Riêng theo kế hoạch lập quy hoạch năm 2012 do các Bộ,
ngành và địa phương đề xuất thì ngân sách cần phải chi tới 5.140 tỷ đồng cho
2.604 dự án quy hoạch.
LTS: Từ
trận lũ ở khu mỏ Quảng Ninh, đến việc xây dựng một dự án mới, triển khai chính
sách kinh tế - phát triển… đều động đến một vấn đề đang và sẽ còn tồn tại: quy
hoạch.
Xuất phát từ
những hạn chế, yếu kém về công tác quy hoạch, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã soạn
thảo và đưa ra lấy ý kiến dự thảo Luật quy hoạch.
Tuần Việt Nam giới thiệu góc nhìn của GS-TS
Đặng Hùng Võ về vấn đề này.
Quy hoạch
không nhất quán
Hãy lấy một ví dụ điển hình, dăm năm trước đây Nhà
nước đã phê duyệt quy hoạch đất trồng cà phê ở mức 400 nghìn ha. Khi giá cà phê
dâng cao trên thị trường đã làm cho nông dân đã tự mở rộng diện tích cà phê lên
tới 500 nghìn, rồi 600 nghìn ha, thế là quy hoạch đất trồng cà phê lại phải
điều chỉnh mở rộng theo thực tế. Trong khi đó, quy hoạch sử dụng đất chỉ quan
tâm tới đất trồng cây lâu năm thôi và cho phép người nông dân được tự chuyển
đổi cơ cấu trồng cây lâu năm theo thị trường.
Như vậy, giữa các loại quy hoạch không hề nhất quán và
quy hoạch đất sản xuất là không cần thiết. Vậy vì sao mà ngành sản xuất cà phê
nói riêng, và các ngành sản xuất hàng hóa nói chung vẫn cứ thích Nhà nước phê
duyệt quy hoạch cho mình trong khi quan hệ cung - cầu trên thị trường đóng vai
trò quyết định. Vấn đề là các cán bộ quản lý chưa đổi mới tư duy và chưa muốn
đổi mới tư duy về quy hoạch khi kinh tế đất nước đã chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung (bao cấp) sang cơ chế thị trường.
Trong kinh tế bao cấp, quy hoạch - kế hoạch là công cụ
để điều khiển các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Cái gì có trong quy
hoạch, kế hoạch mới được làm và các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước có quyền
lực trong dàn dựng kế hoạch hóa. Các nhà kinh tế học gọi đây là nền kinh tế có
điều khiển.
Ngược lại, kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều
chỉnh theo các quy luật của thị trường, kế hoạch hóa không còn đóng vai trò
điều khiển nền kinh tế nữa và vai trò của quy hoạch cũng đã thay đổi. Nhà nước
chỉ quy hoạch những yếu tố có tác động chung tới toàn xã hội như sử dụng các
nguồn lực công, phát triển hạ tầng và dịch vụ công.
Lúc đó, quy hoạch được hiểu theo nghĩa xây dựng kịch
bản sử dụng không gian lãnh thổ sao cho hiệu quả và bền vững nhất. Xây dựng quy
hoạch cần có sự tham gia của tất cả các bên có quyền và lợi ích liên quan,
trong đó nhân dân là yếu tố tham gia quan trọng nhất. Nói cách khác, vai trò
của quy hoạch - kế hoạch đã thay đổi hoàn toàn khi chuyển đổi cơ chế kinh tế từ
bao cấp sang thị trường.
Từ năm 1991, Nhà nước Việt Nam đã quyết định xóa bỏ kinh tế
bao cấp và áp dụng cơ chế kinh tế thị trường. Một số thể chế kinh tế đã thay
đổi phục vụ cho sự phát triển của cơ chế thị trường, nhưng tư duy bao cấp vẫn
còn tồn dư khá nặng nề trong bộ máy quản lý, nhất là trong quản lý quy hoạch -
kế hoạch. Theo thói quen quản lý hiện nay, dự án hay công trình nào đã đưa được
vào quy hoạch, kế hoạch thì mới được duyệt, được cấp vốn từ ngân sách. Thế là
quy hoạch nở rộ, chồng chéo, thiếu tính hệ thống, thiếu nhất quán giữa các cấp,
các ngành.
Về mặt pháp luật, đến 2012, cả nước đã có tới 56 văn
bản luật và 47 nghị định của Chính phủ liên quan tới quy hoạch gồm các loại quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội (0 Luật và 1 Nghị định); quy hoạch
phát triển ngành, lĩnh vực (32 Luật và 22 Nghị định); quy hoạch sử dụng đất đai
và tài nguyên thiên nhiên (6 Luật và 5 Nghị định); quy hoạch xây dựng và quy
hoạch đô thị (4 Luật và 9 Nghị định); quy hoạch các lĩnh vực xã hội (12 Luật và
9 Nghị định); quy hoạch môi trường (2 Luật và 1 Nghị định).
Nhìn vào số lượng và thể loại có thể hình dung ngay
được sự rộng khắp về quy hoạch, tình trạng chồng chéo là hệ quả đương nhiên.
Mặt khác, vẫn còn tồn tại các khoảng trống không có quy hoạch. Ví dụ, quy hoạch
sử dụng đất không có hạng mục quy hoạch sân Golf, nên khi thấy các địa phương
đua nhau làm sân Golf thì Thủ tướng Chính phủ phải phê duyệt riêng quy hoạch
sân Golf cho cả nước.
Về chi phí lập quy hoạch, riêng theo kế hoạch lập quy
hoạch năm 2012 do các Bộ, ngành và địa phương đề xuất thì ngân sách cần phải
chi tới 5.140 tỷ đồng cho 2.604 dự án quy hoạch, trong đó 167 dự án thuộc thẩm
quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, 180 thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng và
2.257 thuộc thẩm quyền của lãnh đạo địa phương. Nếu phân tích theo tính chất
của quy hoạch thì quy hoạch lãnh thổ và vùng có 264 dự án yêu cầu kinh phí 531
tỷ đồng, quy hoạch các ngành có 2.340 dự án yêu cầu kinh phí 4.609 tỷ đồng.
Nhìn vào số lượng dự án và mức kinh phí đòi hỏi có thể thấy ngay là quá lãng
phí, nhất là phân tích sâu về chất lượng quy hoạch thì mức lãng phí còn cao hơn
nhiều.
Về thể chế quy hoạch, các bước thực hiện từ khâu phê
duyệt chủ trương lập quy hoạch, tổ chức xây dựng quy hoạch, thẩm định quy
hoạch, phê duyệt quy hoạch, thực hiện quy hoạch và giám sát quá trình thực hiện
trong các loại quy hoạch đều không thể hiện tính nhất quán. Các quy định rất
không thống nhất về thẩm quyền, tính độc lập giữa các khâu, sự tham gia của
cộng đồng và cơ chế bảo đảm chất lượng quy hoạch. Về nội dung các loại quy
hoạch cũng thể hiện sự thiếu nhất quán, kể từ khái niệm quy hoạch, phạm vi điều
chỉnh về không gian và thời gian, cho tới loại hình, cấp độ quy hoạch.
Cần làm gì?
Nói về chất lượng quy hoạch, cách thức xây dựng quy
hoạch ở Việt Nam chưa dựa trên những nguyên tắc chuẩn mực về chia sẻ lợi ích và
rủi ro giữa các bên tham gia vào bài toán quy hoạch, về giải bài toán chi phí -
lợi ích trong quy hoạch. Tư duy về quy hoạch vẫn tập trung vào nguyên tắc tạo
dựng công cụ quản lý của Nhà nước mà đa số trường hợp chỉ mang tính hình thức,
hướng theo lợi ích của giới quản lý của Nhà nước.
Thực trạng này dẫn tới quy hoạch chạy theo tư duy
nhiệm kỳ của lãnh đạo và thiếu sự tham gia của các bên ngoài nhà nước. Thường
là quy hoạch hay mang tính "lãng mạn" của người đứng đầu cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch xong thường hay bị "treo" vì không đủ
nguồn lực để thực hiện "bức tranh quy hoạch rất lãng mạn" đã được phê
duyệt.
Tình trạng này tạo nên ngữ cảnh phải thường xuyên điều
chỉnh quy hoạch. Việc lấy ý kiến của nhân dân thường không gắn với minh bạch
thông tin và trách nhiệm giải trình của các cán bộ nhà nước. Tiếp theo, cơ chế
giám sát của nhân dân đối với thực thi quy hoạch cũng gần như chưa được thể chế
hóa, người dân có phát hiện sai sót gì thì cũng không biết nói với ai.
Vậy cần làm gì để đổi mới tích cực công tác quản lý
quy hoạch?
Thứ nhất, cần tạo dựng khung pháp luật và thể chế thống nhất
về quy hoạch sao cho bảo đảm tính hệ thống, nhất quán đối với mọi loại quy
hoạch, trong đó cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước và sự tham gia của người dân, doanh nghiệp. Việc cố nắm giữ quyền lực về
quy hoạch của các Bộ, ngành, địa phương cần được xem xét khoa học và quyết định
mạch lạc. Hy vọng, Luật Quy hoạch sẽ được Quốc hội xem xét hoàn thành được sứ
mệnh khó khăn này.
Thứ hai, cần xác định rõ đối tượng nào cần quy hoạch và không
cần quy hoạch trong cơ chế thị trường để không còn lãng phí, chồng chéo, khoảng
trống trong quy hoạch. Theo hướng này, quy hoạch cần tập trung vào quy hoạch
không gian gắn với sử dụng các nguồn lực công vì mục đích công.
Thứ ba, cần thay đổi phương pháp xây dựng quy hoạch,
cần dựa chủ yếu vào phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chia sẻ lợi ích,
rủi ro giữa các bên có quyền và lợi ích liên quan để quy hoạch trở thành lời
giải của bài toán phát triển bền vững.
Thứ tư, quy hoạch phải được xây dựng trên hệ thống
thông tin địa lý với dữ liệu địa lý quốc gia thống nhất, chính xác và được cập
nhật, đóng vai trò hệ thống trợ giúp con người ra quyết định về phát triển.
Thứ năm, trong chuỗi quy trình từ lập, thẩm định, phê
duyệt, thực hiện, giám sát trong quy hoạch cần được xác định trên nguyên tắc
bảo đảm tính độc lập cao nhất với sự tham gia thực chất của tất cả các bên có
liên quan. Ví dụ như cần trao việc lập quy hoạch cho giới chuyên môn, trao việc
thẩm định cho các hiệp hội nghề nghiệp, việc phê duyệt thuộc thẩm quyền của các
cơ quan nhà nước, việc giám sát cần trao cho doanh nghiệp, người dân và các tổ
chức xã hội.
Thay đổi tư duy về quy hoạch thường là khâu khó khăn
nhất ở tất cả các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Dù khó nhưng vẫn phải quyết
tâm làm để phát triển được bền vững và dễ dàng thoát nhanh khỏi cái bẫy thu
nhập trung bình.
Gs.Ts.
Đặng Hùng Võ/VnN
------------
Cái gì cũng bày ra, đẻ thêm, tạo cớ mà ăn, khui móc cho cạn kiệt ngân khố quốc gia. Đó là thành công lớn của nền "kinh tế....định hướng XHCN" !!
Trả lờiXóaVì đã một thời có dính dáng đến ngành quy hoạch, tôi xin trình bày ngân sách quy hoạch được phân bổ như sau:
Trả lờiXóaSau khi ký hợp đồng ( dù gia trị hợp đồng lớn đến đâu ) thì
- Giành 40% cho bộ phần GIÁN TIẾP. ( Bộ phận này không làm gì cả, chạy đi chạy lại, tổ chức các cuộng họp và phán ba lăng nhăng.)
- Giành 30% cho bộ phận phục vụ và điều tra khảo sát ( Thực tế không khảo sát gì mà đi mua tài liệu cũ về chế biến lại )
- 30% còn lại giành cho bộ phận sản xuất, trong đó Ban chủ nhiệm đề tài giữ lại MỘT NỬA để tiếp khách.
Vậy thực chất những người làm việc này chỉ thu được 15% mà phải chi phí mọi thứ trên đời thì làm sao quy hoạch có chất lượng?
Nhưng không sao.
Hôm nay Quy hoạch xong
Ngày mai lại QUY HOẠCH BỔ SUNG.
Chán ngấy!
Trả lờiXóaVay ra quan chuc VN linh luong de ngoi choi va hanh dan
Trả lờiXóaCon lam viec thi phai tra cong theo cong viec qua gia tu ban giay chet
That dung la thien duong XHCN (thao nao coment cua bon nay rat chay coi nhu khong co oc vay)
Quy hoạch: chúng ta có luật quy hoạch đô thi 2009, những vấn đề khác chưa thấy có luật quy hoạch. Nhưng quy hoạch là cái gì thì những người có học (soạn thảo từ điển chẳng hạn) không biết, không có trong từ điển. Những người làm phiên dịch (ví dụ khi dịch sang tiếng Anh) thì: lúc thì dịch là planning, người thì dịch là zonning. Vậy thì người dân bình thường biết nó là cái gì đâu! Trong bài này ông ĐHV cho rằng: quy hoạch được hiểu theo nghĩa xây dựng kịch bản sử dụng không gian lãnh thổ sao cho hiệu quả và bền vững nhất. Vậy quy hoạch cán bộ là gì? Tóm lại: Quy hoạch là cái người ta nghĩ ra cho có việc, để tiêu tiền chùa, là từ sáo rỗng để lòe bịp. Nó cũng tương tự như chủ nghĩa công sản, chủ nghĩa xã hội, người dân chẳng biết nó là cái gì mà phải trải qua thực tế rồi mới biết.
Trả lờiXóaTrời ơi cái gì cũng yếu kém! Vậy thì cái ghế của các ngài cũng tồn tại chẳng được lâu nữa đâu! Khổ ngời dân VN quá thôi!
Trả lờiXóa"nhưng tư duy bao cấp vẫn còn tồn dư khá nặng nề trong bộ máy quản lý"
Trả lờiXóaCòn định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa thì còn tư duy bao cấp . Hễ chêm XHCN vô chỗ nào, chỗ nấy nát như tương ngay đấy mà .
Bản thân ông Đặng Hùng Võ viết về bài quy hoạch cũng không phân biệt nổi khái niệm planing và plan. Trên thế giới chỉ có Việt Nam và Lào làm quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội .
Trả lờiXóaĐúng. Thường dốt hay nói, bạn ạ.
Xóatại sao dân lầm than
Trả lờiXóamẹ đốt con vì bán vé số ế:
thuế phải nuôi toàn bộ chính quyền, còn phải nuôi đảng và các hội ăn theo như đoàn tncshcm, hội pn,
boxit đầu tư tỉ usd đào lên bán vẫn lỗ
dùng công nghệ tq đi đốt than làm điện để rồi ung thư
xe bus tphcm trợ cấp cả nghìn tỉ/ năm chẳng mấy ai đi
điện phải mua tq giá cao không biết làm gì, giấu thông tin