Trường
hợp Nguyễn Du: Văn học trung đại từ chủ nghĩa dân bản đến chủ nghĩa nhân bản
(Về ý nghĩa hiện đại của Nguyễn Du)
* TRẦN NHO THÌN
Lịch
sử tiếp nhận Truyện Kiều cho thấy mỗi thời đại, mỗi thế hệ lại tìm
thấy ở tác phẩm này một vấn đề nổi bật, phù hợp với thời đại mình. Các nhà nho
trong thế kỉ XIX tâm đắc với thuyết tài mệnh tương đố. Đầu thế kỉ XX, những trí
thức Tây học muốn xây dựng một nền quốc văn mới đã tìm thấy ở tiếng Việt văn
học của Truyện Kiều sự cổ vũ to lớn.
... Nhận thức về con người là một vấn đề có tính lịch sử. Nhận thức này
đã diễn ra trong văn học trung đại như là một quá trình quan sát
con người, lúc đầu từ góc độ con người “thần dân”, như là đối tượng thuần túy
của hoạt động chính trị, cuối cùng đi đến chỗ nhìn nhận con người như là một
đối tượng của chủ nghĩa nhân bản, con người “tự nó”. Nguyễn Du là trường hợp
điển hình nhất cho chặng cuối, là người đánh dấu sự hoàn thiện của ý thức về
con người nhân bản.
Nhìn lại Nguyễn Du cũng là dịp chúng ta ngày nay duyệt xét
lại cách quan niệm lâu nay của chúng ta về “chủ nghĩa nhân đạo”, xem xét lại
không chỉ bản thân khái niệm “chủ nghĩa nhân đạo” mà cả nội hàm của nó. Một sự
xem xét như thế thực sự có ý nghĩa cấp bách về nhiều phương diện, từ phương
diện khoa học thuần tuý đến lĩnh vực quản lý văn hoá xã hội mang tính chất ứng
dụng.
PGS.TS Trần Nho Thìn |
Dễ hiểu là các nhà nho đã nêu lên những vấn đề tựu trung nhằm giải quyết
những nhu cầu tồn tại vật chất tối thiểu cho con người. Hướng tư tưởng của họ
không nhằm vào các khía cạnh kỹ thuật của vấn đề mà tập trung vào mô hình tổ
chức xã hội. Do đó, tư tưởng “thân dân”, lấy dân làm gốc của nước đã xuất hiện
từ trước công nguyên và được các nhà tư tưởng nho giáo tiếp tục vận dụng cho
mãi đến tận đầu thế kỷ XX. Dân là gốc của nước, gốc có vững thì nước mới yên
(Dân duy bang bản, bản cố bang ninh- Thượng thư, Ngũ tử chi ca). Làm cho gốc
nước vững thực ra trước hết là lo cho dân no đủ, là chế độ “dưỡng dân”, “huệ
dân”, “bảo dân”, “trọng dân”, coi ý dân là ý trời thì cũng là lo cho nguyện
vọng được ăn no mặc ấm. Mạnh Tử đã khái quát thực chất của học
thuyết dân bản này qua phép “ chế dân chi sản” (lập định chế về tài sản của
dân) qua hai khái niệm “hằng sản” và “hằng tâm”. Để cho người dân có “hằng tâm”
(tâm đạo đức- chỉ sự tuân phục, không nổi loạn chống lại triều đình) thì người
cầm quyền phải có chính sách sao cho người dân có được “hằng sản” (tài sản cố
định vừa đủ) trên nuôi được cha mẹ, dưới nuôi được vợ con. Các nhà tư tưởng cổ
đại cũng không quên cảnh báo nguy cơ triều đại bị lật đổ nếu không quan tâm đến
dân. Tuân Tử: “Dân như thủy, quân như chu; thủy khả tái chu, dã khả phúc chu”
(Dân như nước, vua như thuyền; dân có thể chở thuyền mà cũng có thể lật
thuyền). Nguyễn Trãi: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (làm lật thuyền mới biết
dân như nước).
Nói cách khác, mục đích đem lại cơm no áo ấm, sự yên ổn cho
người dân đã là một động lực quan trọng thúc đẩy sự ra đời các học thuyết này.
Các học thuyết có thể có những cách trình bày khác nhau về phương pháp, song
đều gặp nhau ở mục tiêu tối hậu nhằm tiến tới xây dựng một xã hội trật tự, thái
bình thịnh trị, người dân được yên lành, no ấm (tất nhiên ai cũng biết là không
cần lo hão cho kẻ cầm quyền). Kết quả là trong cái nhìn của các học thuyết
truyền thống, con người bị lược qui về thân phận thần dân, con người như là đối
tượng của chính trị. Không có con người với nghĩa là con người bản thể, con
người được xem xét bên ngoài ngữ cảnh chính trị xã hội. Văn học trung đại Việt Nam đậm màu sắc
chính trị xã hội ngay cả khi bàn về con người. Đó là mặt mạnh của văn học trung
đại nhưng mặt hạn chế cũng nằm ngay ở đặc điểm này.
Nói
cho công bằng, các học thuyết Nho- Đạo- Phật bàn không ít về các vấn đề bản
thể luận như đạo, đức, tâm, tính, tình… Nhưng cũng phải nói ngay rằng các
luận bàn ấy cuối cùng vẫn phục vụ cho mục đích “xây dựng thế giới”, mục đích lo
cho cơm ăn áo mặc, cho thân phận của người dân. Có thể có những cuộc tranh
luận về hữu vi và vô vi, về tính thiện hay tính ác, về nhập thế hay xuất
thế… nhưng cái đích này là không khác nhau giữa các học thuyết, học phái. Nhằm
thuyết phục kẻ cầm quyền không tham lam quyền lực
và chạy theo tham vọng vật chất mà đày đọa, áp bức bóc lột người dân, áp đặt
sưu cao thuế nặng; nhằm thuyết phục người dân tuân phục quyền lực triều đại để
đổi lấy sự yên ổn thì có thể tuyên truyền đạo nhân, lễ như nho gia mà cũng có
thể áp dụng thuyết vô vi của đạo gia, lại cũng có thể tuyên truyền “sắc tức thị
không, không tức thị sắc” như nhà Phật để mọi người từ vua quan đến dân chúng
giác ngộ sự vô nghĩa của thế giới vật chất mà từ bỏ mọi tham vọng vật chất vốn
là cội nguồn của tội lỗi. Thậm chí xét trên một phương diện nào đó, để đạt mục
tiêu rất nhân đạo là lo cho con người như là người dân, các học thuyết này lại
có những phương cách mâu thuẫn với chính mục tiêu, chẳng hạn như tuyên truyền
thái độ khinh miệt đối với thế giới vật chất, coi khinh thân xác với những nhu
cầu vật chất tối thiểu như ăn, mặc, ở và bản năng tình dục.
Truyền
thống quan tâm đến con người như một thần dân đã tạo nên những đặc điểm đáng
chú ý của văn học trung đại. Trong văn thơ, phổ biến là đề tài viết về cảnh khổ
cực của nhân dân (các môtip về cảnh lụt lội, hạn hán, mất mùa, cảnh nhận phát
chẩn, cảnh đi ăn xin ăn mày, chiến tranh tàn phá, làng xóm tiêu điều xơ xác,
thuế khóa nặng nề, nạn bóc lột cướp phá, quan lại nhũng nhiễu…). Cảm xúc thương
cảm, xót xa, đau buồn là cảm xúc phổ biến. Các nhà thơ thường ôm ấp nỗi lòng lo
cho dân, thương dân, băn khoăn day dứt, trông trời nhìn đất, vì không làm được
gì để cứu dân, giúp dân.
Cũng có những giây phút tuy hiếm hoi, nhà thơ xưa mừng
cho năm được mùa, vui lây không khí làm ăn yên ổn của nhân dân như là dấu hiệu
của đời thái bình. Đối với những người cầm quyền, nhà nho có những ngụ ý sâu
xa, thường là kêu gọi hay qui trách nhiệm trước thực tế đau khổ của nhân dân,
qua những môtip như ước mơ có người họa sĩ vẽ bức tranh tả cảnh ăn xin hay bức
tranh tả cảnh dân đói khổ nhận phát chẩn để dâng lên cho vua hay; hoặc môtip
người dân hỏi thăm khi nào tác giả “đến Tràng An” (để thông báo tình hình thực
tế)… Trường hợp tố cáo tội ác của giặc Minh xâm lược đối với nhân dân như
Nguyễn Trãi viết trong các sáng tác của ông tuy không phổ biến song vẫn nằm
trong nguyên tắc thân dân, bảo dân, trọng dân nói chung của ông. Có thể nói chủ nghĩa dân bản đã làm nên một truyền thống tốt
đẹp của văn học trung đại và được tiếp tục phát huy cho mãi đến văn học hiện thực
phê phán ở nửa đầu thế kỷ XX. Đây là một phương diện đặc sắc của chủ nghĩa nhân
bản của văn học Việt Nam trung đại.
Nhưng
chủ nghĩa nhân bản không chỉ thu hẹp trong quan niệm con người như là một đối
tượng của chính trị, con người thần dân. Cái ăn, cái mặc, chuyện ở mặc dầu là
quan trọng hàng đầu đối với con người song không thể là tất cả. Lo cho con
người cái ăn cái mặc là một biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa nhân bản nhưng
chủ nghĩa nhân bản không dừng lại ở đó. Nguyễn Du đã chỉ rõ cần phải mở rộng
chân trời của khái niệm nhân bản như thế nào.
Tất
nhiên Nguyễn Du là một nhà nho, sáng tác của ông kế thừa và phát huy truyền
thống thân dân, dân bản chủ nghĩa của nho gia. Những bài thơ như Sở kiến hành, Phản
chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả và bản thân Truyện Kiều đều đậm nét dân bản:
xem xét con người như là đối tượng tác động của chính trị, như là người dân,
thần dân, đều mang cảm hứng xã hội đậm nét khi viết về con người. Bài thơ nổi
tiếng Sở kiến hành đối chiếu sự đói khổ cùng cực của bốn mẹ con người ăn xin
với những bữa tiệc xa hoa phung phí của quan lại; Thái Bình mại ca giả diễn đạt
cảm xúc trước sự khác biệt thân phận giữa người hát rong mù loà một bên và bên
kia là cuộc sống hưởng thụ của thế giới quan lại. Bài Phản chiêu hồn lại có sắc
thái khái quát hơn vì so sánh bản thân cuộc sống trên cõi nhân gian (đầy rẫy hổ
lang) với thế giới của các loài thuỷ tặc ăn thịt người (rắn rồng, cá sấu). Còn Truyện
Kiều đầy ám ảnh về cõi người ta, đất khách quê người, chân trời góc bể nơi đó
thân phận con người bị đe doạ, bị chà đạp với những biểu
tượng diễn tả sự bé nhỏ, mong manh: con ong cái kiến, thân lươn, dây leo
(cát đằng), cánh bèo… Hình tượng Từ Hải đúng là có liên hệ với cảm hứng đổi
thay, cải tạo xã hội. Giới nghiên cứu trong thế kỷ XX đã bàn nhiều đến phương
diện xã hội dân bản của chủ nghĩa nhân bản Nguyễn Du.
Nhưng
nếu Nguyễn Du chỉ nhìn con người như người dân thì ông vẫn nằm trong phạm trù
các nhà văn dân bản trong lịch sử. Sở kiến hành của ông tương đồng với những
dòng thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ Chu môn tửu nhục
xú, Lộ hữu đống tử cốt (Chốn quyền quí rượu thịt để ôi thiu, Ngoài đường xương
chết buốt). Trên thực tế, Nguyễn Du đã vượt qua chủ nghĩa dân bản và nêu những
vấn đề nhân bản một cách sâu sắc. Nguyễn Du đã lấy con người bản thể làm đối
tượng quan sát và suy ngẫm
Sáng
tác của Nguyễn Du bao hàm một phương diện đặc biệt không thể không ghi nhận, đó
là sự tự ý thức sâu sắc về thân phận của người nghệ sĩ. Truyện Kiều là tiếng
than cho thân phận đầy bi kịch của người kỹ nữ tài sắc, một mẫu hình điển hình
của người nghệ sĩ chuyên nghiệp trong xã hội xưa. Không phải ngẫu nhiên mà một
nhà nho ở thế kỷ XIX đã giải mã tác phẩm như thế này: Thúy Kiều khóc Đạm Tiên,
Tố Như khóc Kiều. Người đời nay khóc người đời xưa, người đời sau khóc người
đời nay, hai chữ tài tình là mối thông lụy của bọn tài tử khắp cả gầm trời và
suốt cả xưa nay. Nhà thơ khóc thương cho nàng Tiểu Thanh, cho nữ nghệ sĩ đất
Long Thành, ông ai oán than thở với Đỗ Phủ: “Ông đau khổ thế há phải vì hay
thơ?” (Nhất cùng chí thử khởi công thi?). Nghĩa là Nguyễn Du đã tiến tới nhận
thức tự giác về thân phận những người nghệ sĩ trong đó có chính ông. Nhà nghệ
sĩ không chỉ thương người mà còn thương thân- thương chính mình, đó là một căn
nguyên khác của chủ nghĩa nhân bản đặc biệt của thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Muốn thông cảm, thương yêu nhân loại thì trước hết hãy thương chính bản thân
mình. “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? ”. Nhà nghệ
sĩ đã tách ra khỏi ông quan, Nguyễn Du cảm nhận vấn đề thân phận của những
người nghệ sĩ thông qua sự chiêm nghiệm thân phận chính mình. Mặt khác, và đây
là điều quan trọng hơn: Nguyễn Du đã ý thức được tầm quan trọng của những giá
trị văn hoá- nghệ thuật đối với con người. Triết lý tài mệnh tương đố
của ông có ý nghĩa sâu sắc vì ông lên án cuộc đời đã đối xử bất công với những
người làm nên những giá trị đó, những chủ nhân của thi ca, nhạc hoạ. Qua đó ông
gián tiếp yêu cầu sự trân trọng, tôn vinh các nghệ sĩ ấy, bởi lẽ chính họ mang
lại cho cuộc sống con người những giá trị văn hoá. Thiếu các giá trị tinh thần,
cuộc đời của chúng ta nghèo nàn, buồn chán biết bao nhiêu.
Một
nét mới căn bản là nhận thức toàn diện của Nguyễn Du về con người. Con người
không chỉ là thần dân, con người cần được quan tâm không chỉ về phương diện vật
chất. Con người có thân xác do đó có quyền sống về mặt thân xác, có trái tim do
đó có quyền được mong muốn, ước ao, được buồn vui, hy vọng hay đau khổ, có
quyền sống riêng về tư tưởng. Ngợi ca con người theo lập trường nhân bản chân
chính không thể không ngợi ca vẻ đẹp của chân dung và hình thể con người.
Theo
lập trường dân bản, sử gia nho giáo thường qui trách nhiệm cho các mỹ nhân
trong việc làm khuynh đảo các triều đại, từ đó hình thành tiền đề cho cách tiếp
nhận hình tượng các mỹ nhân như là tinh khí của yêu ma, là hồ ly tinh, là rắn
báo oán. Nhưng Nguyễn Du đã sôi nổi bênh vực cho Dương Quý Phi. Nguyễn Du vượt
qua quan niệm truyền thống trọng đức hơn trọng sắc, trọng đức hơn trọng tài để
đến với loại tiểu thuyết “tài tử giai nhân” của Trung
Quốc thời Minh Thanh, nơi nhân vật chính là những người có sắc, tài, đức
kết hợp nhuần nhuyễn. Trọng sắc không chỉ là tả vẻ đẹp chân dung con người. Do
đó, chúng ta có bức tranh Kiều tắm được nhà nho Nguyễn Du tả rất táo bạo. Điều
quan trọng là vẻ đẹp thân thể con người gắn bó chặt chẽ với phẩm chất tinh thần
tốt đẹp, trước hết là tài năng văn
chương, nghệ thuật. Nói cách khác, theo Nguyễn Du, tình yêu đôi lứa xây
dựng vững chắc trên cả nền tảng tinh thần và vật chất. Nhà thơ Xuân Diệu
từng đếm số câu thơ trong Truyện Kiều mà Nguyễn Du dành tả tình yêu Thuý Kiều-
Kim Trọng và cho biết 1/8 tác phẩm đã được Nguyễn Du dành cho mối tình ấy. Đó
là chủ nghĩa nhân bản theo đúng nghĩa lấy con người làm gốc. Không phải là lối
tả tình yêu chiếu lệ, công thức mà là sự thể hiện tình yêu của con người tự
nhiên đầy màu sắc nghiệm sinh.
Tình yêu thống hợp cả hai mặt thân và tâm, cả
những cảnh “đầu mày cuối mắt” nồng nàn, những đợt “sóng tình”, những phút giây
“âu yếm”, “lả lơi”, cả những nỗi niềm tương tư cháy bỏng, những nỗi niềm nhớ
nhung, buồn thương. Tâm hồn con người là tiếng vọng của đời sống, nó phong phú,
phức tạp và đầy mâu thuẫn như bản thân đời sống. Truyện Kiều được các nhà
nghiên cứu ở thế kỷ XX gọi là tiểu thuyết phân tích tâm lý chính vì Nguyễn Du
đã khắc hoạ bức tranh tâm hồn con người tự nhiên, trần thế với mọi cung bậc mọi
sắc thái chứ không cắt xén, không tô vẽ. Lý tưởng rất đẹp về mẫu người thánh
nhân quân tử đã chi phối việc thể hiện “tâm” trong thơ ca trung đại mà đặc điểm
nổi bật là cái tâm đạo lý- xã hội với niềm ưu ái, quân thân, trung hiếu, nhân
nghĩa… Nhưng cũng chính vì thế mà lý tưởng này đã loại bỏ tâm của con người tự
nhiên, phàm trần. Vì thế đặc biệt phải ghi nhận lập trường mới của Nguyễn Du
đối với phương diện nội tâm mang tính bản năng ở con người (trai gái gặp nhau
phải nảy sinh tình cảm như tâm trạng của Kiều và Kim Trọng sau buổi sơ ngộ;
thấy sắc đẹp phải nảy sinh thèm muốn như Mã Giám sinh trước Kiều; cay nghiệt
với mưu mô đánh ghen kẻ tình địch như Hoạn Thư; lòng tham luyến vật chất trước
cám dỗ của tiền bạc, gấm vóc như Kiều…).
Có người đã đọc Truyện Kiều theo quan
điểm thiền học, cho rằng vì không biết hành thiền, không biết dứt bỏ lòng trần
tục nên Kiều đã liên tiếp vấp phải hết nạn nọ đến nạn kia. Nhưng nếu giữ vững
lòng thiền thì cũng có nghĩa là nhân vật không còn sống cuộc sống với các quan
hệ hiện thực nữa và tâm của nó không còn là tiếng vọng của cuộc sống nữa. Một
trạng thái tịch mịch tĩnh lặng của tâm đồng nghĩa với việc từ chối cuộc sống
của con người tự nhiên, đồng nghĩa với cái chết của tâm hồn. Chủ nghĩa nhân bản
không nhìn con người như một chiếc máy sàng lọc cảm xúc mà trân trọng ghi lại
hết thảy mọi phản ứng tình cảm của con người trong các tình huống của đời sống.
Đến cả một nỗi buồn vu vơ, vô cớ cũng có một ý nghĩa nào đó đối với con người.
Trân trọng con người, không thể không trân trọng đời sống thân xác. Do đó mà
Nguyễn Du đã nâng niu cả mối tình Thuý Kiều- Thúc Sinh dẫu cho Thúc Sinh đối
với chúng ta hiện nay có vẻ không thật tương xứng với Kiều. Dường như Thúc Sinh
chính là người biết đánh giá thật đúng vẻ đẹp thân xác của Kiều, và vì thế,
tình cảm của họ cũng rất thắm thiết. Không có cuộc chia ly nào trong Truyện
Kiều được Nguyễn Du tả hay, thấm thía như là cảnh chia ly Kiều- Thúc Sinh. Đối
với chủ nghĩa nhân bản chân chính, sự sống là rất đáng trân trọng. Vì thế,
Nguyễn Du đã tìm cách lý giải, biện minh cho việc Kiều sống trong cảnh tủi nhục
suốt mười lăm năm lưu lạc. Việc làm này táo bạo và mới mẻ đến nỗi có những nhà
nho đương thời và cả trong nửa đầu thế kỷ XX vẫn không thể tất nhân tình, vẫn
lớn tiếng mắng mỏ nàng. Đứng trên quan điểm “sát thân thành nhân”, “xả sinh thủ
nghĩa” của Nho giáo, một số người đã lên án Kiều chỉ vì nàng đã không tìm đến
với cái chết như một lựa chọn duy nhất để thoát khỏi tình thế rơi vào nhà chứa.
Tà dâm là tội lớn mà một số nhà nho đã gán cho Kiều vì đối với họ, chết đói là
sự nhỏ thất tiết mới là sự lớn. Lẽ ra cần tìm mọi lý lẽ để can ngăn một ý định
tự tử, các nhà đạo đức lại chờ đợi một cử chỉ “sát thân thành nhân” để ngợi ca
và khi sự chờ đợi không được đền đáp, họ quay ra lên án. Con đường đến với chủ
nghĩa nhân bản thật không dễ dàng đối với các hệ tư tưởng đạo đức truyền thống.
Thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn văn học có nhiều biến chuyển to lớn.
Về mẫu hình nhân vật lý tưởng, đó là sự thay đổi mẫu hình thánh nhân của các
giai đoạn trước bằng mẫu hình con người tự nhiên. Về phương diện bản thể luận,
chủ nghĩa dân bản vốn chiếm địa vị thống trị trong các giai đoạn trước được
thay (hoặc bổ sung) bằng chủ nghĩa nhân bản. Những phạm trù giá trị thuộc về
con người tự nhiên, con người tự nó được đề cao. Một ví dụ đầy ấn tượng cho sự
thay đổi này là trường hợp tác giả Sơn cư tạp thuật ở thế kỷ XVIII “đọc lại” truyền
thuyết về sư Huyền Quang trong sách Tam tổ thực lục thế kỷ XIV. Chúng ta
đều biết theo Tam tổ thực lục thì thiền sư Huyền Quang đã vượt qua thử thách
trước sự cám dỗ của nàng Điểm Bích nhan sắc, nhưng sách Sơn cư tạp thuật cuối
thế kỷ XVIII lại kể rằng đêm ấy, sư đã mấy lần nhìn vào căn phòng nơi Điểm Bích
nằm ngủ và cuối cùng, lòng thiền đã sụp đổ trước tâm dục và nhà sư đã “thông
dâm” với nàng. Khoan không bàn đến sự thật câu chuyện ấy đã diễn ra trên thực
tế như thế nào, ai kể đúng sự thật, ai xuyên tạc sự thật, bản thân việc “kể
lại” câu chuyện cho thấy tác giả khi xét đoán câu chuyện đã đứng trên lập
trường con người tự nhiên, phàm trần chứ không đứng trên lập trường tu trì của
Thánh, Phật nữa. Đó là chỉ báo về sự thay đổi quan trọng trong cách nhìn nhận
con người của văn học thời đại này. Hầu như tất cả các thể loại của văn học thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đều hướng đến con người nhân bản. Nhưng trong khi hướng
đến chủ nghĩa nhân bản, nhiều tác phẩm lại khá mở nhạt về phương diện dân bản.
Phải khẳng định rằng Nguyễn Du mới là tác giả kết hợp nhuần nhuyễn nhất chủ
nghĩa dân bản và chủ nghĩa nhân bản, theo đúng nghĩa ông là tập đại thành của
văn học trung đại dân tộc.
*
Việc
phân tích chủ nghĩa nhân bản trong sáng tác của Nguyễn Du có một số ý nghĩa sau:
1.
Đối với việc nghiên cứu và giảng dạy Truyện Kiều: Xưa nay giới nghiên cứu
thường nhấn mạnh một chiều chủ nghĩa dân bản, đồng nhất chủ nghĩa dân bản với
khái niệm chủ nghĩa nhân đạo. Trong sách giáo khoa trường phổ thông và sách lịch
sử văn học dành cho bậc đại học, đều thiếu sự chú ý đúng mức, trực tiếp đến
phương diện nhân bản của tác phẩm. Nhận thức của người nghiên cứu đều cho các
vấn đề dân bản là quan trọng, đáng nói hơn các vấn đề nhân bản thực thụ. Có
nhiều bài viết phân tích thấu đáo về phương diện nạn nhân xã hội của Thuý Kiều
và hình tượng Từ Hải – ước mơ giải phóng, mà còn quá ít khảo cứu về phương diện
con người tự nhiên của nhân vật. Sách giáo khoa phổ thông lại càng ít chú ý vấn
đề này hơn, vô tình đã xem nhẹ đóng góp thời đại hết sức to lớn của Truyện
Kiều, làm sai lệch nhận thức lịch sử của học sinh. Nhân đây cũng cần nhận xét
thêm rằng xu hướng thiên về khai thác phương diện dân bản mà xem nhẹ phương
diện nhân bản của tác phẩm văn học có thể là một nguyên nhân khá căn
bản khiến cho việc giảng dạy văn học lâu nay trở nên nhàm chán. Thực
tế này cần được chỉnh lại.
2.
Về phương diện lý luận văn học: chúng ta vẫn dùng khái niệm “chủ
nghĩa nhân văn” hoặc phổ biến hơn “chủ nghĩa nhân đạo” để dịch khái niệm
humanisme. Đã đến lúc cần xem xét lại các khái niệm dịch này vì chúng hoặc là
không chuyển đạt đầy đủ tinh thần khái niệm gốc (trường hợp “chủ nghĩa nhân
văn”), hoặc là gây ngộ nhận (trường hợp “chủ nghĩa nhân đạo”). Đặc biệt cần nói
về khái niệm chủ nghĩa nhân đạo. Nhân đạo dễ gợi liên tưởng đến “đạo nhân” của
Nho gia. Nhân giả ái nhân. Nhân là thương yêu con người. Từ đó, chúng ta, những
người hiện đại dễ tự hạn chế và thoả mãn bằng cách hiểu truyền thống của phương
Đông về đạo nhân mà đồng nhất nó với humanisme của thời Phục hưng
vốn lấy con người làm bản vị. Thực tế này đã bộc lộ trong cách phân tích tác phẩm văn học của giới
nghiên cứu trong mấy chục năm qua, chẳng hạn, người ta rất dễ khẳng định chủ
nghĩa nhân đạo của tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930-1945 nhưng lại phân vân
không biết có nên xem thơ Mới hay tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn có nhân đạo hay không. Chúng ta thường nhạy cảm với đề tài về
cái đói, cái rét, sự bần cùng hóa con người nhưng lại ít đồng cảm với những
khao khát sống, khao khát yêu, những nỗi niềm rất riêng tư của con người, thậm
chí có lúc còn chụp mũ tiểu tư sản cho những xúc cảm đó. Do đó, nên chăng đã
đến lúc chọn khái niệm “chủ nghĩa nhân bản” để chuyển dịch khái niệm humanisme?
Nhân bản là lấy con người làm gốc. Con người tất nhiên luôn luôn sống trong môi
trường xã hội và chính trị cụ thể nên nhất định phải được xem xét như một người
dân. Người dân cần được các nhà chính trị, nhà cầm quyền quan tâm, cần được
thoả mãn đầy đủ các nhu cầu vật chất tối thiểu cho sự sống: ăn, mặc, ở (vì thế,
xưa là chuyện “hằng sản” và “hằng tâm” và nay là sự nghiệp xoá đói giảm nghèo).
Nhưng chủ nghĩa nhân bản không chấm dứt ở đây: Chủ nghĩa nhân bản còn quan tâm
đến con người với các phương diện bản thể luận, đến đời sống bản năng, thân
xác, đến một thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, tự do, không bị kiểm soát.
Thiết nghĩ, có dùng khái niệm “chủ nghĩa nhân bản” mới khắc phục được cách hiểu
có phần đơn giản hiện vẫn đang lưu hành trong giới nghiên cứu văn học và cả trong giới quản lý văn
hóa xã hội. Đó là phần gợi ý từ thực tế sáng tác của Nguyễn Du. Thành công của
Nguyễn Du bắt nguồn từ chủ nghĩa nhân bản sâu sắc của ông, đây là tiền đề quan
trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng và phát triển một nền văn học nhân bản chủ nghĩa hiện đại.
TNT
-----------------
http://www.thanhlinh.net/node/11167
Trả lờiXóaMột bài viết với một góc nhìn khác về Chủ Nghĩa Nhân Bản.