Để đất nước
phát triển, con người cần không gian tự do sáng tạo. Do đó, trong một xã hội
dân chủ, về nguyên tắc không gian tự do cần tương đối rộng và ngược lại những
hạn chế quyền tự do phải tương đối hẹp.
Quyền con
người trong Tuyên ngôn độc lập 1945…
Ngay trong những ngày đầu của nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa độc lập, cụ thể ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Ngày
nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Hồ Chí Minh cũng đã thể hiện rõ tư tưởng bảo đảm quyền
tự do của nhân dân trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. Ngay từ những
câu đầu tiên, Người đã trích dẫn những “lời bất hủ” (nguyên văn chữ dùng của
Bác) trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson soạn
thảo: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Người còn nhắc lại Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 như một sự lên án đanh thép tội ác của thực
dân Pháp đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước
ta, áp bức đồng bào ta… tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào… thi hành những luật pháp dã man”.
Tại sao Người lại nhấn mạnh trong Tuyên ngôn độc lập
một tư tưởng từ tuyên ngôn độc lập và dân quyền của các quốc gia tư bản? Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trả lời ngay trong Tuyên ngôn độc lập 1945: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Hồ Chí Minh đã phân biệt rạch ròi giữa chế độ chính trị của một quốc gia và
chân lý, giá trị phổ quát của nhân loại.
Thật vậy, các quốc gia dù khác nhau về chế độ chính
trị đều phải hướng tới mục tiêu bảo vệ các quyền và tự do căn bản và đem lại
cuộc sống hạnh phúc cho người dân.
Ba năm sau Tuyên ngôn độc lập của VNDCCH và cũng là ba
năm sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc,
thông qua bản Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền con người 1948 (Universal
Declaration of Human Rights), cũng đã nhấn mạnh ngay từ đầu: “Sự công nhận
nhân phẩm của mọi người trên toàn thế giới và các quyền bình đẳng không thể
tước đoạt của họ chính là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế
giới”.
Trải qua bao xương máu của nhân loại, đặc biệt từ đau
thương của Chiến tranh thế giới thứ hai, Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền con người
đúc kết: “Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành
động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong
đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo
sợ hãi và nghèo khó, phải được coi là ước vọng cao nhất của con người”.
Đến Hiến
pháp 1946…
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam đã khẳng định
ngay trong lời nói đầu ba nguyên tắc căn bản của Hiến pháp là: “Đoàn kết
toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các
quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.
Suy cho cùng, đây cũng chính là nguyên tắc “nhà nước của dân, do dân, vì
dân” do Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đúc kết (“Government of the
people, by the people, for the people, shall not perish from the Earth”).
Lời nói đầu Hiến pháp 1946 cũng nhắc nhở chúng ta rằng
“chủ quyền cho đất nước” và “tự do cho nhân dân” luôn song hành. Điều đó thể
hiện triết lý sứ mệnh của một nhà nước có chủ quyền không gì khác nhằm “đảm bảo
các quyền tự do dân chủ” cho nhân dân. Tiếp đó, Chương II đã long trọng tuyên
bố sự công nhận và cam kết bảo đảm các quyền con người phổ quát. Nhìn một cách
tổng thể, Hiến pháp 1946 đã thể hiện những tư tưởng chính trị-pháp lý tiến bộ
và hoàn toàn có thể là điểm sáng so với các hiến pháp cùng thời trên thế giới.
…và Hiến
pháp 2013
Hiến pháp hiện hành tiếp tục khẳng định “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1 Điều 2) và “Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 3).
Như vậy, Hiến pháp 2013 đã thể hiện triết lý quyền con
người không phải do nhà nước ban phát mà các quyền do “tạo hóa” sinh ra gắn với
mỗi người. Theo đó, quyền con người phải được Nhà nước “công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm”.
Trong số các quyền con người được Hiến pháp ghi nhận
và bảo vệ, chỉ có một số ít quyền tuyệt đối, tức không bị giới hạn trong bất kỳ
trường hợp nào. Quyền được tôn trọng về nhân phẩm, trong đó bao gồm quyền không
bị làm nô lệ, quyền không bị tra tấn và đối xử một cách tàn ác, được phần đông
thừa nhận mang tính tuyệt đối, không thể bị hạn chế.
Ngoài những quyền tuyệt đối, các quyền còn lại đều có
thể bị giới hạn ở những mức độ khác nhau. Sự giới hạn quyền là hiện tượng bình
thường và phổ biến ở mọi quốc gia.
Tuy vậy, việc hạn chế này không được tùy tiện và phải
tuân theo những nguyên tắc. Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền con người 1948, văn
bản được coi là kết tinh của tinh hoa và chuẩn mực toàn cầu, đã quy định nguyên
tắc giới hạn quyền con người này tại Điều 29: “Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người chỉ phải chịu những
hạn chế do luật định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng quyền, và
quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính
đáng về đạo đức, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân
chủ”.
Tiếp thu tư tưởng này, Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng” (khoản 2, Điều 14). Đây là bước tiến lớn trong tư duy
lập hiến ở Việt Nam .
Nguyên tắc này đảm bảo một không gian hợp lý để công
dân “tự do” thực hiện quyền của mình, miễn là không lấn vào những phần bị nhà
nước “hạn chế”. Thời đại ngày nay, mọi quốc gia giống nhau ở chỗ đều công nhận
các quyền và tự do cơ bản, chỉ khác nhau ở phạm vi các quyền bị giới hạn và
phương pháp đặt ra vùng bị giới hạn đó.
Nhằm thực hiện khoản 2 Điều 14 Hiến pháp một cách đúng
đắn, trước hết, việc nhà nước
giới hạn các quyền công dân phải được quy định bằng pháp luật rõ ràng và
minh bạch và có lý do chính đáng – tức nhằm bảo vệ quyền của người khác và
lợi ích chung của xã hội. Đối với những quyền mà việc thực hiện nó không làm
ảnh hưởng đến người khác và lợi ích chung của xã hội, các nhà nước không có lý
do chính đáng để hạn chế. Chẳng hạn, nhà nước không cần can thiệp vào những
việc như người dân treo tranh gì trong nhà, nhưng có quyền hạn chế số tầng của
ngôi nhà nhằm đảm bảo mỹ quan đô thị hay an toàn xây dựng.
Thứ hai, việc hạn chế quyền phải phù hợp với mục tiêu.
Chẳng hạn, nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, nhà nước có thể phạt tiền
người vi phạm luật chứ không thể cấm người dân sở hữu xe. Ngoài ra, việc hạn
chế quyền cần vừa đủ nhằm đạt được mục tiêu. Ví dụ, nhằm răn đe người vượt đèn
đỏ, việc phạt tiền nghiêm khắc là đủ mà không cần phải phạt tù; nhưng đối với
người uống rượu lái xe, phạt tù ngắn hạn là phù hợp.
Thứ ba, lợi ích của việc hạn chế quyền phải lớn hơn thiệt hại
do việc hạn chế đó gây ra. Có thể lấy bài học về quyền tự do kinh doanh làm thí
dụ. Thời bao cấp, quyền tự do kinh doanh bị hạn chế khá lớn, đã kìm hãm nền
kinh tế. Theo đó người dân chỉ có thể tham gia kinh doanh tập thể của nhà nước
mà không thể thành lập doanh nghiệp tư nhân. Điều này chứng minh việc hạn chế
quyền không hợp lý, trái với quy luật phát triển sẽ không đem lại lợi ích mong
đợi.
Kể từ đổi mới kinh tế, người dân được mở doanh nghiệp
tư. Về tổng thể, khi tự do của người dân được giải phóng, của cải xã hội được
tạo ra nhiều hơn và có chất lượng tốt hơn thời tập trung quan liêu bao cấp.
Tóm lại, mỗi nhà nước muốn hạn chế quyền công dân cần
tính đến tính chính đáng, tính phù hợp và tính ích lợi xã hội. Khoản 2 Điều 14
Hiến pháp phải là kim chỉ nam cho việc xây dựng các luật liên quan mật thiết
đến quyền và tự do cá nhân như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật
tiếp cận thông tin, Luật lập hội, Luật biểu tình, Luật tôn giáo.
Quyền con
người và nhà nước kiến tạo phát triển
Để phát triển, quốc gia cần phải phát huy tiềm lực con
người. Muốn vậy, con người cần không gian tự do sáng tạo. Do đó, trong một xã
hội dân chủ, về nguyên tắc không gian tự do cần tương đối rộng và ngược lại
những hạn chế quyền tự do phải tương đối hẹp.
Tất nhiên, mối tương quan giữa tự do-hạn chế này khác
nhau giữa các quốc gia và cũng khác nhau giữa các quyền. Nền pháp quyền hiện
đại luôn đòi hỏi một “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói
đầu Hiến pháp 1946 nêu trên) phải viện dẫn lý do chính đáng và tính toán những
lợi ích xã hội khi muốn hạn chế tự do của người dân. Thực hiện đúng đắn Khoản 2
Điều 14 Hiến pháp là một chỉ số của nhà nước kiến tạo phát triển.
B.T.Đ (Giảng viên
Khoa Luật-ĐHQGHN, NCS Đại học Macquarie , Australia )/Tuần Việt Nam .
-------------
TRong các xã hội độc tài độc đảng,đặc biệt là độc tài cộng sản,con người phải trở thành con cừu, nếu không biến thành con cừu thì phải bị tù tội giam cầm,bị sách nhiễu đủ điều,khó lòng mà sống được bình yên !
Trả lờiXóaBà Phạm Lan Chi nói: "Đất nước không chịu phát triển!".
Trả lờiXóaBà này không sợ bị gán là "thế lực thù địch" a?
Thôi lý thuyết nhiều mà làm gì. Chế độ này có tự do. Được chưa?. Chỉ có điều một số người có tự do hơn một số người khác (Animal Farm) thì đã đành. Một số người (tự nguyện) mất tự do lại bắt người khác cũng phải mất tự do như mình, nên mới thành câu chuyện "Tự do ở Việt Nam". Ai cũng nói phải hy sinh quyền lợi cá nhân vì quyền lợi tập thể; nhưng mà là nói cho nười khác, không phải nói cho mình. Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt. Giả dối quen thân rồi!
Trả lờiXóaỞ các nước văn minh,Hiến pháp là bộ luật tối cao, ai cũng phải tuân theo. Ở xứ man ri mọi rợ, Hiến pháp là mớ giấy lộn để lừa những người dân đen ngây thơ và thất học!
Trả lờiXóaHành hung thân nhân người bất đồng chính kiến, một kiểu ném đá giấu tay hèn hạ của giới cầm quyền csVN:
Trả lờiXóahttp://danlambaovn.blogspot.com/2015/08/truy-lung-viet-gian-tay-sai-cong-san-ac.html
Cứ nói "tự do" chung chung thì ai mà chả nói được? Con người phải được Tự do , là gì: tự do ngôn luận , tụ do báo chí, tự do lập hội...Mới chỉ là tự do ngôn luận thôi , mới đây đã có một người ở Nghệ An bị bỏ tù vị tội "nói xấu lãnh đạo" ! Vậy đã tự do chưa ? Nếu "xấu giả" thì cây ngay sợ gì chết đứng mà lo "nói xấu" ? Nếu "xấu thật" thì sao lại bắt người ta? Rõ là lạm dụng quyền lực !
Trả lờiXóaHôm nay cả nước có 18.200 người tù được trả tự do, nhưng không có một người Tu Lương Tâm nào, lý do rất đơn giản là không một người nào chịu viết đơn xin ân xá.
Trả lờiXóaNhư thế nghĩa là không một ai thừa nhận mình có tội và không một ai chịu hứa rằng "Nếu được về tôi hứa sẽ.... "
Tức là không ai chịu ra khỏi NHÀ TÙ NHỎ ĐỂ VỀ VỚI NHÀ TÙ LỚN.
Nhưng rồi chính quyền cộng sản cũng sẽ phải trả tự do cho họ vì những cuộc mặc cả khác.
Đất nước chỉ có thể có tự do khi không còn ĐCS
Quá chính xác, nếu để người dân phải tự vùng lên giành lấy tự do thì những kẻ cầm quyền của đảng csVn ắt sẽ phải vào tù.
Trả lờiXóaNgu thì cứ tham và ngoan cố câu giờ.
Đứng là "đất nước muốn phát triển,con người (dân)
Trả lờiXóaphải được tự do" nhưng xin tác giả nên tập trung mà
phân tích và đối chiếu với VN.từ 1945 xem thử ra sao,
chứ cứ nói lý thuyết mà không nhìn vào thực tế thì VN.
vẫn dẫm chân tại chổ hay nói như người nước ngoài,
theo lời thuật lại của bà PCLan rằng VN.là đất nước...
không chịu phát triển ! Cực kỳ phi lý ở chổ đó !
phát triển
tại chổ
Thế nào là TỰ DO?
Trả lờiXóaHôm nay anh hùng lấn biển Đoàn Văn Vươn được ân xá, về với gia đình.
Anh Vươn phạm tội gì?
Là một cựu chiến binh, anh đi học Đại học NN Hà Nọi và nhận được bằng Kỹ sư.
Anh được hưởng quyền TỰ DO THỨ NHẤT.
Có bằng kỹ sư, lại là một cựu chiến binh, anh có thể đi làm hưởng lương tháng vài ba triệu gì đó.
Nhưng từ chối đi làm công ăn lương, anh về nhà tổ chức anh em trong gia đình lấn biển dựng đầm tôm kiếm sống.
Anh được hưởng quyền TỰ DO THỨ HAI..
Khai hoang phục hóa, anh tạo dựng khu đầm tôm rộng ngót 40ha, thiếu vốn, anh đi vay hơn 3 tỷ đồng be bờ làm đường .... khu đầm tôm của anh trở thành khang trang có triển vọng nhất vùng. Bạn bè trong nước và quốc tế đến tham quan và ca ngợi anh, anh re[r thành ANH HÙNG LẤN BIỂN.
Đây là TỰ DO THỨ BA
Đầm tôm của anh đã trở nên khang trang, ngon mắt, bắt đầu có thu nhập, hứa hẹn một tương lai trù phú.... Anh bị dòm ngó và BỊ CƯỠNG CHẾ THU HỒI ĐẦM TÔM GIAO CHO KẺ KHÁC.
Không thể chống lại được, anh đã phản ứng quyết liệt....
Và anh bị bắt.
Anh bị MẤT TỰ DO VỚI CÁI ÁN GIẾT NGƯỜI.
Hôm nay anh trở về.
Anh sẽ có TỰ DO hay không ?
Nhân việc bạn Dân Lương thiện nhắc tới chuyện anh Đoàn Văn Vươn, không biết có ai chú ý tới sự thật này không?
Trả lờiXóaThủ tướng Chính phủ cũng phải thừa nhận và kết luận rõ ràng là những kẻ xâm phạm tài sản của anh Vươn đã hành động "trái luật pháp và trái đạo lý", hay nói thẳng ra rằng đó là một LŨ CƯỚP "chính hiệu"!
Anh Vươn,một công dân gương mẫu dũng cảm đứng ra chống lại bọn cướp được vũ trang đến tận răng. Lẽ ra phải ghi công anh Vươn vì anh đã góp công làm lành mạnh hóa cái xã hội vốn đã thối nát đến mức vô phương cứu chữa.
Vậy mà tòa án của "nhà nước CHXHCN Việt nam" (nhân danh "nhân dân VN) lại kết tội anh Vươn "dám" chống lại "người thi hành công vụ"!
Té ra BỌN CƯỚP khi cướp bóc nhà anh Vươn là đang "làm việc nước" (không hiểu tại sao Dương Chí Dũng lại bị bắt, mặc dù hắn cũng ăn cắp với cương vị cán bộ cấp cao của nhà nước khi đang thực hiện "nhiệm vụ" của đảng và nhà nước giao phó!)
Ối trời cao đất dày ơi! Làm sao để phân biệt PHẢI, TRÁI, TRẮNG, ĐEN ở cái xứ VN khốn khổ này bây giờ?
Thủ tướng Chính phủ cũng phải thừa nhận và kết luận rõ ràng là những kẻ xâm phạm tài sản của anh Vươn đã hành động "trái luật pháp và trái đạo lý"?
XóaSau đó Thủ tướng Chính phủ thăng chức tướng cho Ca vì có "trận đánh (dân) đẹp"!
ở VN, dân chỉ có quyền ...làm con cừu kêu be be "nhờ ơn bác và đảng"
Trả lờiXóa