đã gần 4 thập kỷ đã trôi qua, thiết
nghĩ lưu trữ quốc gia Việt Nam
nên sớm bạch hóa chuyện này.
---------------
Lịch sử ngoại giao Việt Nam là một chuỗi dài thất bại vì tai tiengs là tiền đôan của phe Cộng sản,Sau tuyên bố 2/9/45 Ô. Hồ liên tục gửi thu cho các vị nguyên thủ các nước đông minh Tàu Tương, Nga xô,Anh và Mỹ đề nghị công nhận nên độc lập nhưng không được đấp ứng,xin làm nước tự do trong khối liên hiệp Pháp cũng không thành, thất bại tại hội nghị Giơ ne vơ chia cắt VN, Thât bại trong hội nghị Pari công nhận VN có hai miền ba phái,và hội nghi Thành Đô cho đến nay.Việt Nam luôn luôn tự biến quyền lực mềm của mình thành quyền lực nhũn để sang sông thì phải lụy đò
Trả lờiXóaTôi có người cậu họ là Trung Úy phi công lái trực thăng (máy bay lên thẳng theo kiểu nói của người cộng sản) qua Mỹ năm 1975. Vài năm trước, cậu có ghé về VN và ra Phát Diệm, Ninh Bình tìm mộ ông nội của cậu tôi. Trong bữa cơm gia đình với vài người từng đi bộ đội, họ luôn khoe rằng họ đã đánh thắng giặc Mỹ và đuổi cổ bọn xâm lược Mỹ ra khỏi M. Nam. Cậu tôi nói người Mỹ đã rời M. Nam từ năm 1973 và quân đội M. Nam đã bị Chinh phủ Mỹ dần dần cắt đứt viện trợ. Gần 2 năm sau, Miền Bắc mới chiếm được M. Nam. Nếu chính phủ Mỹ cung cấp đầy đủ súng đạn, mấy anh muốn đánh và chiếm được M. Nam không phải dễ. Cậu tôi nói M. Nam phải chấp nhận thua vì súng ống đạn dược đang bị CP Mỹ cắt. Họ chiến đấu trong súng đạn thiếu thốn, còn M. Bắc được cung cấp dồi dào vũ khí của khối CS. Những người cựu chiến binh M. Bắc bắt đầu ca hát những bài hát với nội dung đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh tan bè lũ bán nước. Và họ đã có những lời nói khiếm nhã đầy khiêu khích với cậu tôi.....Sau bữa tiệc, cậu tôi chào người nhà và nhờ người cháu thuê xe ra Hà Nội. Cậu tôi mua vé máy bay về Sài Gòn ngay chiều hôm đó. Theo sự suy nghĩ của tôi, chính quyền M. Bắc đã dạy cho người dân một lòng căm thù đầy mù quáng. Họ đã dạy cho người dân chừi tất cả lãnh tụ M. Nam đều là "thằng", là "con". Trong khi M. Nam nhân bản hơn khi họ không dạy người dân kêu lãnh tụ ngoài Bắc bằng thằng này, con kia. Chuyện hòa hợp, hòa giải làm sao có được khi ho vẫn rêu rao "đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào" dù đã hơn 38 năm trôi qua. Với những Việt Kiều bỏ nước ra đi, họ đã bị gắn cho mác là du đãng, đĩ điếm, loại phản động của chế độ. Giờ đây, họ lại được CSVN gắn cho mác "Khúc Ruột Ngàn Dặm" mà người VN ở nước ngoài không bao giờ mong muốn.
Trả lờiXóa