* NGÔ NHÂN DỤNG
Thị trường Chứng khoán Thượng Hải lại tụt dốc ba ngày
liền, mặc dù Bắc Kinh đã làm đủ cách để nâng lên. Người mất tiền nhiều nhất ở
Trung Quốc có lẽ là ông Vương Kiện Lâm (Wang Jianlin,王健林), Chủ
tịch Tổng công ty Vạn Đạt Đại Liên (Wanda Dalian, 万达大连),
với tài sản hơn 42 tỷ Mỹ kim, được coi là cá nhân giầu nhất châu Á. Chỉ trong
hai ngày đầu tuần lễ, giá cổ phiếu ông làm chủ mất giá 3,6 tỷ Đô la. Kể từ ngày
12 tháng Sáu, khi thị trường lên cao nhất, Vương Kiện Lâm đã mất 9 tỷ Đô la!
Nhưng không riêng gì người Trung Hoa trong lục địa mất
tiền. Người nước ngoài cũng gặp khốn khó khi Bắc Kinh thất bại trong việc điều
hành nền kinh tế. Một thí dụ là công nghiệp nước Đức, nước xuất cảng nhiều nhất
sang Trung Quốc trong số 28 quốc gia khối Liên hiệp Âu châu (EU). Năm 2007,
hàng Đức bán sang Trung Quốc trị giá bằng 3,1% tổng số hàng xuất khẩu; năm 2014
đã tăng lên thành 6,6%; chủ yếu là bán xe hơi và các loại máy móc lớn. Trong
nửa đầu năm 2015, số xuất cảng sang nước Tàu không tăng nhiều hơn con số bán
sang Hy Lạp, một nước đang lâm cảnh khủng hoảng. Máy móc bán sang Tàu đã giảm
mất gần 5%. Một thị trường đang đem lại nhiều lợi nhuận đã trở thành một gánh
nặng vì các công ty Đức đã đầu tư quá nhiều khi trông mong bán hàng cho Trung
Quốc. Năm ngoái Công ty chế tạo thang máy Thyssen Krupp Elevator bán hơn một tỷ
Euro sang Tàu, chiếm 16% tổng số sản xuất. Năm nay số bán giảm, việc thu hồi
vốn đầu tư sẽ chậm lại. Volkswagen tiên đoán số sản xuất cho thị trường Trung
Hoa sẽ thấp hơn năm ngoái. Lần đầu tiên trong mười năm, số xe BMW bán ở Trung
Quốc đã giảm bớt Trong ba tháng đầu năm 2015 số đầu tư của các công ty Đức
giảm, tổng sản lượng nội địa sẽ bị cắt 0,1%! Nhưng công nghiệp Đức còn bị thiệt
hại qua ngả khác nữa. Vì các công ty Đức đã đổ vào Brazil
19 tỷ Euro rồi chứng kiến kinh tế Brazil xuống dốc vì không còn bán
được quặng mỏ và đậu nành sang Trung Quốc nhiều như trước! Trong hai năm qua
giá quặng sắt mà Brazil
vẫn bán sang Tàu bị tụt mất 60% vì các nhà máy thép Trung Quốc không bán được
hàng.
Ông Vương Kiện Lâm mất gần 10 tỷ Mỹ kim vì giá chứng
khoán xuống, đó chỉ là bề nổi. Các công ty Đức thiệt hại vì cả nền kinh tế
Trung Quốc xuống, đó mới là mối nguy lớn. Trong thời gian tới, chính quyền Bắc
Kinh sẽ không cần lo vấn đề Thị trường Chứng khoán nữa, nhưng họ sẽ đối phó với
cảnh kinh tế giảm tốc độ thế nào, đó sẽ là mối lo của cả thế giới.
Khả năng
điều khiển bị lung lay
Thị trường Chứng khoán tụt dốc lần thứ hai là dấu hiệu
rõ rệt nhất cho thấy Bắc Kinh đang lúng túng trong việc “điều hành” kinh tế, mà
trên căn bản đảng Cộng sản vẫn muốn duy trì quyền điều khiển theo truyền thống
kinh tế tập trung trước khi đổi mới năm 1978.
Gần hai tháng trước, các Thị trường Thượng Hải và Thẩm
Quyến đã xuống giá đột ngột, Bắc Kinh tìm cách nâng lên giá cổ phiếu với nhiều
biện pháp không bình thường: Ra lệnh người mua không được mua, người bán phải
ngưng bán, và đưa thêm tiền cho người ta vay để mua cổ phiếu! Trên thế giới
chưa có một chính phủ nào can thiệp vào giá cả trên Thị trường Chứng khoán như
thế! Nhưng các giải pháp bất thường này mất hiệu lực. Từ ngày Thứ Hai 24 tháng
Tám, Chỉ số Thượng Hải lại tụt xuống, trong hai ngày mất 8,5%, đến Nhật báo Nhân
Dân (Bắc Kinh) phải đặt tên là ngày Thứ Hai Đen. Hôm sau thị trường xuống
thêm 7,6% và sau khi Ngân hàng Trung ương (Nhân Dân Ngân hàng) đã cắt lãi suất
vẫn mất thêm 1,3% nữa. Tổng cộng giá trị các công ty Trung Quốc đã giảm 42% kể
từ giữa tháng Sáu, 3.300 tỷ Mỹ kim biến mất, các nhà đầu tư nhỏ cháy túi!
Đợt tụt giá thứ nhì trong vòng hai tháng này diễn ra
sau quyết định hạ giá đồng Nhân dân tệ vào tuần trước. Sau khi đã hạ giá đồng
Nguyên trong hai ngày liền, tới ngày thứ tư Ngân hàng Trung ương phải tăng giá
để chặn không cho tiền xuống quá thấp. Việc hạ giá đồng Nguyên so với Mỹ kim
nhằm giúp cho hàng xuất cảng dễ cạnh tranh hơn, cho thấy Bắc Kinh bắt đầu lo
lắng, phải hy sinh giá trị đồng tiền để gia tăng sản xuất.
Vào cuối tuần, Bắc Kinh ban hành thêm một giải pháp
nữa để nâng giá chứng khoán, là cho phép các quỹ hưu bổng được dùng tới 30%
tiền đầu tư để mua cổ phiếu. Khắp trên thế giới, thường các quỹ hưu bổng không
được phép mua cổ phiếu mà chỉ được đầu tư vào trái phiếu, vì ai cũng biết thị
trường cổ phiếu lên xuống bất thường, trong khi bổn phận của các quỹ hưu bổng
là bảo vệ tiền vốn do giới lao động đóng góp, để dành chờ khi về hưu sẽ rút ra.
Khi chính quyền ‘cho phép” các quỹ hưu bổng mua cổ phiếu thì người ta hiểu ngầm
rằng họ sẽ “ra lệnh miệng” cho các nhà quản lý phải chấp nhận rủi ro mà đi mua
cổ phiếu. Riêng quyết định phá lệ này có thể sẽ đưa vào thị trường thêm 550 tỷ
Đô la để mua các cổ phiếu đang lo xuống giá. Nhưng trong ngày Thứ Sáu, 21 tháng
Tám, các con số thống kê được công bố cho thấy sức sản xuất không tăng lên như
ý muốn, hậu quả là sau hai ngày cuối tuần thị trường mở cửa là cổ phiếu bắt đầu
xuống thảm hại hơn.
Để cứu vãn Thị trường Chứng khoán lần thứ nhì, Nhân
Dân Ngân hàng lại cắt lãi suất một phần tư điểm, xuống 4,6% một năm, và cho
phép các ngân hàng thương mại được cho vay nhiều hơn bằng cách giảm bớt số tiền
dự trữ bắt buộc xuống 18%, giảm bớt nửa điểm. Cả hai biện pháp nhằm giúp các
ngân hàng cho vay dễ dàng hơn, có thể đưa thêm tiền cho những người muốn vay để
mua cổ phiếu. Chỉ cần giảm 0,50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng cho phép các ngân
hàng cho vay thêm 678 tỷ đồng Nguyên, tương đương với 106 tỷ Đô la.
Lãi suất chỉ giảm bớt 0,25% khiến nhiều người chỉ
trích là cắt giảm ít quá. Nhưng đây là lần thứ năm Nhân Dân Ngân hàng cắt lãi
suất kể từ cuối năm ngoái, mỗi lần đều chủ ý cho các ngân hàng đưa thêm tiền
vào thị trường. Chủ tịch Ngân hàng Chu Tiểu Xuyên khó lòng cắt lãi suất nhiều
hơn, vì số nợ trong cả nền kinh tế đã lên quá cao đến mức nguy hiểm. Riêng số
nợ của các chính quyền địa phương đã lớn bằng tổng sản lượng nội địa của cả
nước Đức, hơn 680 ngàn tỷ Đô la! Hơn nữa, nếu cắt lãi suất nhiều hơn thì sẽ
thổi phồng quả bóng địa ốc lên trong khi sức căng đã quá lớn, chỉ lo quả bóng
bùng nổ. Ông Chu Tiểu Xuyên có thể đã cưỡng lại áp lực của Tập Cận Bình khi
quyết định nới lỏng tiền tệ có chừng mực, tránh những tai họa lớn khó kiềm chế
hơn.
Sau các biện pháp tiền tệ trên, Bắc Kinh đã sử dụng
thêm một vũ khí tâm lý để trấn an giới đầu tư trong nước. Ủy hội Giám sát Chứng
khoán (China Securities Regulatory Commission, tên đầy đủ là Trung Quốc Chứng
khoán Giám đốc Quản lý ủy viên hội, 中國証券監督管理委員會) loan báo đã mở
cuộc điều tra năm công ty môi giới chứng khoán lớn nhất. Rất khó kết tội các
công ty này vì họ bán quá quá nhiều cổ phiếu khiến thị trường tụt dốc, vì việc
mua bán là quyết định tự nhiên của tất cả những người kinh doanh. Cho nên một
tội danh chung được nêu ra là các công ty môi giới đã “không điều tra để xác
định danh tính các người mua bán cổ phiếu, như luật định.” Ba người cấp giám
đốc công ty Citic (Trung Quốc Chứng Khoán, 中信证券股份有限公司đã bị bắt giam, vì
tội “bán non cổ phiếu” với ý phá hoại. Bán non, short selling, tức là bán những
cổ phiếu mình đi mượn, hẹn sẽ trả lại bằng cổ phiếu trong một thời gian ngắn
sau đó. Người bán non tin rằng giá cổ phiếu đang xuống, đến khi phải trả thì họ
mua được các cổ phiếu đó với giá thấp hơn lúc mượn và bán. Đây là một hành động
hợp pháp tại các thị trường khắp thế giới, kể cả Trung Quốc.
Hành động điều tra và bắt giam này có tác dụng trấn an
dư luận, cho thấy chính quyền vẫn đang làm chủ tình hình. Vì trong một chế độ
công an trị thì mỗi khi gặp cơn khủng hoảng khi thấy công an đang làm việc
người ta cảm thấy an tâm hơn! Sau khi các biện pháp tài chánh của nhà nước
không đạt được hiệu quả họ mong muốn, loan báo các vụ điều tra và bắt giam của
công an khiến người dân thường nghĩ chính phủ của họ đang hành động mạnh hơn! Lòng
tin tưởng tăng lên trong ngày Thứ Năm 27 tháng Tám, Thị trường Thượng Hải tăng
lên được 5,3%; qua ngày Thứ Sáu lại tăng thêm 4,8%. Sau một tuần lễ, chỉ số
Thượng Hải chỉ còn tụt giá 8% thôi. Đằng sau thị trường, chính quyền đã thúc
đẩy việc mua cổ phiếu để hỗ trợ cho tâm lý lạc quan này, vì ngày 3 tháng Chín
trong tuần tới họ sẽ tổ chức lễ kỷ niệm “70 năm Chiến thắng Nhật” với một cuộc
diễn binh vĩ đại. Việc can thiệp trực tiếp để nâng thị trường lên một cách giả
tạo như vậy, là điều rất nguy hiểm. Vì nếu đó là sự thật đúng như tin đồn, thì
sẽ khiến cho công chúng càng thêm mất niềm tin vào Ngân hàng Trung ương. Khi
nhà nước in thêm tiền để mua và nâng giá cổ phiếu, thì giá trị của chính đồng
tiền sẽ bị nghi ngờ.
Bắc Kinh cũng cần trấn an thị trường vì sau hai tháng
khủng hoảng, người ta thấy khả năng kiểm soát của chính quyền rất yếu và tỏ ra
lúng túng. Công chúng mất tin tưởng vào khả năng điều hành của giới lãnh đạo.
Trong ba thập niên qua, món võ chính của họ là xuất cảng thật nhiều và bỏ tiền
ra xây dựng thật nhiều, từ cơ xưởng sản xuất tới hạ tầng cơ sở. Hai món võ này
đã thi triển hết nội lực. Tháng Bẩy vừa qua hàng xuất cảng giảm bớt 8,3%, và
trong bẩy tháng đầu năm đơn mua hàng đặt cho các nhà máy giảm 17%. Từ sáu năm
qua, lần đầu tiên số bán điện thoại di động “smart phone” đã giảm đi. Trong ba
tháng quý thứ nhì năm 2015 các cuộc đình công và biểu tình của giới lao động đã
tăng gấp đôi so với năm ngoái.
Giới lãnh đạo trung ương đang mất khả năng điều khiển
chính guồng máy họ đang cầm tay lái. Chương trình chống tham nhũng được Tập Cận
Bình tung ra để loại bỏ các đối thủ trong phe Giang Trạch Dân khiến nhiều quan
chức dè dặt không dám tiến hành các dự án, chỉ sợ phạm những sơ hở để chính họ
bị tố tham nhũng. Nhiều quan chức cũng cố tình chọn thái độ dè dặt để chống
đối, làm cho cả guồng máy đình trệ. Tháng Tư 2015, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã
lớn tiếng chỉ trích các địa phương không đầu tư nhanh theo tốc độ như ý trung
ương. Các ngân hàng của nhà nước cũng vậy. Ngân hàng Phát triển có dự án cho
vay 1.160 tỷ đồng Nguyên (181 tỷ Đô la Mỹ) nhưng trong nửa năm mới đem cho vay
được 72 tỷ. Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp hứa sẽ tháo khoán 46 tỷ, nhưng chỉ
cho vay được gần 3 tỷ.
Trong khi giới lãnh đạo lo bơm thêm tiền cứu vãn Thị
trường Chứng khoán thì họ lại làm cho một mối đe dọa khác trở nên nguy hiểm
hơn, là quả bom nợ đang đè nặng trên cả hệ thống tài chánh.
Bom nợ vẫn
đe dọa
Với tổng sản lượng nội địa (GDP) hơn 10 ngàn tỷ Mỹ kim
mỗi năm, tổng số nợ hiện nay lớn gần gấp ba, lên tới 28 ngàn tỷ, bằng 280% GDP,
tăng từ tỷ lệ 100% vào năm 2008.
Nợ tăng gấp bốn lần từ năm 2007. Hiện tượng này được
khơi ngòi từ phản ứng của Bắc Kinh khi kinh tế thế giới rơi vào cơn khủng hoảng
năm 2008, phát xuất từ cuộc khủng hoảng địa ốc ở Mỹ, lan sang Châu Âu. Họ đưa
800 tỷ Mỹ kim vào thị trường, nhờ thế nền kinh tế Trung Quốc không suy thoái.
Nhưng số tiền “kích thích” đó được sử dụng như thế nào? Dùng trong thế mõ “trấn
sơn” của đảng là xây dựng, xây dựng. Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp
nhà nước được vay nợ với lãi suất thấp đổ tiền vào xi măng, thép, nhôm, xây
dựng thật nhiều. Từ đó quả bóng địa ốc căng lên dần dần.
Bắc Kinh đối phó với cơn khủng hoảng địa ốc bằng cách
chuyển trọng tâm qua Thị trường Chứng khoán. Trong lúc hạn chế bớt số tiền cho
vay để xây nhà, các ngân hàng của nhà nước đem tiền cho các nhà đầu tư mua
chứng khoán. Đồng thời, guồng máy báo đài cùng thúc đẩy việc làm giầu bằng
chứng khoán. Không cần lệnh từ cấp trên, các nhà báo đã có thể viết bài ca tụng
các công ty hay các người đầu tư, khi nhận được các phong bì, tạo nên ảo tưởng
những cách làm giầu nhanh chóng.
Hậu quả là quả bom nợ lớn lên trong thị trường địa ốc
lại được tăng thêm với những món nợ mới trong giới đầu tư chứng khoán. Một nền
kinh tế không thể sống bằng nợ mãi mãi. Khi các món nợ tăng lên, sẽ tới lúc
chúng tác hại.
Tỷ lệ tổng số nợ lớn bằng 280% GDP đáng lo ngại, nhưng
tốc độ gia tăng của các món nợ còn là những tín hiệu báo động mạnh hơn nữa. Năm
2010, số nợ của các công ty tư và các cá nhân ở Trung Quốc đã tăng lên một số
tương đương với 35% GDP. Để so sánh, chỉ cần nhớ lại cuộc khủng hoảng tài chánh
và kinh tế ở Nhật Bản những năm 1990 phát nổ khi số nợ tăng lên mỗi năm lớn
bằng 25% GDP. Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2007 khi tổng số nợ tăng thêm cũng
bằng 15% GDP.
Có thể nói đây là lần đầu tiên kinh tế Trung Quốc gặp
một cơn khủng hoảng theo lối kinh tế tư bản. Nhưng các biện pháp cứu chữa của
họ lại rút ra từ túi kinh nghiệm của kinh tế hoạch định tập trung: Dùng mệnh
lệnh, dùng ngân sách quốc gia để điều khiển thị trường, không tăng các món nợ
trong lãnh vực địa ốc để cho nợ trong lãnh vực chứng khoán tăng nhanh hơn. Ra
lệnh các quỹ hưu bổng mua, ra lệnh các doanh nghiệp ngưng bán cổ phiếu để giữ
giá, vân vân. Đây là do kinh nghiệm điều hành kinh tế thời “Trước Đặng Tiểu Bình,”
khi nhà nước đề ra các chỉ tiêu sản xuất thép, sản xuất số tấn thóc lúa, số đôi
giầy, dép, vân vân. Phương pháp đó không hiệu quả!
Bơm tiền vào nền kinh tế cũng giống như bón phân vào
ruộng, càng nhiều thì hiệu quả càng thấp hơn, nhiều quá thì cây cũng chết.
Trước cơn khủng hoảng 2008, mỗi đồng Nguyên đem cho vay có thể sẽ sinh ra thêm
các sản vật trị giá năm đồng Nguyên trong vòng sáu năm. Trong sáu năm từ 2008,
mỗi đồng Nguyên bơm vào làm tín dụng chỉ sinh ra thêm được ba đồng Nguyên mới.
Hiện nay, quả bom nợ chưa nổ bùng vì tất cả các người quyết định trong nền kinh
tế đều nhận lệnh từ một trung ương: Người vay, người cho vay. Một ngân hàng của
nhà nước sẽ không bắt một công ty thép của nhà nước phải tuyên bố phá sản. Các
con nợ lớn nhất là các cấp chính quyền địa phương, các nhà xây cất đường cầu và
nhà cửa, và các xí nghiệp quốc doanh. Số ngoại tệ dụ trữ 3,700 tỷ Mỹ kim cũng
là một cái đệm an toàn. Tình trạng này giúp cho Bắc Kinh mua thêm được thời
gian để giải tỏa gánh nặng nợ nần trong ngắn hạn. Nhưng tình trạng này cũng
không thể kéo dài mãi mãi.
Trong thời gian chạy chữa đó, giới lãnh đạo phải lo
bảo vệ mức sống của người dân, nhất là giới trung lưu ở thành thị. Hiện nay lợi
tức bình quân một người Trung Hoa, tính theo mãi lực chứ không theo tỷ giá hối
đoái (PPP), khoảng 12.000 Đô la, bằng một phần ba lợi tức PPP của dân Nam Hàn.
Cả thế giới
lo lắng
Cơn khủng hoảng thị trường sau đợt giảm giá đồng
Nguyên khiến thị trường ngoại hối trên thế giới chuyển động. Vì sau khi thị
trường Thượng Hải xuống, mọi người đều lo kinh tế Trung Quốc đang suy yếu hơn
là các số thống kê chính thức; kinh tế của các nước giao dịch với Trung Quốc
cũng lo sẽ xuống. Giá chứng khoán khắp nơi đều xuống, người ta bán để lấy tiền
đầu tư vào những nơi an toàn hơn. Vì thế tiền tệ nhiều nước xuống giá trong khi
đồng Yen của Nhật Bản và đồng Franc Thụy Sĩ lên giá.
Đô la Mỹ biến chuyển theo chiều hướng khác. Trong mấy
ngày đầu, đồng Đô la Mỹ xuống giá vì thị trường tiên đoán trước cảnh kinh tế
Trung Quốc xuống dốc, Ngân hàng Trung ương Mỹ (Federal Reserve, hay Fed) sẽ
không tăng lãi suất như đã được tiên liệu trong tháng Chín này. Gần một năm
qua, Đô la Mỹ lên giá vì kinh tế Mỹ hồi phục và mọi người đoán Fed sắp tăng lãi
suất để ngăn chặn trước nạn lạm phát. Khi kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu xuống
và nhiều nước sẽ xuống theo, Fed có thể sẽ không tăng lãi suất trong mấy tháng
tới nữa, để khỏi gây khó khăn cho cả thế giới. Bởi vì nếu lãi suất ở Mỹ tăng
lên thì nhiều nhà đầu tư khắp các nước sẽ tìm mua các chứng khoán Mỹ; tiền vốn
sẽ đổ vào nước Mỹ trong khi bao nhiêu nước khác sẽ thiếu vốn rất cần để chống
đỡ trong lúc đang gặp khó khăn. Nếu Fed tăng lãi suất, đồng Đô la sẽ lên giá,
gây thêm khó khăn cho các nước đang phát triển theo cách khác, là họ sẽ phải lo
trả nợ nhiều hơn. Hầu hết các món nợ vay từ nước ngoài đều vay bằng Mỹ kim. Khi
Mỹ kim lên giá, các con nợ sẽ phải đổi lấy Mỹ kim với giá cao hơn, thêm một nỗi
khó khăn nữa trong tình cảnh vốn đã bi quan. Chính vì thế, khi cơn khủng hoảng
thị trường ở Trung Quốc diễn ra ba ngày liên tiếp thì thị trường thế giới đoán
rằng Ngân hàng Trung ương Mỹ sẽ không tăng lãi suất trong tháng Chín này, đồng
Đô la Mỹ đã xuống giá.
Cả thế giới đang theo dõi tình hình kinh tế nước Trung
Hoa vì tất cả các nước hiện nay đang liên hệ chặt chẽ với nhau. Với 1.3 tỷ
người, đây là một thị trường lớn. Nếu mỗi người dân Trung Quốc bớt chi tiêu 10%
thì công nghiệp và nông nghiệp các nước khác sẽ bị ảnh hưởng. Trung Quốc đã
từng nhập cảng 58% số quặng sắt, 58% số đậu nành, 31% số đồng thau, 15% số dầu
lửa và 32% các mạch bán dẫn (integrated circuits) sản xuất trên thế giới để lắp
các máy móc điện tử. Công ty Bloomberg tính một chỉ số thương mại thế giới dựa
trên 22 khoáng chất và nông sản, chỉ số này hiện xuống mức thấp nhất kể từ năm
1999. Tất cả những nước cung cấp tiếp liệu cho hơn một tỷ người Trung Hoa sẽ
cùng xuống dốc với khách hàng của họ. Những nước này gồm từ Brazil qua Thổ Nhĩ Kỳ, tới Phi
châu, Úc châu.
Nước Mỹ có lẽ bị ảnh hưởng nhẹ nhất. Đối với các công
ty Mỹ trong nằm trong danh sách của chỉ số SP500, số thu nhờ giao dịch với
Trung Quốc chỉ lớn bằng 2% tổng số bán của họ trên toàn thế giới. Số xuất cảng
từ Mỹ sang Tàu chỉ bằng 1% GDP; nếu có giảm bớt 10% thì cũng không đáng lo. Chủ
tịch công ty Apple mới họp nhân viên thông báo rằng chi nhánh ở Trung Quốc vẫn
yêu cầu gửi thêm hàng, mặc dù số điện thoại di động bán ở Trung Quốc đã giảm!
Nhưng khi kinh tế các nước ở châu Mỹ La tinh, châu Âu, châu Á xuống thì họ cũng
chính là những khách hàng của Mỹ! Cho nên nước Mỹ cũng khó bình chân như vại!
Tổng sản lượng nội địa Trung Quốc lớn hiện nay lớn
bằng 15% GDP cả thế giới, cho nên khi kinh tế Trung Quốc xuống thì nhiều nước
cũng bị vạ lây. Năm 1990, khi Nhật Bản bắt đầu khủng hoảng, GDP của Nhật cũng
vào khoảng 15% GDP cả thế giới. Nhưng trong thời gian đó, thế giới không lo
lắng như đang lo ảnh hưởng của cơn suy thoái có thể diễn ra tại Trung Quốc bây
giờ. Lý do vì khi có nhiều thông tin minh bạch thì mối lo lắng về rủi ro sẽ
giảm đi. Nước Nhật theo một chế độ tự do dân chủ như các nước trong khối G 7
khác, báo chí được tự do điều tra và loan báo các tin tức nên nhà nước không
thể hành động trong vòng bí mật. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản độc lập với
chính phủ trong việc quyết định chính sách tiền tệ, lãi suất, các quyết định
được thông báo nhanh chóng với lời giải thích đầy đủ theo nhu cầu của công
chúng. Những người nắm quyền ở Nhật Bản đều chịu trách nhiệm trước dân chúng
cho nên họ bắt buộc phải hành động một cách minh bạch công khai.
Tai hại vì
thiếu minh bạch công khai
Guồng máy kinh tế Trung Quốc khác hẳn, không bao giờ
minh bạch công khai, đó là một nguyên nhân khiến mối lo của cả thế giới nặng nề
hơn. Các quyết định kinh tế ở Bắc Kinh đều diễn ra trong vòng bí mật, các phiên
họp bàn về chính sách tiền tệ lãi suất không bao giờ được tiết lộ cho bên ngoài
biết; trong khi biên bản mỗi phiên họp về chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương Mỹ đều được công bố đầy đủ, hai tháng sau khi họp.
Ngân hàng Trung ương các nước lớn đều độc lập với
chính phủ, để tự do quyết định theo nhu cầu bảo đảm giá trị đồng tiền ổn định.
Phần lớn các Ngân hàng Trung ương đều công bố họ nắm giữ ỷ lệ lạm phát ở một
mức nào đó, thí dụ 2%, để các doanh nghiệp định kế hoạch làm ăn. Ở Trung Quốc
thì không; Bộ Chính trị ảnh hưởng mạnh trên Ngân hàng Trung ương cho nên người
ta không thể tiên đoán các chính sách của Nhân Dân Ngân hàng dựa trên các lý
luận thuần túy kinh tế; giống như khi thị trường thế giới tiên đoán Ngân hàng
Trung ương Mỹ sắp tăng lãi suất.
Dân Trung Quốc không được biết các lãnh tụ quyết định
về vận mệnh kinh tế của họ như thế nào, truyền thống bí mật đó bắt đầu từ thời
Mao Trạch Đông, vẫn chưa thay đổi. Khi Lâm Bưu, người được chỉ định kế vị Mao
chết trên đường chạy trốn qua Nga, hai tháng sau người dân Tàu mới biết tin!
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin là một yếu tố quan trọng nhất, để người
tiêu thụ cũng như nhà sản xuất quyết định.
Các con số thống kê kinh tế của Bắc Kinh cũng bị nghi
ngờ, ngay cả chính quyền Trung Quốc cũng nghi ngờ lẫn nhau. Từ nhiều năm qua,
cơ quan thống kê ở Bắc Kinh đã chấm dứt không sử dụng các con số do các tỉnh
cung cấp! Cho nên nếu cộng các con số về tổng sản lượng nội địa của các tỉnh
chúng ta sẽ thấy nó lớn hơn con số về GDP của cả nước! Không ai có thể tin tỷ
lệ thất nghiệp ở Trung Quốc cứ đứng mãi chung quanh con số 4,1%, hết tháng này
qua năm khác!
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã thú nhận chính
ông cũng không tin vào các số thống kê, mà ông gọi là “nhân tạo.” Khi đứng đầu
tỉnh Liêu Ninh, năm 2007 ông Lý Khắc Cường khuyên mọi người hãy kiểm tra con số
tổng sản lượng nội địa bằng các số tiêu thụ điện, số hàng chuyên chở qua hỏa
xa, số tiền vay ngân hàng, vân vân.
Những số thống kê kinh tế Trung Quốc còn khó sử dụng
vì không đầy đủ. Thí dụ, họ cho biết quỹ dự trữ ngoại tệ là 3.7 ngàn tỷ Mỹ kim,
nhưng không ai biết trong số đó bao nhiêu tỷ, hay hàng trăm tỷ đã được cho vay,
cho ai, dưới hình thức nào. Thói quen giữ bí mật khiến các nước khác khó làm ăn
với Trung Quốc. Một viên chức bộ Tài chính Mỹ nhận xét: “Với các nước trong
nhóm G 7 hay G 20, tôi có thể gọi điện thoại nói chuyện với họ, hỏi nhau tin
tức một cách thẳng thắn, thành thật, có thể gọi mỗi tuần một lần. Còn với chính
phủ Trung Quốc thì mình không biết phải gọi cho ai. Không thể biết những ai là
người quyết định các chính sách nào!”
Vì vậy, các nhà kinh tế thế giới đều nghi ngờ con số
7% mà Bắc Kinh thông báo là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã đạt được. Công ty
Capital Economics ở London, Anh quốc, đã nghiên cứu cc con số tiêu thụ điện, số
hành khách và vận tải đường bộ, đường thủy, số nhà cửa xây cất, vân vân và đi
tới con số mức tăng trưởng khoảng 4,8%. Công ty Lombard Street Research, cũng ở
London , tính
toán theo cách khác, đưa ra tỷ lệ 3,7%.
Tình trạng thông tin thiếu minh bạch công khai như
trên gây tai hại cho chính nền kinh tế Trung Quốc. Các lãnh tụ Trung Nam Hải
bàn bạc chính sách tiền tệ và kinh tế trong vòng bí mật cho nên họ có thể quyết
định chỉ để thỏa mãn nhu cầu chính trị nhất thời, theo nhu cầu của những người
đang cầm quyền chứ không vì lợi ích cho kinh tế quốc dân. Chế độ độc tài chuyên
chế khiến cho không ai có thể theo dõi, giám sát và ảnh hưởng tới các quyết
định của họ.
Vì vậy, khi dân chúng bắt đầu bớt tin tưởng, thì mối
nghi ngờ càng trầm trọng hơn. Những con sụt giá của Thị trường Chứng khoán
trong hai tháng qua, và cảnh lúng túng đối phó của chính quyền, cũng như quyết
định phá giá đồng Nguyên một cách vụng về khiến người dân Trung Hoa càng mất
tin tưởng vào khả năng điều hành kinh tế của Đảng Cộng sản. Những vụ nổ ở Thiên
Tân và tỉnh Sơn Đông càng lung lay thêm niềm tin tưởng đang bị xói mòn đó.
Nhân lễ hội “Chiến thắng Phát xít Nhật” trong tuần
tới, dân Trung Quốc sẽ được nghỉ ba ngày. Sau đó, khi Thị trường Chứng khoán mở
cửa, chúng ta sẽ có cơ hội xem các biện pháp của chính quyền Bắc Kinh có hiệu
lực tới đâu và phản ứng của dân Trung Hoa như thế nào. Việc theo dõi này cũng
lý thú không khác gì đọc truyện Tam Quốc!
27-8-2015
N.N.D (Tác giả gửi BVN)
-------------
Bọn Chệt ( Tàu cộng ) chết đi- cho loài người được sống bình yên ! ước mong quá !
Trả lờiXóakhông; chệt phải sống để đảng tớ còn dựa vào đó mà "quang vinh muôn năm" (NPT tâm tư)
XóaTài chính chứng khoán suy sụp chỉ là một phần.
Trả lờiXóaNội tình giới chop bu ĐCSTQ đánh nhau dẫn tới suy sụp 2,3,4 phần.
Nhưng đó là noeefm vui cho thế giới
Tôi cũng có suy nghĩ như Lòng dân,có lẽ đây là dấu hiệu của sự sụp đổ chứ không thuần túy là chứng khoán & tài chính ! mà nó sụp đổ là ước vọng của nhân loại ! cầu mong thay !
Trả lờiXóaVẫn có vài người không vui , thậm chí lo cho tình hình tàu cộng!
Trả lờiXóaXuống dzốc mà hổng phanh là căng lắm à nhe...
Trả lờiXóaCứ nhìn vào thị trường xuống dốc tại Bắc Kinh chúng ta sẽ thấy được tại sao ông Trọng phải đi Mỹ ? Tại sao Mỹ cứng cựa tuyên bố chính sách với Trung Quốc về Biển Đông ? Liệu Mỹ có thể giúp ích gì cho TQ trong đợt Tập Mỹ du trong tháng chín này ?
Trả lờiXóaCuộc diễu binh vào đầu tháng chín tại TQ xét cho cùng chỉ là cách phô trương nhằm trấn an nhan dân TQ và phe Tập , chẳng có một tác động nào với nước ngoài về cái sức mạnh quân sự chẳng cần thiết lúc này . Một TQ đang suy nhược kinh tế và nội loạn sẽ ảnh hưởng chính đến quỹ đạo an toàn của thế giới trước khi TQ sụp đổ , mới chính là điều cả thế giới đang quan tâm . Riêng VN sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì 40 năm lệ thuộc bắc triều .
Thiết nghỉ Mỹ sẽ ra những điều kiện gì cho TQ ở cuộc gặp Thượng Đỉnh vào tháng 9 này ? Liệu rằng Mỹ có thể giúp Tập và chế độ CS TQ cũng là nhằm giúp thế giới ổn định bằng cách nào và kéo dài bao lâu ? Trong khi cuộc chiến tranh " Tin tặc " từ TQ vẫn là mối nguy hiểm hàng đầu cho kinh tế tư nhân và quốc phòng của Mỹ .
Một điều quan trọng khác . Tập đã hơn 6 lần thoát hiểm vì âm mưu ám sát . Đứng trước một TQ hết thuốc chữa do tập đoàn ĐCSTQ lãnh đạo , Tập sẽ suy nghỉ gì ?
Ngoài ông trời , chỉ có Mỹ mới là điểm tựa duy nhất cho Tập hiện nay , một thế triệt buộc cho sự an toàn bản thân Tập cũng như tạo niềm tin từ nhân dân TQ đối với Tập .
Chính chuyến Mỹ du của Tập là hy vọng của cả thế giới mong đợi . TQ và VN chắc chắn phải thay đổi về lập trường Cộng Sản sau chuyến đi này của Tập chính xác hơn là lễ duyệt binh .
Ắt Tập sẽ dùng lá bài Tin tặc sẵn có trong tay để mặc cả và xin xỏ hứa hẹn , hy vọng Mỹ sẽ đồng ý kèm theo điều kiện Biển Đông !
Thức tỉnh
Tập cận Bình còn nhỏ tuổi lắm,nó còn hành hạ dân TQ dài dài (nếu lần thứ 7 giết nó không thành !),và còn quấy phá loài người chưa biết đến mức độ nào !
Trả lờiXóaChắt những tập đoàn nước ngoài làm ăn với TC sẽ kiếm được khá cao Chứ ko thì họ sẽ rút khỏi thị trường .Ai ngu gì làm ăn với 1 Đất nước ko minh bạch ko biết đâu mà đối phó còn ko thì có ngày cũng tiêu ma.
Trả lờiXóa