* LÊ PHÚ KHẢI
(tiếp theo)
Sau nhiều năm sản xuất lương thực trong vùng lũ đã ổn;
một số địa phương trong vùng lũ đã chuyển đổi sản xuất, giảm lúa vụ ba “Biến
mùa lũ thành mùa sản xuất chính trong năm”. An Giang là tỉnh đi đầu trong
phương hướng chuyển đổi này. Ở An Giang, mấy năm nay đã hình thành ba nhóm mô
hình sản xuất trong mùa lũ: Nhóm trồng trọt, nhóm nuôi trồng thủy sản và nhóm
ngành nghề. Các nhóm mô hình này tận dụng mùa nước nổi, làm ra sản phẩm độc đáo
từ lũ, thu lợi bất ngờ cho nông dân ...
Nhóm mô hình nuôi trồng thủy sản đã trồng
các loài thủy sinh như: rau muống, rau nhút, bông súng, củ ấu, điên điển, sen…
Trồng ấu lãi từ 5 đến 10 triệu đồng/1 hecta, trồng rau nhút lãi từ 10 triệu
đồng trở lên/1 hecta. Nuôi cá thì có nhiều hình thức: nuôi cá lồng bè nhỏ, nuôi
mùng vèo, nuôi đăng quầng, nuôi chân ruộng, nuôi ao hầm… Đặc biệt nuôi lươn
trong bể lót ni-lông phát triển mạnh vì phù hợp với hộ nghèo, ít vốn. Có đến
hàng chục ngàn lao động nuôi lươn, nhiều nhất là ở các huyện Thoại Sơn, Châu Thành…
Nhóm ngành nghề mùa lũ thì vô cùng phong phú: sản xuất xuồng, chài, lưỡi câu,
dầm chèo, lưới cước, chế biến cá khô, cá mắm, bắt ốc bưu vàng làm thức ăn nuôi
cá… Cùng với An Giang, các tỉnh Kiên Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An cũng
nô nức phát triển các mô hình nuôi trồng mùa lũ. Năm 2005, riêng An Giang, các
ngành nghề mùa lũ đã đem lại cả ngàn tỉ đồng cho GDP của tỉnh. Nhờ đó mà, mấy
năm gần đây, vùng lũ Đồng bằng sông Cửu Long không còn cảnh than vãn ỉ ôi,
trông chờ hàng cứu trợ khi lũ về!
Sau gần 20 năm thực hiện chiến lược “Chung sống với
lũ”, nhìn tổng thể, về sản xuất lương thực và thực phẩm trong vùng lũ ở Đồng
bằng sông Cửu Long đã tạm ổn. Tuy nhiên, vấn đề lớn thứ hai là định cư trong vùng lũ, bao gồm: ăn, ở, đi
lại, học hành, chữa bệnh… của nhân dân còn nhiều điều chưa ổn. Trước hết là vấn
đề bảo vệ con người, sau đó là vấn đề nhà ở với từng hộ và cụm dân cư.
Về nhà ở của hộ dân, với các huyện đầu nguồn của An
Giang, Đồng Tháp thì việc vận động dân vào cụm và tuyến dân cư là cần thiết, vì
ở những nơi này lũ có dòng chảy mạnh, độ xói mòn cao, nguy hiểm. Nhưng ở sâu
trong Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, lũ lên chậm, một số hộ dân đã làm
nhà sàn (trên cột), trồng cây quanh nhà, sắm ghe thuyền để đi lại… hoặc làm nhà
trên nền đất cao có trồng cây xung quanh tránh sóng thì việc ăn ở rất an toàn,
ổn định. Dọc đường kênh từ thị trấn Vĩnh Hưng (Long An) lên đến biên giới trong
vùng sâu Đồng Tháp Mười, người ta còn thấy những nhà xây kiên cố trên nền đất
cao, rất an toàn cả trong những mùa lũ lớn như vào năm 2000, 2001. Đây là những
mô hình rất tốt. Nhà nước không phải đầu tư một đồng nào, dân vẫn tự lo và ổn
định được cuộc sống lâu dài trong vùng lũ.
Ngoài những hộ kể trên, hiện đang định cư rải rác
trong vùng lũ, việc xây dựng tuyến dân cư và vận động dân vào ở trong cụm tuyến
dân cư là vấn đề nổi cộm, còn nhiều việc phải làm, phải tiếp tục bàn và giải
quyết. Chúng ta hãy làm một cuộc rà soát lại, nhìn lại từ đầu vấn đề này, vì
như trên đã nói, việc định cư trong vùng lũ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long từ sau
1975 có tính tự phát và liên tục, cả nhân dân và Nhà nước đều vừa làm vừa điều
chỉnh nên đến nay phải có sự nhìn nhận lại, đánh giá và định hướng mới cho
đúng.
Trước
hết, nói về các cụm dân cư trung tâm huyện, được gọi là thị trấn, thị tứ của huyện.
Khi thành lập các huyện mới trong vùng Đồng Tháp Mười như Vĩnh Hưng, những
người đi khai hoang đầu tiên nhận thấy mình có trách nhiệm đặt nền móng lâu dài
cho các thế hệ sau này. Bằng dự cảm của mình họ đã vận động nhân dân xây dựng
đê bao quanh khu vực dân cư đầu tiên của huyện, sau này trở thành thị trấn
huyện. Có thể lấy thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng làm ví dụ rất điển hình.
400 hecta đất tại khu dân cư trung tâm
huyện ngay từ ngày đầu thành lập huyện trong vùng Đồng Tháp Mười giáp biên giới
Campuchia này, đã được xây dựng một hệ thống đê bao kiên cố bảo vệ. Năm tháng
trôi đi, hệ thống đê bao này được gia cố và ngày càng vững chắc thêm. Mùa lũ
lớn lịch sử 2000, trong lúc cả vùng Đồng Tháp Mười thành một biển nước thì thị
trấn Vĩnh Hưng vẫn bình yên. Thị trấn Vĩnh Hưng trở thành một cái phao giữa
biển nước Đồng Tháp Mười, đón nhận nhiều hộ dân “tị nạn” quanh vùng. Cả hai mùa
lũ lớn 2000 và 2001, người viết sách này đều vượt hàng chục cây số giữa biển
nước Đồng Tháp Mười để đáp lên đê bao Vĩnh Hưng và xuống lòng thị trấn và chứng
kiến cảnh “Sơn Tinh đang chiến đấu với Thủy Tinh” của chính quyền và nhân dân
nơi đây. Người ta đã bới cả sân vận động thị trấn lên để lấy đất đá gia cố đê
bao. Tối đến, các quán cà phê, karaoke vẫn sáng đèn. Sơn Tinh đã thắng. Nhưng
có điều là mùa lũ lớn như năm 2000, 2001, nền đất bằng thị trấn thấp hơn mặt
nước Đồng Tháp Mười ngoài đê bao đến 2 mét! Cái gì sẽ xảy ra nếu đê bao bị bục
(!). Chính vì vậy mà mùa lũ năm 2001, khi đến thăm thị trấn Vĩnh Hưng, có người
đã cho rằng, nên xây đắp các thị trấn, thị tứ trong vùng lũ ở Đồng bằng sông
Cửu Long trên nền đất cao vượt lũ, như thế an toàn hơn. Các cụm tuyến dân cư và
nhà ở vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long đã và làm theo hướng “an toàn hơn”
như thế. Nhưng các tuyến đê bao như ở Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Tân Hồng… là vấn đề
“lịch sử để lại” chúng ta không có cách gì hơn là duy trì và gia cố những công
trình chung sống với lũ kiểu này. Đồng thời, nó cũng có thể là những giá trị
lịch sử, văn hóa của công cuộc chinh phục Đồng Tháp Mười để làm “kỉ niệm” cho
các thế hệ mai sau!
Cũng phải nói đến một vài cụm tuyến dân cư tôn nền
vượt lũ do các địa phương “tự phát” xây dựng nhưng đã trở thành những hình mẫu
rất đẹp. Có thể lấy hình mẫu Gò Tháp ở xã Đốc Binh Kiều, tỉnh Đồng Tháp làm ví
dụ. Khu trung tâm xã là 1 quả đồi được đắp cao (không phải một thung lũng có đê
bao!), ở đó trường học, bệnh xá, chợ, trụ sở ủy ban xã… thật sự an toàn trong
mùa lũ. Về mùa lũ, các hộ đã có nhà sàn, nhà trên nền đất cao, có ghe xuồng… sẽ
đi lại thuận tiện đến khu trung tâm xã, tạo nên nét sinh hoạt rất độc đáo của
vùng lũ!.
Với cụm, tuyến dân cư và nhà ở được Nhà nước đầu tư
đồng loạt trên phạm vi 8 tỉnh, thành phố vùng ngập lũ theo Quyết định 173 giai
đoạn 2001-2005 mục tiêu phải tôn nền vượt lũ bảo đảm bố trí được khoảng 200.000
hộ dân đang sống rải rác trong vùng thường xuyên bị ngập vào sinh sống trong
địa bàn an toàn này.
Sau
4 năm triển khai thực hiện, theo báo cáo của Bộ Xây dựng thì tính đến hết tháng
7 năm 2006, trên 8 tỉnh, thành phố đã triển khai thực hiện và đạt kết quả như
sau:
- Về công tác tôn nền, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn:
Các
địa phương đã triển khai tôn nền 741/742 cụm tuyến với tổng diện tích
3.494/3.499 ha và 66/66 bờ bao các khu vực dân cư có sẵn. Trong đó, có 705 cụm
tuyến (3.275 ha) và 61 bờ bao khu dân cư có sẵn đã hoàn thành việc tôn nền. Như
vậy, so với kế hoạch đạt trên 96% tổng khối lượng tính đến thời điểm 31-3-2006.
- Về công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật thiết yếu
trong cụm, tuyến dân cư:
Đến
tháng 3-2006, trong số 705 cụm, tuyến đã hoàn thành việc tôn nền mới chỉ hoàn
thành xây dựng các công trình giao thông nội bộ ở 380 cụm tuyến, hệ thống thoát
nước ở 330 cụm tuyến, cấp nước sinh hoạt ở 338 cụm tuyến, cấp điện ở 415 cụm
tuyến. Như vậy mới chỉ đạt tỷ lệ trên 60% khối lượng công việc theo kế hoạch.
- Về công tác xây dựng nhà ở và bố trí các hộ dân vào
ở trong cụm, tuyến dân cư:
Các
địa phương đã xây dựng được 61.104 căn trên tổng số 149.715 căn nhà cần phải
xây dựng (đạt 41%). Đã có 59.015 hộ vào ở trong các cụm tuyến trên tổng số
94.935 hộ đã được bình chọn theo quy định. Nếu kể cả 30.800 hộ dân đang sinh
sống an toàn trong các bờ bao đã hoàn thành của chương trình thì mới chỉ đạt
49,4% so với kế hoạch đề ra.
Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện, chương trình xây
dựng cụm, tuyến dân cư vượt lũ, đã đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt
là việc đã hoàn thành trên 96% khối lượng công tác tôn nền và đắp bờ bao khu
dân cư có sẵn so với kế hoạch được duyệt. Nhờ đó, trong các đợt lũ của những
năm sau đặc biệt là mùa lũ khá lớn năm 2005 các cụm, tuyến dân cư được tôn nền
đã góp phần làm giảm thiểu đáng kể thiệt hại về người và tài sản của dân vùng
lũ.
Tuy nhiên, vấn đề được các địa phương quan tâm hơn cả
là tình trạng thiếu vốn. Ông Nguyễn Thanh Nguyên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An
cho rằng: “Có nhiều lý do làm chương trình cụm tuyến dân cư (CTDC) bị chậm,
trong đó vấn đề thiếu vốn là vần đề then chốt. Nhiều CTDC ước tính ban đầu thấp
nhưng đi vào thực hiện kinh phí cao, đền bù cao… Chỉ riêng phần tôn nền, kinh
phí Trung ương phân bổ 625 tỉ đồng nhưng thực hiện đến 775 tỉ đồng, thiếu 150
tỉ đồng!”.
Tại Vĩnh Long, cũng tương tự. Kế hoạch tôn nền 43 CTDC
khoảng 208 tỉ đồng, khi làm xong thiếu đến 60 tỉ đồng. Nhất là những CTDC làm sau đó, giá đất tăng nên chi phí đền bù
lớn… Các địa phương khác cũng khó khăn về vốn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến
tiến độ bố trí dân cư. Bình quân, các tỉnh mới đạt 40% đến 60% kế hoạch bố trí
dân vào các cụm tuyến dân cư đến tháng 3-2006.
Giải quyết vấn đề này, vẫn theo ông Nguyễn Thanh
Nguyên: “Ngoài việc bán nền, Long An sẽ chuyển một số CTDC gần đô thị thuộc các
huyện ngập lũ ít, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư làm khu công nghiệp. Có thể
chuyển 100% hoặc chuyển 1 phần làm khu công nghiệp – 1 phần CTDC nhằm giải
quyết việc làm cho dân… Được vậy, sẽ lấy vốn trả nợ và đầu tư hạ tầng. Long An
đã chuyển 3 CTDC ở Đức Hòa và 1 CTDC ở Thủ Thừa sang khu công nghiệp!”.
Còn tại Vĩnh Long, ông Trần Hoàng Dũng, Thường trực
Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng CTDC và Nhà ở tỉnh Vĩnh Long cho rằng: “Giải
pháp khả thi nhất hiện nay là đẩy mạnh bán 30% nền sinh lợi. Nếu Vĩnh Long, bán
được 2.551 nền sẽ thu về khoảng 190 tỉ đồng, số tiền này đủ trả nợ phát sinh
tôn nền và đảm bảo đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, tiến độ bán còn chậm (mới 36 tỉ)
do hạ tầng chưa xong nên khó thu hút người mua”. Vĩnh Long đang tính toán đẩy
mạnh hạ tầng cho những CTDC ở gần quốc lộ, đường giao thông, chợ… để bán nền.
Nếu có nhu cầu sẽ bán cao hơn 30%, thậm chí 70% hoặc 100%... số dân tại đây sẽ
chuyển sang những cụm lân cận. Thực tế đã có tuyến dân cư Phú Quới, huyện Long
Hồ nằm gần Quốc lộ 1A, giá bán nền khởi điểm là 1,2 triệu đồng/m2; khi đấu giá
dân mua đến 3,5 triệu đồng/m2, Phú Quới bán nền thu về 9,3 tỉ đồng, dư chi phí
đầu tư. (Trích báo SGGP – 31-3-2006).
Những
ý kiến đề đạt có tính “cấp bách” nêu trên của các địa phương đã được Chính phủ
và các bộ, ngành Trung ương xem xét và hoàn thiện các công trình kiểm soát lũ
vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được khởi công xây dựng. Với các công trình sắp
khởi công xây dựng, đã được dự kiến đầu tư kinh phí là 6.800 tỉ đồng, chính phủ
hỗ trợ 4.000 tỉ, các địa phương đầu tư 2.800 tỉ, nhằm bảo đảm an toàn cho hơn 1
triệu dân đang sống rải rác trong vùng ngập lũ, đồng thời tận dụng tối đa nguồn
lợi do lũ đem lại… thì một vấn đề lớn đã được đặt ra. Đó là, trong các nguyên
nhân mà bà con vùng lũ chưa mặn mà vào sống trong các cụm tuyến dân cư vượt lũ,
ngoài yếu tố điều kiện kết cấu hạ tầng chưa bảo đảm, còn có một yếu tố không
thể bỏ qua, đó là tập quán sống theo các tuyến kênh rạch. Nhà ở của đồng bào
dọc theo các tuyến kinh rạch, con kinh, cũng là con đường ở mặt tiền, đằng sau
là ruộng rẫy chạy sâu vô đồng… Đó là tập quán, là “Nền văn minh sông rạch” đã
được hình thành từ bao đời nay ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nếu được sống theo
sông nước, tự do và phóng khoáng mà vẫn “vượt lũ” để không bị đe dọa, giảm nhẹ
được các đầu tư hạ tầng về đường và cống mà vẫn bảo đảm được vệ sinh môi trường
thì chắc chắn sức hấp dẫn của các tuyến dân cư này hơn hẳn các cụm dân cư kiểu
làng khép kín như ở miền Bắc mà chúng ta đã xây dựng ở vùng lũ. Sở dĩ chúng tôi
nêu vấn đề này từ sau tháng 3-2006, vì đối tượng mà các công trình mới này sẽ
tập kết vào là các cư dân đang sống “rải rac” ở vùng lũ, chưa kể còn gần 51%
trên tổng số 94.935 hộ đã được bình chọn mà chưa vào ở trong các cụm tuyến dân
cư đã xây dựng như báo cáo của Bộ xây dựng.
Từ sau hai trận lũ lớn 2000 và 2001, những năm sau lũ
ỡ ĐBSCL đều thấp. Đến năm 2011, lũ lớn gần bằng năm 2000 và được xem là liều
“thuốc thử” về khả năng chung sống với lũ. Tổng kết thiệt hại về người (65 người)
và của cải (125.000 căn nhà; 23.000 ha lúa bị ngập; 150km đê bao bị sạt lở) rõ
ràng là ít hơn nhiều so với năm 2000, gần 500 người chết. Nhà bị ngập lụt ít
hơn nhiều, diện tích lúa bị mất trắng cũng thấp hơn nhiều so với năm 2000. Cụm
tuyến dân cư vượt lũ đã phát huy kết quả nhưng cho đến tận mùa lũ năm 2014 này
vấn đề cụm tuyến dân cư vùng lũ vẫn còn là chuyện thời sự. Người dân bị sạt lở
nhà cửa do lũ... mong được vào CTDC thì đang mong đợi. Trong khi đó, nhiều hộ
đã nhận nhà, nhận đất trong CTDC lại bỏ đi vì điều kiện làm ăn sinh sống gặp
khó khăn. Chưa có một số liệu thống kê chính xác nào trên toàn vùng về tình
trạng này. Vì thế chúng ta vẫn phải tiếp tục bền bỉ trong việc xây dựng Cụm
tuyến dân cư vượt lũ. Thiên nhiên vốn thất thường và không mấy khi chiều theo
lòng người. Nhìn lại một chặng đường dài sau nhiều năm thực hiện chiến lược
“Chung sống với lũ”, kết quả thu được đáng tự hào. Năm 2002 ở An Giang, Chủ
tịch Nguyễn Minh Nhị đã lập đề án số 31 nổi tiếng giúp người dân khai thác
nguồn lợi mùa nước nổi, đã đem lại cho tỉnh hàng nghìn tỉ đồng. An Giang xác
định đến năm 2010, phấn đấu khai thác từ mùa nước nổi khoảng 400.000 tấn lúa,
trên 268.000 tấn rau dưa các loại gần 6.000 tấn rau nhút, 5.000 tấn ấu, 3.500
tấn rau muống, trên 8.000 tấn cá đồng, 1.000 tấn lươn, 200 tấn ếch. Đặc biệt,
trong 5 năm (2006-2010) tỉnh sẽ tổ chức đào tạo nghề cho gần 100.000 nông dân
vùng ngập lũ.
Từ
mùa lũ 2006, một không khí làm ăn nhộn nhịp đã được thấy trong vùng lũ tỉnh An
Giang…
Đề án mùa nước nổi là một thắng lợi “kép” của An
Giang. Ngoài giải quyết việc làm, tạo kế sinh nhai cho người dân, còn “kích”
được tinh thần chủ động, sáng tạo khai thác mùa nước nổi trong dân. An Giang
đang điều chỉnh lại Chương trình khai thác lợi thế mùa nước nổi giai đoạn 2006
– 2010 hợp lý hơn. Đó là thực hiện xả lũ theo định kỳ, giảm diện tích gieo
trồng lúa, tăng diện tích trồng trọt hoa màu và nuôi trồng thủy sản. Ông Nguyễn
Minh Nhị - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang ước ao: “Một ngày nào đó, dân An
Giang sẽ không làm lúa vụ 3, mà dành hàng ngàn hecta đất để xả lũ vào rồi khép
kín lại nuôi dưỡng nguồn cá đồng, thu nhập sẽ cao hơn!” (Báo SGGP 29-8-2006).
Có nhà khoa học đã hình dung: Bức tranh tương lai của vùng lũ Đồng bằng sông
Cửu Long sẽ là các thị xã, thị tứ, khu công nghiệp, vườn trái cây… như những
đảo nổi giữa biển nước mênh mông phù sa và thủy sản, được nối với nhau bằng các
tuyến dân cư và dải cây xanh. Như thế, nơi đây sẽ là một cảnh sắc độc đáo so
với các miền khác của đất nước.
Sẽ buồn biết bao nếu mùa lũ đến mà không có “Biển nước
mênh mông phù sa và thủy sản” cho Đồng bằng sông Cửu Long. Chúng ta đã từng
chứng kiến năm 1998 lũ quá thấp, Đồng bằng sông Cửu Long đã điêu đứng vì công
làm cỏ ăn hết công lúa, chuột sâu bọ hoành hành dữ dội, đất thiếu phù sa, còn
người nghèo thì không kiếm được con tôm con cá trong mùa lũ. Vì thế đồng chí Võ
Văn Kiệt mới có nhận xét xác đáng rằng: Không có lũ cũng là thiên tai với Đồng
bằng sông Cửu Long (!).
Những
năm lũ vừa đủ, bà con kêu là “lũ đẹp”. Cầu mong cho năm nào lũ cũng đẹp và chúng
ta quyết tâm phấn đấu để chung sống hòa thuận với lũ.
Một điều cực kỳ nguy hiểm, phải báo động và lên án,
phải đấu tranh bằng mọi biện pháp để ngăn chặn, không để quá muộn… là việc các
nước thượng nguồn Mê Kông bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp các cam kết của
Hiệp Hội các nước có chung dòng Mê Kông… đã và đang làm cạn kiệt và sẽ giết
chết dòng sông vĩ đại này bằng việc xây dựng các đập thủy điện, xả phế thải kỹ
nghệ và tiện dụng gia cư xuống dòng sông. Trung Quốc với những con sông rất ô
nhiễm, thì nay đến lượt Mê Kông với các đập thủy điện và việc xả phế thải công
nghiệp xuống dòng sông hoang dã đã và trinh nguyên này.
Tác giả Hoàng Sơn, một tri thức Việt kiều ở Mỹ trong
một bài viết trên mạng xã hội xuất bản ở Mỹ vào đầu những năm 2000 với nhan đề:
“Kế hoạch làm cạn dòng sông Cửu Long để khống chế ba nước Đông Dương của Trung
Quốc” đã viết:
“Năm
nay nạn lụt khủng khiếp đã xảy ra ở miền Bắc và Nam Việt Nam . Tại Lai Châu, nạn đất lở do
mưa lũ đã làm cho hàng chục người chết và nhiều ngôi làng bị chôn vùi. Tại miền
Nam
thì toàn thể vùng Hậu Giang đã chìm trong một biển nước lụt làm cho hơn 200
người chết, mùa màng thiệt hại nặng và ở Cao Miên nạn lụt cũng làm cho hàng
trăm người chết. Ở miền Bắc, mực nước sông Cầu lên cao cũng gây nạn lụt lớn làm
mùa màng bị phá hủy, nước lũ cuốn trôi.
Nguyên nhân là do mưa lớn và nhất là nạn phá rừng, đốn
cây bừa bãi ở thượng nguồn sông Cửu Long, sông Hồng do Trung Quốc gây ra, bất
kể sự thiệt hại cho lưu vực sông Cửu Long. Sau tai họa này thì các chuyên viên
thủy nông quốc tế khuyến cáo các nước Đông Nam Á cần phải hợp tác với nhau chặt
chẽ để kiểm soát mực nước sông Cửu Long nếu không thì tai họa sẽ tái diễn mỗi
năm. Nhưng điều này khó có thể thực hiện được nếu không có sự tham dự của Trung
Quốc và từ trước đến nay quốc gia này vẫn có thái độ không đếm xỉa gì đến những
lời phản đối của các nước Đông Dương.
Để phát triển mở mang kinh tế vùng Vân Nam – Tứ Xuyên,
chính phủ Bắc Kinh đang có một kế hoạch vĩ đại xây 14 đập nước bậc thềm ở
thượng lưu sông Cửu Long (có tên là Lan Thượng ở Vân Nam). Đập đầu tiên đã xây
xong và đã phát điện còn đập thứ hai Mãn Ngoạn ở gần thị trấn Cảnh Hồng thì tới
cuối năm nay sẽ xong, sau đó những đập kế tiếp sẽ được xây từ nay cho đến năm
2010 thì hoàn tất. Vì thượng lưu sông Cửu Long ở Vân Nam là một thung lũng hẹp và sâu
nên rất thuận lợi cho việc xây dựng những đập nước bậc thềm. Cùng một dòng nước
nhưng chảy qua một thung lũng có dốc cao nên có thể dùng để xây dựng nhiều nhà
máy thủy điện rất mạnh có công suất cao dùng cho kỹ nghệ. Nhưng vì làm thay đổi
mực nước sông Cửu Long nên kế hoạch xây đập sẽ khiến cho rất khó kiểm soát số
lượng nước nên nạn lụt lội đã xảy ra, các nước Đông Nam Á đang tìm cách chống
lại kế hoạch xây đập của Trung Quốc. Điều đáng lo ngại nhất là ảnh hưởng lâu
dài của những đập nước lên những vựa lúa màu mỡ ở miền Nam Việt Nam và
ở xứ Cao Miên. Trong khi đó thì Bắc Kinh hoàn toàn không đếm xỉa gì đến những
mối quan tâm của các nước phía Nam
và không hề tham khảo khi khởi công xây đập. Lê Quang Minh, dân biểu Quốc hội và
Phó Viện trưởng Đại học Cần Thơ, nói: “Chúng tôi không biết được gì về kế hoạch
xây đập của Trung Quốc và đây là điều mà chúng tôi rất lo lắng”.
Nhưng
các nước Đông Dương không muốn công khai phản đối lại Trung Quốc.
Các chuyên viên quốc tế về môi sinh đều phản đối dữ
dội kế hoạch xây đập trên sông Cửu Long của Trung Quốc vì gây ra nhiều ô nhiễm,
giảm mức độ phù sa của nước sông Cửu Long, ngư nghiệp suy sụp và nhất là sẽ làm
cạn dòng sông Cửu Long, toàn thể miền Nam Việt Nam sẽ chết khát vì thiếu nước tưới
ruộng! Sự việc Bắc Kinh từ chối không chịu công bố các khảo sát của họ về môi
sinh trước khi xây đập cũng làm cho nhiều người nghi ngờ thiện chí của họ.
Tiến
sỹ Prachoon Chomchai, Giám đốc chương trình Phát triển sông Cửu Long ở Vọng Các
nói: “Chúng tôi hoàn toàn không biết gì về ý đồ của Trung Quốc và đã đến lúc
các nước Đông Nam Á cần phải có chiến lược chung để đối phó lại”. Nhưng làm thế
nào để đối phó?
Đối với Trung Quốc thì họ có một kế hoạch phát triển
kinh tế riêng rẽ, bất chấp sự thiệt hại cho các nước lân bang. Khi Bắc Kinh
quyết định bỏ ngỏ vùng bờ biển phía Đông thì đã gây nên một sự chênh lệch trầm
trọng về kinh tế giữa vùng nội địa bị bỏ lại đằng sau. Sự phát triển vượt bật
của các vùng Lưỡng Quảng, Thượng Hải, Phúc Kiến… đã thu hút hơn 100 triệu cư
dân ở trong nội địa từ những vùng Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên… thất
nghiệp bò về kiếm việc làm.
Hiện nay vùng Vân Nam bị coi là chậm tiến, kém mở
mang nhất nước Tàu. Tuy có nhiều tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản lâm sản
nhưng vì thiếu năng lượng nên chính phủ Bắc Kinh phải tìm các xây những đập
nước để phát điện khai thác vùng Vân Nam hòng ngăn lại làn sóng người từ nội
địa đổ về các thị trấn ở miền Đông đã nghẹt người như Thượng Hải, Quảng Châu.
Thủ phủ Côn Minh được chọn làm địa điểm xây những nhà máy chế biến các khoáng
sản như thiếc, kẽm, chì, vàng bạc của Vân Nam khiến các chất độc phế thải sẽ bị
đổ vào sông Cửu Long và sẽ làm nhiễm độc toàn thể vùng Đông Nam Á.
Khi Ủy ban Phát triển sông Cửu Long họp vào năm 1995
và mời Bắc Kinh đến tham dự thì họ đã từ chối. TS Sunai Phasuk nói: “Chúng tôi
tin là Bắc Kinh chẳng quan tâm gì tới quyền lợi của chúng tôi mà chỉ biết quyền
lợi riêng, của họ mà thôi”. Đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan chỉ nói một cách mập
mờ rằng: “Chúng tôi sẽ giúp xây dựng sự tin cậy và hợp tác giữa các nước lân
bang”. Các nước Đông Nam Á cũng lo ngại rằng nếu hợp tác với một nước lớn như
Trung Quốc thì kinh tế của họ sẽ bị ngập tràn bởi hàng hóa rẻ tiền của người
Tàu, giống như là một sự hợp tác giữa một đàn cá bé với một con cá mập. Các
nước Đông Nam Á chỉ muốn bàn về việc phân chia các dòng nước sông Cửu Long cho
công bằng với Trung Quốc mà thôi.
Hiện nay 30% dân chúng sinh sống ở lưu vực sông Cửu
Long bị ở dưới mức nghèo khổ và con số thất nghiệp mỗi ngày gia tăng, nếu sự ô nhiễm
sông sông Cửu Long làm cho sản lượng lúa gạo bị giảm sút thì con số người chết
đói sẽ không phải nhỏ. Nhưng chìa khóa của kế hoạch phát triển sông Cửu Long
vẫn nằm trong tay Bắc Kinh vì họ đang ở thế cầm dao đằng chuôi, đặt ra những
điều kiện cắt cổ đối với các nước Đông Nam Á.
Ủy ban Bảo vệ
môi sinh Terra, trụ sở ở Thái Lan, cho rằng các nước Đông Nam Á đang bị
áp lực của Trung Quốc nên không dám đặt ra vấn đề bảo vệ môi sinh lưu vực sông
Cửu Long và chống lại việc xây đập bậc thềm ở Vân Nam, Tứ Xuyên. Nhược điểm nữa
là sự chia rẽ của các nước Đông Nam Á, thiếu một chính sách đồng nhất đối với
Trung Quốc, mỗi nước có những ưu tiên riêng và không thể nào đoàn kết với nhau
hòng bảo vệ quyền lợi chung. Về lâu dài thì những đập nước ở Vân Nam sau khi xây xong sẽ biến thành một cái thòng
lọng tròng vào cổ các nước Đông Dương nhất là Việt Nam . Nếu các nước Đông Dương có một
thái độ chống đối Bắc Kinh thì họ chỉ cần khóa lại các vòi nước thì tất cả sẽ
chết khát, các ruộng lúa thiếu nước sẽ khô cạn và nạn đói sẽ xảy ra. Hoặc nếu
mực nước dâng cao thì họ có thể mở đập khiến lụt lội xảy ra, chôn vùi các vùng
châu thổ sông Hồng, sông Hậu trong một biển nước!.
Từ trước đến nay mực nước sông Cửu Long thay đổi mỗi
năm theo một chu kỳ chính xác theo thời tiết là nhờ có một cơ chế thiên nhiên
hết sức tinh vi nhờ các lớp tuyết tan ở Tây Tạng, nước mưa ở bên Tàu và bên Lào
để điều hòa mực nước sông Cửu Long. Biển hồ ở Cao Miên cũng giữ một vai trò
điều hòa mực nước sông Cửu Long khiến cho mực nước lên xuống đều đặn, không có
nạn lũ như ở miền Bắc.
Các chuyên viên về thủy nông rất lo ngại là những đập
nước bậc thềm ở Vân Nam sẽ làm hỏng cơ chế thiên nhiên điều hòa mực nước sông
Cửu Long đã có từ cả ngàn năm nay, tạo nên những xáo trộn tai hại cho nền nông
nghiệp của miền Nam. Kinh nghiệm của các nước đã từng xây đập nước lớn trên thế
giới như Ba Tây (đập Iguazu), Thổ Nhĩ Kỳ (đập Keban), Trung Quốc (đập Tam Môn,
Tam Giáp Khẩu), Ai Cập (đập Aswan)… đều cho thấy là ảnh hưởng lên sự màu mỡ của
đất đai rất nặng, số lượng tôm cá bị giảm sút rất nhiều khiến dân chúng bị suy
dinh dưỡng vì bị thiếu chất protein. Nếu nước sông Cửu Long bị các đập nước
chặn mất đất phù sa thì chắc chắn sản lượng lúa gạo ở miền Tây sẽ bị giảm sút
trầm trọng, bao nhiêu phân bón hóa học cũng không đủ để bù lại, thiếu gạo thì
nạn đói sẽ xảy ra.
Sự phản đối, kêu ca của các tổ chức quốc tế về ảnh
hưởng tai hại của các đập nước Vân Nam đã bắt đầu có một vài ảnh hưởng
lên chính sách của Trung Quốc. TS Achim Steiner cho biết là Trung Quốc đang có
một chính sách ngoại giao âm thầm đối với các nước lân bang qua những cuộc hội
thảo, trao đổi kinh nghiệm, không dám ăn hiếp một cách trắng trợn vì sợ dư luận
quốc tế. Việt Nam đã gửi một phái đoàn sang Vân Nam để bàn về kế hoạch xây đập
và ảnh hưởng của những đập nước này lên vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nhất là
sông Hồng, sau khi có tin là Trung Quốc đang nghiên cứu xây thêm một số đập
nước ở thượng lưu sông Hồng, sông Đà ở vùng Mông Tự, Hà khẩu… Nạn phá rừng ở
thượng lưu sông Hồng và sông Đà cũng có ảnh hưởng rất tai hại lên vùng châu thổ
sông Hồng vì nước mưa, nước lũ không còn bị kềm hãm lại bởi các khu rừng già ở
Việt Bắc và bên Tàu đang bị cán bộ kiểm lâm phá hoại, đốn rừng lấy gỗ bán ra
ngoại quốc, lấy tiền đút túi.
Hiện nay các nước Đông Nam Á đã ý thức được rằng Trung
Quốc chỉ chịu bàn về những điều gì có lợi cho nước họ mà thôi.
Đại
diện Tổ chức Bảo vệ môi sinh Terra nói “Các nước Đông Dương cần có một kế hoạch
đồng nhất để quản trị, phân phối nước sông Cửu Long và không nên bị chia rẽ bởi
những biên giới chính trị”.
Nhưng chìa khóa cuối cùng của kế hoạch phát triển sông
Cửu Long vẫn nằm ở trong tay Bắc Kinh!”...
(còn tiếp)
-------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét