“Chúng
ta không thể thay đổi được quá khứ,
nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai”
(Dalai Lama)
* NGUYỄN QUANG DY
Cách đây hơn
một thế kỷ, các bậc tiền nhân (như cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh) đã khởi
xướng phong trào Đông Du để học tập người Nhật, nhằm khai trí và canh tân, định
dựa vào Nhật để kháng Pháp giành độc lập. Nhưng tại sao phong trào này không
thành công? Tại sao người Nhật làm được mà người Việt không làm được? Đến tận
bây giờ (hơn một thế kỷ sau) người Việt vẫn loay hoay “định nghĩa lại trí
thức”, vẫn loay hoay với một đất nước “không chịu phát triển”.
Thứ nhất:
Ảnh hưởng quá nhiều bởi văn hóa hủ nho
Cách đây một thế kỷ rưỡi, người Nhật đã làm được một
cuộc cách mạng “văn hóa tư tưởng” vĩ đại là “Thoát Á” (Fukuzawa Yukichi,
1835-1901). Họ học hỏi Phương Tây để ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao dân
trí bằng “duy tân”, để thoát khỏi những ảnh hưởng lạc hậu của Nho giáo trong
nhiều thế kỷ. Vì vậy, họ đã biến được nước Nhật lạc hậu thành một quốc gia hiện
đại, chấn hưng được đất nước (Meiji Restoration).
Nhưng tại sao người Nhật làm được, mà người Việt không
làm được? Nước Nhật có Fukuzawa Yukichi, thì nước Việt cũng có Bùi Viện và
Nguyễn Trường Tộ… Chúng ta thường tự hào về một nước Đại Việt, “nhân tài như lá
mùa thu” và “rừng vàng biển bạc” (chắc Nhật không bằng). Đáng lẽ Việt Nam
phải bằng hay hơn Nhật chứ?
Vậy tại bước ngoặt lịch sử đó, những yếu tố gì đã
quyết định vận mệnh khác nhau của các quốc gia Châu Á này? Thứ nhất, nếu đọc kỹ
thì tư tưởng của Fukuzawa Yukichi rất rõ ràng và triệt để, không nửa vời, không
bị chấp vào Nho giáo như các trí thức (hủ nho) người Việt. Thứ hai, năng lực
truyền thông và quản trị của họ giỏi hơn, tính cộng đồng của họ cao hơn. Thứ
ba, Fukuzawa Yukichi không đơn độc như ông Bùi Viện và Nguyễn Trường Tộ, vì có
nhiều trí thức, thương nhân, và “một bộ phận không nhỏ” samurai tham gia.
Trong khi người Nhật “Thoát Á”, học hỏi Phương Tây để
hiện đại hóa đất nước, thì người Việt lại bài ngoại và đắm chìm trong Nho giáo
cổ hủ. Vua quan và trí thức tối ngày uống rượu ngâm thơ, tầm chương trích cú,
không lo chấn hưng kinh tế và quốc phòng. Những gì vua Gia Long làm được để
thống nhất và chấn hưng đất nước (bằng cách hợp tác với Tây phương) thì các đời
vua sau đã làm ngược lại. Vì vậy, khi Pháp đem quân đến xâm chiếm thì nước An
Nam hủ nho và yếu kém không chống lại nổi, đành từng bước đầu hàng, trở thành
thuộc địa. Bài học này đáng suy nghĩ, khi nguy cơ “Bắc Thuộc” đang hiện hữu.
Trong khi trẻ con suốt ngày chơi game như nghiện xì ke, thì người lớn (cả trí
thức và quan chức) cũng tối ngày nhậu nhẹt xả láng, sa đà vào những trò tiêu
khiển xa hoa, hoặc tranh cãi về những vấn đề viển vông, chẳng khác gì thời
trước các cụ uống rượu ngâm thơ. “Hủ nho” là một thói quen.
Quang Trung là một ông vua tài giỏi, có đầu óc canh
tân, nên đã thu phục được nhân tài (như Ngô Thì Nhậm), xây dựng được một đội
quân thiện chiến (ứng dụng chiến lược, chiến thuật mới), nên đã dẹp được thế
lực chúa Trịnh và Nguyễn, thắng được quân Xiêm và quân Thanh, thống nhất được
đất nước. Nhưng đáng tiếc là ông ấy chết sớm, hệ thống quản trị đất nước lạc
hậu, các con yếu kém tranh giành quyền lực, nên đã thất bại.
Gia Long cũng là một ông vua tài giỏi, có đầu óc canh
tân, biết tranh thủ nguồn lực của Tây phương, nên đã đánh bại được nhà Tây Sơn,
thống nhất được đất nước. Nhưng hệ thống quản trị đất nước cũng lạc hậu, các
đời vua sau không chịu duy tân để “Thoát Á”, mà còn xua đuổi người Phương Tây,
kể cả cha Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes, 1591-1660) là người đã sáng chế ra chữ
quốc ngữ. Về tư tưởng, Bộ luật Gia Long là một bước thụt lùi so với bộ luật
Hồng Đức, vì dựa vào Nho giáo quá nhiều, không hiểu là thời thế đã thay đổi.
Theo các nhà nghiên cứu, Nho giáo từ sau thế kỷ XV có
nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” (theo Alexander Woodside). Đó là một thực tế
mà quan lại và trí thức Việt thời đó không hiểu, vẫn nhắm mắt đi theo. Người
Việt chịu ảnh hưởng quá nhiều của Nho giáo (hủ nho), từ thượng tầng chính trị
đến hạng tầng xã hội. Ngay cả những người cộng sản thế hệ đầu cũng xuất thân từ
nhà nho (như cụ Hồ, ông Trường Chinh, và nhiều người khác). Cụ Hồ cho rằng chủ
nghĩa Đại đồng của Khổng Nho rất gần với chủ nghĩa Cộng sản. Trong di chúc, cụ
Hồ còn trích dẫn một câu của ông Đỗ Phủ đời Đường, “Nhân sinh thất thập cổ lai
hy”…
Thứ hai: Ảnh hưởng quá lớn bởi tư tưởng cực đoan
và quá khích
Năm 1945, Việt Nam giành được độc lập và những
người cộng sản đã “cướp” được chính quyền. Câu hỏi đang gây tranh cãi là những
người cộng sản lúc đó tài giỏi hay họ gặp may, vì “khoảng trống quyền lực” sau
khi Pháp bị Nhật đảo chính phải bỏ chạy (3/1945) đến lúc Nhật đầu hàng
(8/1945). Khi bối cảnh lịch sử tạo ra khoảng trống quyền lực (trong mấy tháng),
thì những người cộng sản đã nhạy bén, tranh thủ thời cơ “cướp” chính quyền một
cách dễ dàng (từ tay Bảo Đại và Trần Trọng Kim). Không phải vì những người cộng
sản mạnh giỏi, mà vì những người không cộng sản lúc đó yếu kém (vì bị ảnh hưởng
nhiều hơn bởi Nho giáo).
Nói cách khác, những người cộng sản vô thần, nên họ
thực dụng hơn, cực đoan hơn, bạo lực hơn, nên họ đã thắng. Nhưng vấn đề là họ
sẽ dẫn đất nước đi đến đâu. Tại Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa cộng sản đã sụp
đổ cùng bức tường Berlin .
Tại Châu Á (như Trung Quốc, Việt Nam ) chủ nghĩa cộng sản chỉ tồn tại
như một cái vỏ (tư tưởng) với một cái ruột (kinh tế tư bản). Cuba đang thay
đổi. Bắc Triều Tiên là một ngoại lệ. Nhưng điều gì làm cho những người cộng sản
Trung Quốc và Việt Nam
vẫn cố thủ, không chịu đổi mới chính trị? Chỉ có thể lý giải rằng họ chịu ảnh
hưởng quá nhiều và quá lâu bởi hai luồng tư tưởng độc hại. Thứ nhất là tư tưởng
Nho giáo (hủ nho), và thứ hai là Mao giáo (cực đoan và bạo lực). Hệ lụy về ý
thức hệ này giống như hội chứng nhiễm độc lâu ngày, đã ăn sâu vào tiềm thức,
thậm chí có thể di truyền.
Vào những bước ngoặt lịch sử của cách mạng ở Pháp,
Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba… xu hướng cực đoan và bạo lực có sức hấp dẫn
đối với quần chúng, nên cách mạng dễ thành công. Không phải ngẫu nhiên mà những
nhà cách mạng có xu hướng cực đoan và bạo liệt ở Pháp như Louis Saint-Just
(1767-1794) và Jean-Paul Marat (1743-1793) hay ở Cuba như Che Guevara
(1928-1967) đã trở thành những huyền thoại, hấp dẫn nhiều thế hệ cách mạng
khuynh tả tại các nước thuộc thế giới thứ ba, nơi dân trí còn lạc hậu. Nó lý
giải tại sao một số nhà cách mạng Châu Á thế hệ đầu của một số nước Phương Đông
(như Hồ Chí Minh, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Pol Pot, Ieng Sary, Khieu
Samphan) lại thích Paris hay Moscow, và chịu nhiều ảnh hưởng bởi trào lưu cánh
tả của Pháp và Nga. Nó lại được nhân lên và nhiễm độc bởi chủ nghĩa Mao. Đến cả
Miến Điện (Myanmar )
cũng bị lây nhiễm. Hệ quả thế nào thì đã rõ.
Năm 1954, những người cộng sản Việt Nam (Việt Minh)
đã đánh thắng quân viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ, làm chấn động dư luận.
Năm 1975, những người cộng sản Việt Nam
(Việt Cộng) lại một lần nữa đánh thắng quân Mỹ và VNCH tại Miền Nam , làm cả thế
giới bị sốc. Sự kiện Sài Gòn thất thủ (30/4/1975) với những hình ảnh tượng
trưng được giải Pulitzer là nỗi ám ảnh của Chiến tranh Việt Nam . Nghịch lý
của cuộc chiến tranh đẫm máu đó đã để lại những bài học đau đớn cho cả Mỹ và
Việt Nam ,
mà nhiều cuốn sách và bộ phim tài liệu đã đề cập đến (nhưng vẫn chưa đủ). Hãng
phim tài liệu Florentine Films đang làm một bộ phim mới nhiều tập về Chiến
tranh Việt Nam ,
sẽ phát trên kênh PBS năm 2016 (The History and Meaning of the Vietnam War, by
Ken Burns & Lynn Novick).
Một lý do đơn giản mà Việt Minh hay Việt Cộng đã thắng
là họ cực đoan và bạo liệt, sẵn sàng “đánh đến người Việt cuối cùng”, không
phải chỉ với vũ khí của Trung Quốc và Liên Xô, mà còn với những vũ khí bí ẩn
khác như “đường mòn Hồ Chí Minh” và “địa đạo Củ Chi”. Chiến tranh du kích (kèm
theo cả khủng bố) là một học thuyết còn nhiều tranh cãi, nhưng nó đã làm cho
người Mỹ và Nga phải điên đầu tại Việt Nam ,
Afghanistan và Iraq .
Nhưng điều trớ trêu là những cuộc chiến đẫm máu đó có
thể là không cần thiết và là sản phẩm của sự nhầm lẫn về tư duy và tầm nhìn,
của những người tài giỏi nhưng cuồng tín. Lập luận rằng “chiến tranh không thể
tránh khỏi” thường chỉ để biện hộ cho sự cuồng tín và nhầm lẫn. Năm 1995,
Robert McNamara đã chính thức thừa nhận sai lầm trong cuốn sách của mình. Nếu
những người cầm quyền không cực đoan và cuồng tín, thì thế giới này sẽ bớt đi
nhiều mất mát và đau khổ. Nhưng đáng tiếc, Mỹ đã đổ bộ vào Đà Nẵng (1965) để
rồi tháo chạy khỏi Sài Gòn (1975), và 40 năm sau (2015) lại quay trở lại Việt
Nam ("Back to the Future"), khi Mỹ xoay trục sang Châu Á để ngăn chặn
Trung Quốc trỗi dậy “không hòa bình”. Lịch sử đang lặp lại.
Thứ ba: Cái giá qúa đắt của chiến tranh và bạo
lực
Cách mạng bạo lực và chiến tranh liên miên làm người
Việt được tôi luyện để giỏi chịu đựng và tồn tại (bằng mưu mẹo), nhưng đã để
lại những hệ quả khôn lường, rất khó đổi mới tư duy để phát triển (bằng tri thức).
Hay nói cách khác, kinh nghiệm và năng lực để tồn tại trong chiến tranh không
thể thay thế kinh nghiệm và năng lực để phát triển trong hòa bình. Khi giải
phóng Sài Gòn, thành phố may mắn còn nguyên vẹn. Nhưng các chiến sĩ giải phóng
trẻ đã phá hoại rất nhiều. Ủy ban Quân quản cũng không thể quản nổi. Không
trách được họ vì đó là bản chất chiến tranh, và họ chỉ là những người nông dân
cầm súng. Chẳng ai dạy họ phải hành xử như thế nào (như hai phe Nam ,
Bắc sau nội chiến Mỹ).
Nhưng điều đáng nói là chỉ vài năm sau chiến tranh,
tổng kho Long Bình và nhiều kho tàng khác tại Miền Nam đã trống rỗng, tài sản
trị giá hàng tỷ USD đã bị tẩu tán như đồng nát. Những sỹ quan thiện chiến có
thể là những người quản trị rất tồi. Đơn giản vì họ chỉ được đào tạo để bắn
giết và phá hủy, chứ không được đào tạo để quản trị kinh doanh. Đơn giản vì
Quân đội Nhân dân Việt Nam
không phải là Quân đội Israel
chuyên nghiệp (vừa giỏi chiến tranh, vừa giỏi quản trị). Chiến tranh nhân dân
chỉ cần những người giỏi chịu đựng, liều lĩnh và cuồng tín, sẵn sàng hy sinh và
nhắm mắt tuân lệnh, không cần tư duy. Vì vậy, hệ quả chiến tranh cũng khủng
khiếp không kém chiến tranh. Kiêu hãnh và ngộ nhận về chiến thắng đã làm nhiều
người mất trí, phải trả giá quá đắt trong vãn hổi hòa bình và tái thiết đất
nước thời hậu chiến. Không
những thế, quan hệ bạn thù truyền thống đã bị đảo lộn, vượt khỏi tầm kiểm soát,
đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mới, làm đất nước vốn đã bị hủy diệt bởi chiến
tranh Việt Nam, nay lại tiếp tục bị chảy máu đến kiệt sức bởi một cuộc xung đột
mới (Third Indochina War) giữa “anh em bạn thù” ("Brother Enemies").
Thuật ngữ này (của Nayan Chanda) miêu tả rất đúng bản chất quan hệ Việt-Trung,
trước kia thân thiết “như môi với răng”, rồi đột nhiên trở thành “kẻ thù nguy
hiểm nhất” (1979), đánh nhau chí chết rồi lại bá vai bá cổ nhau như đồng chí
“bốn tốt”, gắn bó bằng “16 chữ vàng” (1990). Đó là hệ lụy của tư tưởng Mao
giáo.
Trong khi đó, những người dân vô tội đã trở thành nạn
nhân, không phải chỉ của kẻ thù xâm lược từ bên ngoài, mà của cả sự cuồng tín
và ấu trĩ từ bên trong. Trong binh pháp người ta tối kỵ thế lưỡng nan bị kẹp
giữa hai kẻ thù lớn. Đó là khi kẻ thù cũ (Mỹ) và kẻ thù mới (Trung Quốc) bắt
tay với nhau, xô đẩy Việt Nam
vào vòng tay Liên Xô (một ông bạn khổng lồ nhưng chân bằng đất sét, đang trên
đà sụp đổ). Kết cục là Việt Nam
đã rơi vào cái bẫy nguy hiểm của Trung Quốc. Cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương
lần Thứ ba” là một thảm họa về địa chính trị và tầm nhìn chiến lược. Thất bại
về bình thường hóa với Mỹ (1978) đã dẫn đến chiến tranh với Trung Quốc (1979).
Đó là cái giá phải trả cho chiến thắng quân sự, cho thái độ kiêu ngạo và cố
chấp đối với kẻ thù cũ (Mỹ), cho thái độ quá khích và ấu trĩ đối với kẻ thù mới
(Trung Quốc). Đó là một sai lầm chết người, vì đã bỏ lỡ thời cơ chiến lược,
phải mất gần bốn thập kỷ sau mới có thể lặp lại. Liệu người Việt Nam có
bỏ lỡ cơ hội cuối cùng này không?
Không phải những người cộng sản cực đoan và cuồng tín
chỉ sai lầm về đối ngoại, mà còn sai lầm về đối nội. Chỉ trong mấy năm hậu
chiến, họ đã biến Miền Nam
từ một tài sản khổng lồ thành một đống đổ nát. Không những chỉ lãng phí vô cùng
về vật chất, mà họ còn lãng phí vô hạn về tinh thần và tài nguyên con người, xô
đẩy hàng trăm ngàn người phải bỏ quê hương ra đi trong tủi nhục. Tất cả là do
cực đoan, cuồng tín, bạo lực, cố chấp, và dân trí thấp. Như vậy thì làm sao dân
tộc có thể hòa giải, đất nước có thể tái thiết. Gs sử học Trần Quốc Vượng nhận
xét rằng từ người thắng đến kẻ thua, tất cả đều thất vọng (frustration).
Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, Mao nói
“Trí thức không bằng cục phân” và đầy đọa họ về nông thôn làm ruộng. Còn ở Việt
Nam ,
những người cộng sản cực đoan đã “đào tận gốc trốc tận rễ”. Người ta nói rằng
Việt Nam
chỉ có những người trí thức (intellectuals) mà không có giới trí thức
(intelligentsia). Đơn giản vì giới trí thức nhỏ bé đã bị “trốc tận rễ” bởi hệ
tư tưởng Maoism, cực đoan và cuồng tín (không khác gì Khmer Đỏ). Hệ lụy của Nho
giáo (hủ nho) và Mao giáo (cực đoan và cuồng tín) là vấn nạn kép đã dẫn đến
thảm họa “Cải cách Ruộng đất”, “Nhân Văn Giai phẩm”, “chống Xét lại và chống
Đảng”.
Nhiều trí thức cách mạng có tài năng xuất chúng, có
công lớn với chế độ như “khai quốc công thần”, nhưng đã bị hạ nhục và đối xử
tàn tệ chỉ vì bất đồng chính kiến. Nhẹ thì bị vô hiệu hóa, “ngồi chơi xơi
nước”, nặng thì bị lao tù, đến thân tàn ma dại. Đó là ông Nguyễn Hữu Đang, một
người tài hoa được cụ Hồ giao trọng trách “bất khả thi” là dựng lễ đài tại
quảng trường Ba Đình trong vòng 48 giờ, để cụ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Đó là ông
Lê Trọng Nghĩa, một người đầy bản lĩnh, đại diện cho Việt Minh đàm phán với các
sỹ quan chỉ huy quân đội Nhật tại Hà Nội, để hậu thuẫn cho khởi nghĩa, không bị
đổ máu. Đó là ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư đầu tiên của cụ Hồ từ khi mới đặt chân
về Hà Nội, đã giúp cụ Hồ vận động các trí thức hàng đầu tham gia chính phủ cách
mạng đầu tiên. Đó là nhiều người khác không thể kể hết tên, đã mang theo oan
khuất xuống âm phủ. Không biết cụ Hồ sẽ ăn nói với họ thế nào. Làm sao lý giải
được những khẩu hiệu như “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, chiêu hiền đãi
sỹ…”. Nhân ngày 19/8 và 2/9, hãy thành tâm thắp một nén tâm hương để tỏ lòng
tri ân với họ, để tự vấn lương tâm và cố gắng hòa giải với nhau, thì may ra mới
hòa giải được dân tộc.
Dưới thời Đặng Tiểu Bình, người Trung Quốc đã cải cách
quyết liệt, kêu gọi trí thức tham gia “ba đại diện” (vì “mèo trắng cũng như mèo
đen”). Ví dụ, họ trả lương trí thức cao hơn (nghe nói 10 ngàn USD/tháng cho
giáo sư đại học) và đầu tư lớn cho đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa thành “đẳng
cấp quốc tế” (world class). Người Việt cũng bắt chước, “định nghĩa lại trí
thức”, nhưng trả lương giáo sư đại học chỉ bằng lương công chức, nâng cấp Đại
học Quốc Gia thành một “siêu đại học” nhưng không thấy có tên trong bảng xếp
hạng các trường đại học trong khu vực. Dân trí như vậy thì phát triển làm sao
được? “Thoát Trung” thế nào được?
Một giáo sư Nhật (ông Kenichi Ohno) có lần đã nhận xét
rằng khi ông ta đến Việt Nam lần đầu thì rất là ấn tượng vì thấy các bạn Việt
Nam (quan chức và trí thức) say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng của đất
nước. Nhưng 5 năm sau trở lại Việt nam ông ta ngạc nhiên thấy các bạn Việt Nam vẫn say sưa
tranh luận về những vấn đề đó. Có lẽ vị giáo sư Nhật hơi khiêm tốn, chứ hiện
tượng đó kéo dài 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Vì vậy, không nên ngạc nhiên
khi người ta nói Việt Nam
thuộc nhóm nước “không chịu phát triển”. Trong khi thiên hạ đua nhau xây dựng
“kinh tế trí thức” (knowledge-based economy) thì người Việt đua nhau xây dựng
trụ sở, tượng đài hoành tráng (như Mộc Châu, Sơn La), đền chùa nguy nga (như
Bái Đính, Sóc Sơn), và tổ chức lễ hội linh đình (như một hội chứng tâm thần).
Thay cho lời kết: Cần nâng cao dân trí và hòa giải dân
tộc
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” không thể làm “thui
chột tương lai”. Một dân tộc hơn 90 triệu dân, có một lịch sử không tồi và một
văn hóa không kém, không thể bó tay quỳ gối chịu trói như “tù binh của quá
khứ”, với gánh nặng hệ tư tưởng lỗi thời trên lưng. Nếu không tự lập, tự cường,
thì không thể “thoát Trung”, không tránh được “Bắc thuộc”. Nếu không tự lập, tự
cường, thì tầm nhìn ASEAN hay Đông Á cũng vô nghĩa, “đối tác chiến lược” với Mỹ
và TPP cũng vô nghĩa. Người Mỹ có thể bênh vực kẻ yếu, nhưng chỉ phù kẻ mạnh.
Nếu chưa mạnh thì cũng phải có ý chí và nội lực để người khác tin cậy và tôn
trọng. Người ta nói rằng bạn có thể bịp được vài người, vào lúc nào đó, nhưng
không thể bịp được mọi người, mọi lúc.
Trước hết cần phải phản tỉnh để “giải độc” về hệ tư
tưởng, để thoát khỏi cái “bóng đè” của tư tưởng Khổng giáo (hủ nho) và Mao giáo
(cự đoan, bạo liệt). Thứ hai, không thể nâng cao dân trí, nếu trí thức (cả bên
trong và bên ngoài) không đi đầu để “phá băng”, mở đường và kết nối các phe
nhóm (chỉ thích cãi nhau) bằng “tư duy tích cực” (positive thinking) và “hành
động xây dựng” (constructionism). Thứ ba, chỉ có trên cơ sở đó, mới có thể kết
nối toàn dân, để “hòa giải dân tộc”, vì một nước Việt Nam Hòa bình, Hòa hợp,
Hòa thuận, Hòa giải…
22/8/2015
N.Q.D (Tác giả gửi
cho viet-studies)
------------
Tất cả đều có thể.
Trả lờiXóaNhưng những tổn thất xẩy ra gần 100 năm nay không thể được sửa chữa trong một vài ngày. Mọi người không chỉ cần kiên nhẫn mà còn phải biết từ bỏ cái TÔI hủ lậu, thậm chí hơi lang sói của ta đi
Đầu thế kỷ thứ 20 , có một học giả rất quan trọng: Học giả Nguyễn Văn Vĩnh ( 1882 - 1936 ) ông là một trong những người đầu tiên biết tiếng Pháp, đến đất Pháp từ năm 1906, một người có công lớn trong việc chuyền bá chữ quốc ngữ vào VN qua việc mở trường học, qua thông tin báo chí, ông là một NGƯỜI MAN DI HIỆN ĐẠI và ông một lòng quyết tâm khai phá một nền văn minh mới vào VN.
Trả lờiXóaRất tiếc, những người cộng sản bê học thuyết Marx - Le từ Liên Xô về nhồi sọ những người yêu nước lúc đó và vu cho ông ÔM CHÂN THỰC DÂN PHÁP.
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh mất quá sớm để lại bao nuối tiếc
Chúng ta rất tự hào có TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH.
Trả lờiXóaHãy theo học thuyết của ông để phát triển
Giống như các triều đình phong kiến cách đây 2 thế kỷ, ĐCS đã và đang là vật cản lớn nhất cho sự phát triển của VN do bám chặt vào Tàu; do khư khư ôm ấp và thi hành cái chủ nghĩa "hủ Marx"; do áp dụng chính sách độc tài đàn đàn áp khốc liệt những người cấp tiến, không theo CS; do khư khư giữ bộ máy quan liêu cồng kềnh và tham nhũng, do cấm báo chí tư nhân dưới mọi hình thức... Sao không chỉ thẳng ra như vậy mà cứ phải hỏi mãi lý do Nhật tiến bộ hơn VN? Sao cứ đem trí thức ra để mà khích bác rằng suốt ngày..."nhậu nhẹt xả láng" chả khác gì các ông đồ nho ngày xưa suốt ngày uống rượu ngâm thơ? Tại họ cả ư?
Trả lờiXóaLuật đảng trên luật Nước
Trả lờiXóathì trí thức mộng du
người tỉnh dễ vào tù
mù mờ được ưu ái
lâu dần thành vĩ đại
Ôi tương lai đuôi to !!!
Muốn Nước Nhà giàu có
phải bỏ luật đảng thôi.
Dân làm chủ cuộc đời
chọn những người tài giỏi
quản trị Đất Nước này
thì tương lai tươi sang.
Hay!
XóaNhững người đại diện cho ĐCS hiện nay thực chất đã quá hiểu bọn Tầu, không chỉ vì Chủ nghĩa Marx Lê đã thất bại trên quê hưởng sản sinh ra nó, mà còn bởi vì ngay trên đất TQ hiện nay, bọn chóp bu CS đang chém giết lẫn nhau tàn bạo hơn cả bày thú giữ....Thế nhưng, gần 100 năm, giới chóp bu CSVN đã quen đi theo lối mò, đã đào tạo ra một lớp tay chân dốt nát, tham lam và hết sức tàn bạo....Lúc này muốn thay đổi họ không biết thay đổi từ đâu?
Trả lờiXóaVà.... Có lẽ cái khó nhất lúc này là tầng lớp "Đại gia rởm" đã quen làm giầu bằng những thủ đoạn đê hèn, bọn này đã quen chi phối xã hội vốn trì trệ mà đang rất cần những đòn bẩy mạnh mẽ điều khiển trở lại một mặt áp đảo ngăn chặn những việc làm vô nhân đạo, mặt khác là khơi gợi "Lòng nhân".
Cộng sản còn độc quyền thì đừng mong gì phát triển => vì phát triển là kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa cộng sản !
Trả lờiXóaĐược suy nghĩ và suy nghĩ được những điều này là tín hiệu đáng mừng.
Trả lờiXóaNếu có lòng thành sẽ làm được tất cả
VN còn có trí thức không? Tại sao có thằng cha trí thức "nguy hiểm" nói "Trẻ em đi qua mảnh thủy tinh không nguy hiểm"?!
Trả lờiXóaChủ nghĩa Mark-Lê đã thất bại ngay tại nơi nó sinh ra , còn ở VN và TQ thì đang bị lợi dụng để làm mặt nạ hòng đánh lừa dân và che đạy những bộ mặt bẩn thỉu . Nó là mảnh đất cực kỳ tốt cho chủ nghĩa phong kiến kiểu châu á phát triển và dưới quyền cai trị của đám ít học nhưng nhiều mưu mô hiểm độc tàn ác. Thực tế , ngay cả nhưng người suốt ngày tung hô vạn tuế cho tư tưởng Mark-Lê cũng chẳng hiểu gì về thứ CN này. Họ đang bảo vệ cho quyền lợi của số ít trong chính họ và đám thuộc hạ. Nếu tước bỏ hay hạn chế mạnh mẽ những quyền lợi này , tự họ sẽ không còn động lực và có khi còn phá bỏ nó đi.
Trả lờiXóaNặc danh 08:47 phát biểu chính xác và sâu sắc !
Trả lờiXóa