(tiếp theo - Phần 2)
... Một di sản của "nhận
thức đúng đắn" nguyên thuỷ ấy là nét khác thường thứ ba, cái đã khiến cho
hệ thống của chúng ta khác với các nền độc tài hiện đại khác: nó điều hành một
ý thức hệ cực kì linh hoạt, được kiến tạo một cách lo-gic, chính xác hơn, và
nhìn chung là dễ hiểu, mà trong sự toàn vẹn và chi tiết của nó, thì gần như một
tôn giáo được thế tục hóa. Nó cung cấp lời giải đáp có sẵn cho mọi câu hỏi -
bất kể là gì; nó hầu như không thể được chấp nhận từng phần, và việc chấp nhận
nó có những hệ quả vô cùng nghiêm trọng với đời sống con người.
Trong một kỉ
nguyên mà sự chắc chắn siêu hình và hiện sinh đang trong trạng thái khủng
hoảng, khi con người bị quật gốc và tha hóa, đang mất dần cảm nhận về thế giới
này có nghĩa gì, không thể khác được là ý thức hệ này có sự hẫp dẫn an thần
nhất định. Với loài người đang lưu lạc, nó hứa hẹn ngay lập tức có một mái ấm
đủ đầy: tất cả những gì người ta cần làm là chấp nhận nó, và đột nhiên mọi thứ
một lần nữa trở nên rõ ràng, cuộc sống đón nhận ý nghĩa mới, và mọi điều bí
hiểm, mọi câu hỏi không lời đáp, sự phân vân và cô đơn biến mất.
Tất
nhiên, con người cũng phải trả giá đắt cho căn nhà thuê giá rẻ này: cái giá là
việc anh ta phải từ bỏ các suy nghĩ duy lý, nhận thức, và trách nhiệm, vì một
đặc điểm thiết yếu của ý thức hệ này là sự
phó thác suy lý và nhận thức cho quyền lực cao hơn. Nguyên tắc ở đây là
trung tâm của quyền lực đồng nghĩa với trung tâm của chân lý. (Trong trường hợp
của chúng ta, mối quan hệ với chính trị thần quyền kiểu La Mã phương Đông là
trực tiếp: quyền lực trần tục cao nhất trùng với quyền lực tinh thần cao nhất).
Nhưng hiển nhiên là, bên cạnh tất cả những điều này, ý thức hệ không còn có ảnh
hưởng to lớn nào lên con người, ít nhất là trong khối chúng ta (có thể với một
ngoại lệ là nước Nga, nơi mà tinh thần nô lệ, với sự mù quáng của nó, sự sùng
bái chết người đối với những người thống trị và sự chấp nhận ngay lập tức mọi
tuyên bố của họ, vẫn còn áp đảo, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước siêu cường -
vốn có truyền thống đặt lợi ích của đế chế cao hơn các lợi ích của con người).
Nhưng điều này cũng không quan trọng, bởi vì ý thức hệ đóng vai diễn của nó
trong hệ thống chúng ta một cách tuyệt hảo (một chủ đề mà tôi sẽ trở lại),
chính vì nó là chính nó.
Bốn là, kỹ
thuật thực thi quyền lực trong các nền độc tài cổ điển bao gồm một yếu tố cần
thiết là sự ứng biến. Các cơ chế dùng quyền lực phần lớn không được thiết lập
chặt chẽ, và có khoảng không đáng kể dành cho sự thực thi quyền lực một cách
ngẫu nhiên, tùy tiện và không bị giới hạn. Về mặt xã hội, tâm lý và vật chất, những
điều kiện cho sự thể hiện một dạng đối lập nào đó vẫn tồn tại. Một cách ngắn
gọn, có nhiều vết nối trên bề mặt có thể tách ra trước khi toàn bộ hệ thống đã
tìm được cách ổn định hóa. Trái lại, hệ thống của chúng ta được phát triển
trong hơn sáu mươi năm ở Liên bang Xô Viết, và trong khoảng ba mươi năm ở Đông
Âu; hơn nữa, nhiều trong số các đặc điểm cấu trúc cổ nhất của nó đã bắt nguồn
từ chế độ chuyên chế Nga hoàng.
Trên khía cạnh vật chất của quyền lực, điều này đã dẫn
tới việc hình thành các cơ chế được xây dựng khéo léo và tinh tế để phục vụ cho
nhiệm vụ giật dây toàn bộ công chúng một cách trực tiếp và gián tiếp, mà với tư
cách là nền tảng quyền lực vật chất, nó đại diện cho một cái gì đó rất mới.
Cùng lúc đó, không nên quên rằng hệ thống này lại được nâng cao hiệu quả một
cách đáng kể bằng sở hữu nhà nước và điều khiển từ trung ương mọi tư liệu sản
xuất. Điều này tạo cho cấu trúc quyền lực một tiềm lực chưa từng có và không
thể kiểm soát nổi để đầu tư cho chính nó (ví như trong các lĩnh vực hành chính
quan liêu và cảnh sát) và tạo thuận lợi cho cấu trúc này, trong vai người tuyển
dụng duy nhất, điều khiển sự tồn tại hàng ngày của mọi công dân.
Cuối cùng, nếu như một bầu không khí ngập tràn nhiệt
tình cách mạng, chủ nghĩa anh hùng và bạo lực thẳng tay trong mọi mặt đã từng
là biểu trưng cho chế độ độc tài cổ điển, thì các vết tích cuối cùng của một
bầu không khí như thế đã biến mất khỏi khối Xô viết. Từ lâu, khối này không còn
là một ốc đảo bị cô lập khỏi thế giới phát triển và miễn nhiễm với mọi tiến
trình diễn ra trong đó. Ngược lại, khối Xô viết đã là một phần hữu cơ của một
thế giới rộng lớn hơn, chia sẻ và định hình số phận của thế giới. Cụ thể hơn,
điều này có nghĩa là trật tự của các giá trị tồn tại trong các nước phát triển
phương Tây, theo một nghĩa nào đó, đã xuất hiện trong xã hội chúng ta (thời
gian dài cùng tồn tại với phương Tây chỉ thúc đẩy nhanh tiến trình này mà
thôi). Nói cách khác, cái mà chúng ta đang có đây chỉ là một dạng khác của xã
hội tiêu thụ và công nghiệp, với tất cả những hậu quả tâm lý, tri thức và xã
hội kèm theo. Sẽ không thể hiểu nổi bản chất của quyền lực trong hệ thống của
chúng ta mà không tính đến điều này.
Sự khác biệt cơ bản giữa hệ thống của chúng ta - trên
phương diện bản chất của quyền lực - với cái chúng ta vẫn thường hiểu là nền
độc tài, sự khác biệt mà tôi hi vọng là đã rất rõ ràng dù chỉ từ các so sánh
phiến diện vừa qua, đã khiến tôi phải tìm thuật ngữ thích hợp cho hệ thống của
chúng ta, hoàn toàn chỉ để phục vụ cho tiểu luận này. Nếu sau đây tôi gọi nó là
hệ thống hậu-toàn trị, thì tôi hoàn toàn hiểu rằng đây có thể không phải là
thuật ngữ chuẩn xác nhất, nhưng tôi không thể tìm ra một từ nào khả dĩ hơn. Tôi
không định ám chỉ tiền tố hậu (post-) có nghĩa rằng hệ thống không còn là toàn
trị nữa. Ngược lại, tôi muốn nói rằng nó là toàn trị theo cách hoàn toàn khác
với nền độc tài cổ điển, khác với chủ nghĩa toàn trị mà chúng ta vẫn thường
hiểu.
Tuy
nhiên, những bối cảnh mà tôi vừa đề cập chỉ tạo ra một tập hợp các yếu tố mang
tính điều kiện, và một khung hiện tượng cho kết cấu quyền lực thực tế của hệ
thống hậu toàn trị, mà bây giờ tôi sẽ cố gắng nhận diện một số mặt.
III.
III.
Người quản lý một cửa hàng rau quả đặt trong cửa sổ,
bên cạnh những lô hành và cà-rốt, khẩu hiệu: "Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!". Anh ta đang gắng
truyền đạt gì với thế giới vậy? Có đúng là anh ta thực lòng hào hứng với ý
tưởng đoàn kết giữa những người vô sản trên thế giới? Có thực lòng nhiệt thành
của anh ta lớn đến mức anh ta cảm thấy không cưỡng được nhu cầu khiến công
chúng phải làm quen với lý tưởng ấy? Liệu anh ta đã thực sự dành một giây phút
nào nghĩ về sự đoàn kết ấy có thể diễn ra như thế nào hay liệu nó có ý nghĩa gì
không?
Tôi nghĩ, ta có thể yên tâm mà giả định rằng tuyệt đại
bộ phận người quản lí cửa hàng không bao giờ nghĩ về khẩu hiệu họ đặt trong cửa
sổ, hay dùng nó để thể hiện quan điểm thực sự của họ. Cái poster đó được cấp
cho họ từ trụ sở doanh nghiệp, cùng với hành và cà-rốt. Anh ta đặt nó lên cửa
sổ vì đã làm như vậy trong nhiều năm, vì mọi người đều làm thế, và vì đó là
việc phải làm. Nếu anh ta từ chối, hẳn đã có rắc rối xảy ra. Anh ta có thể bị
phiền hà vì không có "vật trang trí" thích hợp trong cửa sổ; ai đó
thậm chí còn có thể tố cáo anh là không trung thành. Anh ta làm vậy bởi vì
những điều ấy là cần phải làm nếu muốn yên thân. Đó là một trong hàng ngàn tiểu
tiết đảm bảo cho anh ta một cuộc sống tương đối yên ổn, hay "hòa hợp với
xã hội", như họ vẫn thường nói.
Tất nhiên, người bán rau bàng quan với nội dung chữ
nghĩa của khẩu hiệu được trưng ra; anh ta chẳng đặt khẩu hiệu trong cửa sổ vì
thôi thúc cá nhân muốn công chúng làm quen với lý tưởng mà nó kêu gọi. Nhưng
hiển nhiên, điều này không hề có nghĩa là hành động của anh ta không hề có động
cơ, hoặc chẳng có ý nghĩa gì, hoặc khẩu hiệu đó không truyền đạt tới ai thông
tin nào hết. Cái khẩu hiệu chính là một tín hiệu, và theo đó nó bao hàm một
thông điệp tuy vi tế nhưng rất dứt khoát. Nói nôm na, nó là thế này: "Tôi,
người bán rau quả XY, sống ở đây và tôi biết việc tôi phải làm. Tôi hành xử
theo cách người ta trông đợi. Tôi đáng tin và tôi đứng ngoài mọi rắc rối. Tôi
phục tùng và vì thế, tôi có quyền được yên thân". Thông điệp này, tất
nhiên có người nhận: nó được gửi lên trên, tới những người cao hơn anh bán rau,
và đồng thời nó là lá chắn bảo vệ anh khỏi những kẻ hớt lẻo rình rập. Vì thế, ý
nghĩa thực của khẩu hiệu bám rễ sâu vào sự tồn tại của anh hàng rau. Nó phản
ánh lợi ích sống còn của anh ta. Vậy những lợi ích sinh tồn ấy là gì?
Hãy dừng lại để ghi chú là: nếu người bán rau được
hướng dẫn bày khẩu hiệu: "Tôi sợ và
vì thế phục tùng vô điều kiện", anh ta sẽ không bàng quan với nội dung
của nó, cho dù tuyên bố ấy là đúng sự thật. Người bán rau sẽ cảm thấy xấu hổ và
nhục nhã vì cái tuyên bố thẳng thừng về sự mất phẩm cách của anh ta trong cửa
sổ cửa hàng, và cũng tự nhiên thôi, bởi anh là con người và vì thế mà có cảm
nhận về phẩm giá của mình. Để vượt qua sự rắc rối này, sự thể hiện lòng trung
thành của anh ta phải dưới dạng một dấu hiệu mà, ít nhất trên bề mặt từ ngữ,
biểu hiện một mức độ tin tưởng không tư lợi. Nó phải cho phép người bán rau
biện bạch: "Có gì sai với chuyện vô
sản toàn thế giới đoàn kết đâu?" Vì thế mà dấu hiệu này giúp cho người
bán rau che giấu lương tâm anh ta về cái cơ sở mong manh của sự phục tùng của
mình, và cùng lúc, che giấu nền tảng yếu ớt của quyền lực. Nó giấu chúng dưới
mặt tiền của một cái gì đó cao xa. Và cái gì đó ấy chính là ý thức hệ.
Ý thức hệ là một cách ngụy tạo để liên hệ với thế
giới. Nó ban cho loài người ảo ảnh về một bản sắc, một phẩm giá, và một đạo đức
trong khi tạo điều kiện cho họ từ giã chúng. Như là một kho chứa của một cái gì
đó "siêu cá nhân" và khách quan, nó cho phép con người đánh lừa nhận
thức của mình, che giấu vị trí thực và modus vivendi [tạm dịch là “cách sống”]
không vinh quang của họ, cả với thế giới và với chính mình. Đó là một cách, vừa
thực dụng nhưng đồng thời lại có vẻ thần thánh, để hợp lý hóa cái gì trên, cái
gì dưới và cho mỗi bên. Nó hướng tới con người và hướng tới Thượng đế. Nó là
bức màn mà đằng sau đó con người có thể che giấu sự tồn tại sa sút, sự tầm
thường hóa và thích nghi của họ với nguyên trạng. Nó là sự biện minh ai cũng có
thể dùng, từ người bán rau quả, người che giấu nỗi sợ hãi mất việc làm đằng sau
cái cớ là sự quan tâm tới việc đoàn kết của vô sản toàn thế giới, cho đến những
cơ cấu cao nhất, những người quan tâm đến việc ở lại ngôi cao có thể núp dưới
những mệnh đề phục vụ giai cấp công nhân. Chức năng biện bạch cơ bản của ý thức
hệ, do đó, là cho người ta, cả với tư cách là nạn nhân, và với tư cách là trụ
cột của hệ thống hậu toàn trị, một ảo giác rằng hệ thống đang hòa hợp với trật
tự con người và trật tự của vũ trụ.
Nền độc tài càng nhỏ và xã hội bên dưới nó càng ít
phân tầng do hiện đại hóa thì ý chí của nhà độc tài càng được thực thi một cách
trực tiếp. Nói cách khác, nhà độc tài có thể sử dụng các nguyên tắc hầu như
trần trụi, tránh các quá trình phức tạp gắn với ý thức hệ nhằm liên hệ hắn với
thế giới và để tự biện minh. Nhưng nếu các cơ chế quyền lực ngày càng phức tạp,
và xã hội mà chúng cai trị càng trở nên rộng rãi và bị phân hóa hơn, nếu bề dày
lịch sử vận hành của nền độc tài càng lớn, thì các cá nhân ngày càng bị buộc
phải liên hệ với chúng từ bên ngoài, và các biện minh ý thức hệ ngày càng quan
trọng hơn. Nó đóng vai trò như thể là cầu nối giữa chế độ và nhân dân, qua đó
chế độ tiếp cận nhân dân và nhân dân tiếp cận chế độ. Điều này giải thích tại
sao ý thức hệ đóng vai trò quan trọng đến thế trong hệ thống hậu toàn trị: thật
không thể tưởng tượng nổi nếu cơ cấu phức tạp của các đơn vị, trật tự đẳng cấp,
vô số van an toàn, và các công cụ gián tiếp đủ loại để giật dây - vốn đã đảm
bảo cho sự hòa hợp của hệ thống bằng vô số cách khác nhau, không chừa chỗ cho
ngẫu nhiên - lại có thể thiếu ý thức hệ trong vai trò như là biện minh chung
cho hệ thống, đồng thời là biện minh của từng bộ phận.
IV.
IV.
Giữa các mục tiêu của hệ thống hậu toàn trị và các mục
tiêu của cuộc sống có một vực thẳm luôn ngoác ra: trong khi cuộc sống, trong
bản chất của nó, dịch chuyển tới đa cực, đa dạng, tự tổ chức và tự thiết chế,
và tóm lại là tới sự thực hiện quyền tự do của nó, thì hệ thống hậu toàn trị
đòi hỏi phục tùng, thống nhất và kỉ luật. Trong khi cuộc sống mãi mãi đòi hỏi
tạo ra các cấu trúc mới và "khó đoán trước", hệ thống hậu toàn trị
mưu toan trói buộc cuộc sống vào các trạng thái định trước. Các mục tiêu của hệ
thống bộc lộ đặc điểm cơ bản nhất của nó là tính hướng nội, một chuyển dịch dần
tới [việc phục vụ] hoàn toàn cho và không thể đảo ngược tới chính bản thân nó,
cũng tức là bán kính ảnh hưởng của nó cũng phải không ngừng được mở rộng. Hệ
thống này chỉ phục vụ con người trong chừng mực vừa đủ để con người phục vụ lại
nó. Bất kì điều gì hơn thế, tức là bất kì điều gì dẫn con người tới việc vượt
lên các vai trò định trước của họ, đều bị hệ thống coi là tấn công vào nó. Và
trên phương diện này, nó đã đúng: bất kì ví dụ nào của sự lấn lướt như thế đều
là sự phủ định hệ thống một cách thực sự. Vì thế, có thể nói rằng, mục tiêu nội
tại của hệ thống hậu toàn trị không chỉ đơn thuần là sự bảo tồn quyền lực trong
tay bè lũ thống trị, như mới nhìn thoáng qua thì có vẻ thế. Thay vào đó, hiện
tượng xã hội của tự bảo tồn phải phục tùng cái gì đó cao hơn, phục tùng một
kiểu tự vận hành máy móc mù quáng đang điều khiển hệ thống. Bất kể vị trí nào
mà cá nhân nắm giữ trong trật tự đẳng cấp của hệ thống, họ không được hệ thống
coi là có giá trị tự thân nào hết, mà chỉ là các vật nhằm bơm năng lượng và
phục vụ sự tự vận hành máy móc này. Vì lý do đó, khát vọng quyền lực của một cá
nhân chỉ có thể chấp nhận được nếu định hướng của nó trùng hợp với định hướng
của cỗ máy tự động của hệ thống.
Ý thức hệ, khi đóng vai trò là cây cầu bào chữa nối giữa hệ thống và cá nhân,
đã bắc dọc qua cái vực thẳm nối hai bờ mục tiêu của hệ thống và mục tiêu của
cuộc sống. Nó giả như là các yêu cầu của hệ thống bắt nguồn từ các yêu cầu của
cuộc sống. Nó là một thế giới hình thức đang tìm cách vượt qua hiện thực.
Hệ thống hậu toàn trị đụng chạm đến con người trong mỗi bước đi, nhưng nó làm
thế với cái găng tay ý thức hệ. Chính vì điều này mà cuộc sống trong hệ thống
mới thấm đẫm đạo đức giả tạo và những điều dối trá như thế: nhà nước của quan
liêu thì lại được gọi là chính quyền nhân dân; người lao động bị nô dịch dưới
cái tên giai cấp lao động; sự thoái hóa hoàn toàn của cá nhân thì được trình
bày như là sự giải phóng tột bậc; bưng bít thông tin được gọi là cung cấp thông
tin cho quần chúng, sử dụng quyền lực để giật dây thì được gọi là kiểm soát
công cộng về quyền lực; lạm dụng quyền lực tùy tiện thì được gọi là tôn trọng
luật pháp, đè nén văn hóa thì được gọi là phát triển văn hóa; sự mở rộng ảnh
hưởng đế chế thì được trình bày như thể là giúp đỡ người bị áp bức; mất tự do
ngôn luận trở thành hình thức cao nhất của tự do; các kì bầu cử lố bịch trở
thành hình thức dân chủ cao nhất; cấm suy nghĩ độc lập thành thế giới quan khoa
học nhất; chiếm đóng quân sự trở thành giúp đỡ anh em. Vì chế độ bị nhốt chặt
trong những lời dối trá của nó, nó phải xuyên tạc tất cả. Nó xuyên tạc quá khứ.
Nó bóp méo hiện thực và nó bịa đặt tương lai. Nó xuyên tạc thống kê. Nó giả đò
như không nắm giữ các cơ quan an ninh có quyền lực vô hạn và đốn mạt. Nó vờ
vĩnh tôn trọng các quyền con người. Nó giả đò như không kết án ai. Nó làm như
không sợ bất kì điều gì. Nó giả vờ như không giả vờ gì cả.
Các cá nhân không cần phải tin vào tất cả những điều thần bí hóa này, nhưng họ
phải hành xử như thể là họ tin, hoặc ít nhất họ phải nhân nhượng chúng trong im
lặng, hoặc phải tử tế với những ai làm việc cho chúng. Tuy thế, bởi lí do này
mà họ phải sống trong dối trá. Họ không cần chấp nhận sự dối trá. Chỉ cần họ
chấp nhận sống cùng với nó và sống trong nó là đủ. Cũng chính vì sự thật này,
mà chính các cá nhân đã xác nhận hệ thống, thành toàn cho hệ thống, làm nên hệ
thống, và là hệ thống...
(còn tiếp)
-----------------
Cái tầm tu duy và khả năng phân tích chính trị-xã hội của bậc chính khách nước người ta là thế. Còn mình có nhiều ông không viết được gì." Ăn không nên đọi, nói không nên lời". Buồn!
Trả lờiXóaKhông nên so sánh rằng nước họ thế này còn nước ta thế nọ. Theo tôi nên hành động. Thế mới là học hỏi từ Vacslap Haven.
Trả lờiXóa