Vụ Philippines
kiện Trung Quốc ở Biển Đông đã kết thúc bằng phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa
trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước liên hợp quốc về Luật
biển. Có thể coi đây là vụ kiện thế kỷ vì nhiều lý do.
Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, nước Trung Hoa – “trung tâm
thế giới” bị một nước nhỏ đơn phương kiện về tranh chấp biển. Tranh chấp Biển
Đông là tranh chấp phức tạp, có nhiều bên tham gia, nhiều nước quan tâm nhất.
Lần đầu tiên Tòa phải trả lời và giải thích cụ thể điều 121.3 của UNCLOS và qua
đó góp phần phát triển luật biển quốc tế. Nội dung phán quyết không chỉ tác
động đến các bên liên quan chính của vụ kiện mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước
trong và ngoài khu vực, đến tiến trình thực thi và phát triển của luật biển,
luật quốc tế.
Sau 17 năm đàm phán song phương bất thành, 3 năm tiến
hành các thủ tục khởi kiện và xét xử, phán quyết đưa ra được coi là có lợi cho Philippines .
Trung Quốc thi hành chính sách ba không: không công nhận thẩm quyền của Tòa,
không tham gia, không chấp nhận thi hành phán quyết. Càng gần ngày phán quyết,
Trung Quốc càng hoạt động mạnh mẽ, tung ra cả một chiến dịch tuyên truyền xem
mình như nạn nhân của một âm mưu pháp lý-chính trị, tác động dư luận quốc tế
mạnh mẽ, điều mà một số nhỏ các quốc gia trong hoàn cảnh tương tự (không tham
gia Tòa) chưa từng làm. Đây cũng có thể là lý do Tòa PCA đã phải kéo dài thời
gian công bố phán quyết theo dự định để có được một phán quyết khách quan nhất,
giảm thiểu các chỉ trích của các bên. Phán quyết đã đóng vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến chính trị, an ninh, kinh tế của các nước trong khu vực Biển Đông, đến
đoàn kết nội bộ ASEAN, cạnh tranh Mỹ-Trung và chính sách đối ngoại của các nước
có quyền lợi ở Biển Đông. Phán quyết cũng là phép thử về độ tin cậy của luật
quốc tế, sự tôn trọng và thiện chí của các bên trong thi hành. Các tác động
không dự tính trước được của phán quyết sẽ còn tác động đến nhiều thế hệ.
Philippin đã đệ trình 15 câu hỏi trước Tòa trên cơ sở
giải thích và áp dụng Công ước Luật biển. Philiippin đã mời đội ngũ luật sư
quốc tế danh tiếng, chuẩn bị hồ sơ 4000 trang trình Tòa trong phiên điều trần 1
và bổ sung 3000 trang trong phiên điều trần thứ 2. Nội dung các câu hỏi trên
quy lại thành 3 vấn đề chính: 1) giá trị pháp lý của đường yêu sách lưỡi bò của
Trung Quốc trong Biển Đông; 2) quy chế pháp lý của một số thực thể đảo, đá, bãi
cạn nửa nổi nửa chìm trong quần đảo Trường Sa; 3) các hành vi của Trung Quốc mà
Philippin cho là không phù hợp với Công ước, làm tổn hại các quyền Công ước quy
định cho Philippin và môi trường biển.
Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện với các lý do: 1)
bản chất thực sự của tranh chấp Trung Quốc – Philippin là vấn đề chủ quyền mà
Tòa không có thẩm quyền; các đệ trình của Philippin như xác định quy chế các
thực thể liên quan đến vấn đề phân định biển và đã bị loại bỏ bởi bảo lưu của
Trung Quốc năm 2006 đối với điều 298 của Công ước; Philippin đã không tuân thủ
các cam kết giữa hai nước, Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên
ở Biển Đông, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á, Hiệp ước Đa dạng sinh
học… tiến hành giải quyết bằng đàm phán song phương thay vì sự can thiệp của
bên thứ ba. Tài liệu lập trường của Trung Quốc đã được Tòa xem xét kỹ lưỡng.
Bằng phán quyết về thủ tục và thẩm quyền ngày 29/10/2015 Tòa đã bác các lập
luận của Trung Quốc, thừa nhận Tòa có thẩm quyền xem xét 7/15 điểm Philippin đề
nghị. Các điểm khác, Tòa sẽ quyết định thẩm quyền của mình khi xem xét các vấn
đề nội dung.
Phán quyết nội dung ngày 12/7/2016 dày 501 trang khẳng
định Tòa có thẩm quyền xem xét toàn bộ 15 điểm Philppin đưa ra và lần lượt cho
câu trả lời từng vấn đề.
Về thầm
quyền
Ngoài các lập luận đã công bố trong phán quyết về thẩm
quyền ngày 29/10/2015, Tòa tiếp tục xem xét các ngoại lệ mà bảo lưu năm 2006
của Trung Quốc về điều 298 của Công ước có thể ngăn cản thẩm quyền. Tòa cho
rằng ngoại lệ ở Điều 298 chỉ có thể áp dụng nếu Đệ trình của Phi-líp-pin liên
quan đến hoạt động thực thi pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung
Quốc. Tuy nhiên, do Đệ trình của Phi-líp-pin liên quan đến các sự kiện
diễn ra trong chính vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin
hoặc ở vùng lãnh hải, nên Điều 298 không cản trở thẩm quyền của Toà. Ngoại lệ
thứ hai là các hoạt động quân sự không thuộc thẩm quyền của Tòa. Xuất phát từ
các tuyên bố ở cấp cao nhất của Trung Quốc rằng các hoạt động cải tạo và xây
dựng đảo nhân tạo ở bảy cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa chỉ mang tính dân sự
và Trung Quốc sẽ không quân sự hóa sự hiện diện của mình trên Trường Sa, Tòa đã
quyết định không coi các hoạt động trên có tính quân sự khi mà bản thân Trung
Quốc đã liên tục khẳng định điều ngược lại. Lập luận này cho phép Tòa loại bỏ
ngoại lệ của Điều 298 cản trở thẩm quyền xem xét các hoạt động quân sự. Kết
luận này của Tòa có ý nghĩa khẳng định giá trị của các hành vi đơn phương từ
các quốc gia, nhất là từ các lãnh đạo cấp cao, sẽ tạo ra nguồn bổ trợ cho luật
quốc tế và mang tính rang buộc. Trên cơ sở các phân tích ở cả 2 phán quyết, Tòa
tuyên bố mình có đủ thẩm quyền xem xét các nội dung chính của Đệ trình của
Philippin.
Về đường
chín đoạn
Do Trung Quốc không giải thích và yêu sách mơ hồ không
rõ ràng, Tòa đã sử dụng phương pháp loại trừ để xác định phần chung nhất giữa
yêu cầu của Philippin và đòi hỏi của Trung Quốc mà Tòa có thẩm quyền. Tòa khẳng
định không xem xét vấn đề chủ quyền các thực thể trong phạm vi đường chín đoạn.
Tòa đã xem xét kỹ khái niệm danh nghĩa lịch sử, một khái niệm có thể mang lại chủ
quyền cho quốc gia đòi hỏi và quốc gia này có nghĩa vụ chứng minh. Khái niệm
này được Công ước 1982 đề cập trong điều 15 liên quan đến phân định lãnh hải.
Xem xét danh nghĩa lịch sử bị hạn chế bởi bảo lưu 2006 của Trung Quốc. Song
Trung Quốc đã không bao giờ chứng minh bản chất pháp lý và phạm vi của danh
nghĩa lịch sử mà mình đòi hỏi. Các yêu sách của Trung Quốc ngoài việc tuyên bố
có chủ quyền trên các đảo và các vùng nước kế cận, còn là yêu sách “các quyền
chính đáng ở Biển Đông, được tạo thành trong quá trình lịch sử lâu dài”.
Sự mơ hồ, không rõ ràng trong các tuyên bố của Trung
Quốc không chứng minh được họ có danh nghĩa lịch sử. Tòa phân tích rõ cái mà
Trung Quốc, thông qua các hành vi và tuyên bố khác nhau của mình, đòi hỏi là
quyền lịch sử đối vói các nguồn tài nguyên trong phạm vi đường chín đoạn. Quyền
này không gắn với các khái niệm danh nghĩa lịch sử hay Vịnh lịch sử. Các quyền
đánh cá lịch sử truyền thống đã được các nước trong đó có Trung Quốc thảo luận
trong quá trình Hội nghị lần thứ III về luật biển và đã không được chấp nhận
đưa vào Công ước.
Yêu sách của Trung Quốc về quyền lịch sử đối với tài
nguyên sinh vật và không sinh vật trong phạm vi đường chin đoạn không phù hợp
với Công ước với nghĩa là nó đã vượt quá phạm vi các vùng biển mà Công ước quy
định. Các quyền lịch sử này nếu có đã không phù hợp với các định chế vùng biển
mới của Công ước khi có hiệu lực và vì thế không tồn tại. Mặt khác trước khi
Công ước có hiệu lực và vùng đặc quyền kinh tế trở thành một định chế mang tính
tập quán quốc tế thì các vùng biển nằm ngoài lãnh hải 12 hải lý là vùng biển
cả. Mọi hoạt động đánh bắt của ngư dân Trung Quốc, ngư dân các nước khác là
thực hiện quyền tự do đánh bắt chứ không mang tính lịch sử. Hoạt động hàng hải
và đánh cá lịch sử bên ngoài lãnh hải vì vậy không thể tạo nên cơ sở cho việc
hình thành quyền lịch sử.
Tòa xác định rằng “mặc dù các nhà hàng hải Trung Quốc
và ngư dân của họ, cũng như những người như vậy từ các quốc gia khác, đã từng
trong lịch sử sử dụng những hòn đảo này ở Biển Nam Trung Hoa, hiện không hề có
chứng cứ gì rằng Trung Quốc đã thực thi về mặt lịch sử sự kiểm soát đặc quyền
trên toàn vùng nước hay tài nguyên”. Vì vậy, với các câu hỏi số 1 và 2
của Philippin liên quan đến giá trị pháp lý đường chin đoạn, Tòa tuyên “không
có cơ sở pháp lý nào để khẳng định nước này (Trung Quốc) có quyền lịch sử đối
với các tài nguyên, theo các quyền được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
1982 (UNCLOS), ở các khu vực biển trong phạm vi đường chín đoạn”. Bằng tuyên bố
này, Tòa đã bác bỏ 2 trong số 3 khía cạnh mà các học giả Trung Quốc thường biện
hộ cho đường chín đoạn; yêu sách quyền lịch sử đánh cá truyền thống và yêu sách
vùng biển. Chỉ còn lại khía cạnh yêu sách chủ quyền các thực thể trong phạm vi
đường chín đoạn, điều mà Tòa không có thẩm quyền xét xử.
Về quy chế
pháp lý của các thực thể trong quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough
Philippin chỉ nêu cụ thể 7 thực thể. Tòa đồng ý với
Philippin rằng Gạc Ma (Johnson South Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef), Chữ
Thập (Fiery Cross) và Scarborough là các thực thể nổi; Xu Bi, Tư Nghĩa (Hughes
Reef), Vành Khăn (Mischief Reef) và Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) là các
thực thể nửa nổi nửa chìm trong điều kiện tự nhiên nhưng không đồng ý với
Philippin về trường hợp của Ga Ven và Ken Nan và kết luận rằng cả hai đều là
thực thể nổi. Tòa Trọng tài giải thích Điều 121.3 và kết luận rằng các quyền
được hưởng vùng biển của một thực thể phụ thuộc vào (a) năng lực khách quan của
thực thể; (b) trong điều kiện tự nhiên, thực thể đó có thể duy trì hoặc (c) một
cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài
nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác. Việc các
nhân viên công vụ sống và làm việc trên một số thực thể này, hay việc xây dựng,
cải tạo mới không làm thay đổi quy chế pháp lý ban đầu của thực thể.
Từ lập luận đó, và áp dụng nguyên tắc tương tự Tòa
tuyên bố không có thực thể nào tại Trường Sa có khả năng duy trì đời sống con
người ở đó nên không điểm nào có vùng đặc quyền kinh tế và hay vùng thềm lục
địa. riêng, kể cả trường hợp đảo lớn nhất Ba Bình. Đây là các quyết định quan
trọng không chỉ cho Biển Đông mà còn cho biển Hoa Đông, tranh chấp Điếu ngư
đảo, đảo Tokto, quần đảo Riukyu và các vụ tranh chấp đảo đá khác khi áp dụng
điều 121.3 của Công ước. Nó khẳng định vai trò của Tòa trong giảm thiểu các
tranh chấp, tìm kiếm các giải pháp cho hòa bình, ổn định quốc tế. Tuy nhiên,
Trung Quốc có thể bác bỏ khi cho rằng Tòa vượt thẩm quyền, giải quyết ra ngoài
các yêu cầu của Philippin.
Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy
định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư
cách là một thực thể thống nhất. Nó ngăn chặn mọi toan tính trong tương lai
việc thiết lập các đường cơ thẳng cho quần đảo Trường Sa như một thực thể thống
nhất như Trung Quốc đã làm với Hoàng Sa năm 1996.
Về các hành
vi của Trung Quốc
Sau khi đã xác định các thực thể ở Trường Sa chỉ có 12
hải lý, Tòa dễ dàng kết luận không có sự chồng lấn vùng đặc quyền kinh tế của
Philippin và Trung Quốc ở Trường Sa. Vì vậy không cần đến phân định biển cũng
có thể nhận thấy các hành vi của ngư dân và lực lượng chấp pháp của Trung Quôc
nằm ngoài phạm vi 12 hải lý từ các thực thể được nêu là nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế Philippin, “bởi chúng không hề chồng lấn lên bất kỳ khu vực nào
có thể thuộc về Trung Quốc”. Hành động cắt mũi, truy đuổi tàu Philippin của lực
lượng chấp pháp Trung Quốc trong các vùng biển này là vi phạm các Quy tắc ngăn
ngừa va chạm trên biển 1972 và các công ước quốc tế về an toàn hàng hải. Ngư
dân Philippin có quyền đánh cá truyền thống ở Scarborough và Tòa cũng có thể
nói như vậy về ngư dân Trung Quốc nhưng Trung Quốc đã can thiệp để ngăn chặn
ngư dân Philippines
tiếp cận vùng biển. Tòa đã yêu cầu chuyên gia phản biện độc lập nghiên cứu và
đưa ra kết luận các hoạt động xây đảo nhân tạo, cải tạo bãi gây tổn hại nghiêm
trọng tới môi trường biển. Đặc biệt, Tòa cũng chỉ ra rằng ngư dân Trung Quốc đã
thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa tuyệt chủng như rùa biển, san hô và
trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện pháp gây hủy hoại
nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hô. Tòa Trọng tài xác định rằng chính
quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không thực hiện nghĩa vụ
cần thiết theo Công ước để ngăn chặn. Các hành động này của Trung Quốc đã làm
trầm trọng thêm xung đột ở Biển Đông.
Phản ứng các bên
Phán quyết đã được đón nhận và hoan nghênh rộng rãi
trên toàn thế giới. Phán quyết thúc đẩy tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế,
đưa ra các chỉ dẫn quan trọng về giải thích và áp dụng Công ước luật biển 1982,
đồng thời yêu cầu các quốc gia liên quan phải làm rõ nội dung và phạm vi tranh
chấp phù hợp với luật pháp. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản,
Australia, Ấn Độ, Hàn Quốc, nhiều quốc thành viên ASEAN,… đều nhanh chóng ra
tuyên bố khẳng định ủng hộ phán quyết, coi đây là phán quyết chung cuộc, mang
tính ràng buộc pháp lý và các bên liên quan phải tuân thủ phán quyết này đồng
thời kêu gọi các bên kiềm chế, tuân thủ luật pháp quốc tế.
Phán quyết trả lại quyền tự do hàng hải, hàng không
cho cả cộng đồng quốc tế trên hầu hết khu vực Biển Đông. Đối với các vùng nước
lãnh hải 12 hải lý của các thực thể đảo, tàu thuyền được thực hiện quyền qua
lại không gây hại. Tàu bè của Mỹ hay các nước khác có thể đi sát Vành Khăn, vào
trong phạm vi 12 hải lý nơi Trung Quốc xây dựng đường băng và căn cứ lớn trên
đảo nhân tạo. Phán quyết gián tiếp bác bỏ mọi mưu tính thiết lập một vùng nhận
diện phòng không của bất kỳ nước nào trên Biển Đông.
Phán quyết tạo cơ sở để ASEAN dưới sự lãnh đạo của
nước Chủ tịch Lào sớm có được lập trường chung tại Hội nghị thượng đỉnh 21/7
tới. Singapore , điều phối
viên quan hệ ASEAN – Trung Quốc, nước quan ngại nhất về tự do hàng hải ở Biển
Đông và Indonesia ,
nước được giải thoát khỏi những khó chịu gần đây khi vùng biển Natura nằm trong
phạm vi đường chín đoạn, sẽ đóng vai trò tích cực chủ động. Malaysia , an
tâm về Bãi Tăng Mẫu, sẽ tiếp tục chính sách hợp tác kinh tế với Trung Quốc
trong khi ủng hộ phán quyết của Tòa. BNG Malaysia ra tuyên bố cho rằng “Trung
Quốc và tất cả các bên liên quan có thể tìm ra những cách thức mang tính xây
dựng để phát triển các cuộc đối thoại, đàm phán và tham vấn một cách lành mạnh,
trong khi duy trì tính thượng tôn pháp luật vì hòa bình, an toàn và an ninh của
khu vực.”.
Một số nước không có quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông
cũng nhận thấy phán quyết của Tòa tạo cơ sở cho các bên tiếp tuc đàm phán giải
quyết tranh chấp. Philiippin nước khởi kiện đã chủ động đề nghị nối lại đàm
phán với Trung Quốc, kể cả trên vấn đề “gác tranh chấp cùng khai thác”. Trên
phương diện này, Philippin đã đi một con đường vòng 13 năm, kể từ thỏa thuận ba
bên Philippin-Trung Quốc -Việt Nam hợp tác phát triển chung năm 2003. Tuy nhiên
đề nghị lần này dựa trên một cơ sở pháp lý rõ ràng là các thực thể trong Trường
Sa không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Một tuyên bố kêu gọi
các bên liên quan tôn trọng phán quyết của Tòa, ủng hộ duy trì trật tự ở Biển
Đông dựa trên luật pháp quốc tế sẽ cải thiện hình ảnh một ASEAN bị chia rẽ
trong thời gian qua. Trung Quốc giữ được thể diện khi cùng ASEAN tiếp tục đàm
phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC. Song một kịch bản xấu, ASEAN không
ra được tuyên bố chung vẫn có thể xảy ra khi vẫn có ý kiến trái ngược, phá vỡ
cơ chế đồng thuận của khối. Sự đoàn kết ASEAN còn có thể bị ảnh hưởng bởi lập
trường của Philippin, nước là Chủ tịch năm tới. Nếu Philippin làm sống lại
tranh chấp bang Sabah với Malaysia ,
Én Ca mà Malaysia
đang quản lý có thể nằm trên thềm lục địa yêu sách của Philippin?
Phán quyết của Tòa cũng tác động mạnh đến tiến trình
đàm phán trong tương lai nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề
chủ quyền ở Biển Đông. Đài Loan, tác giả của đường chín đoạn, dù không giữ được
yêu sách 200 hải lý cho Ba Bình, có thể hài lòng vì phán quyết không động đến
chủ quyền. Căn cứ vào vị thế và sức mạnh trong khu vực, Đài Loan có thể tuyên
bố từ bỏ yêu sách đường chín đoạn để đổi lấy status quo. Nếu điều này xảy ra,
tình hình Biển Đông sẽ còn thay đổi.
Câu hỏi lớn nhất hiện nay là Trung Quốc sẽ phản ứng
thế nào trước phán quyết của Tòa. Phán quyết này đã chặn đứng đà đi lên của
Trung Quốc như một siêu cường mới thách thức địa vị của Mỹ cũng như các tham
vọng “một hành lang một con đường” và “lợi ích cốt lõi”. Nó đặt Bắc Kinh trước
hai lựa chọn: tiếp tục bác bỏ, làm sứt mẻ vị thế và niềm tin từ các nước khác
hay điều chỉnh chính sách. Chỉ sau 4g tuyên án, mạng website của Tòa PCA đã bị
hacker Trung Quốc đánh sập. Cùng ngày Tòa ra phán quyết, Chủ tịch Tập Cận Bình
tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và những lợi ích biển của Trung Quốc tại Biển Đông
sẽ không bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Tòa trong mọi tình huống. Bộ Ngoại
giao Trung Quốc cho rằng phán quyết là vô giá trị và không ràng buộc. Không
nghi ngờ gì, trong thời gian tới Trung Quốc sẽ thực hiện một chiến dịch tuyên
truyền khổng lồ nhằm bác bỏ phán quyết, duy trì các yêu sách của mình ở Biển
Đông.
Trong lịch sử tố tụng quốc tế đã có 5 trường hợp các
quốc gia không xuất hiện trước Tòa, không chấp nhận thẩm quyền của Tòa như vụ
thử vũ khí hạt nhân Niu Dilân và Australia kiện Pháp năm 1974, Nicaragua
kiện Mỹ năm 1985, hay vụ Hà Lan kiện Nganăm 2013 vì Moscow bắt
giữ một tàu của Greenpeace…Nhưng cùng với thời gian và sức ép của cộng đồng
quốc tế, các nước này đều hợp tác giải quyết tranh chấp theo phán quyết của
Tòa. Cộng đồng quốc tế hy vọng Trung Quốc, nước tham gia tích cực Hội nghị luật
biển lần thứ III của Liên hợp quốc, một cường quốc luôn tuyên bố trỗi dậy hòa
bình, cũng sẽ không phải là ngoại lệ.
Trong tuyên bố của người phát ngôn BNG Trung Quốc
bao gồm cả khả năng mở cửa đàm phán với Philippin sau phán quyết. Cộng đồng
quốc tế cũng cần giúp đỡ Trung Quốc âm thầm điều chỉnh chính sách và hành động
thực tế phù hợp với luật quốc tế. Do Tòa chỉ bác đường chín đoạn ở khía cạnh
yêu sách vùng biển mà không bình luận về yêu sách chủ quyền, Trung Quốc sẽ tiếp
tục khẳng định chủ quyền theo đường chín đoạn, thậm chí duy trì yêu sách 200
hải lý đặc quyền kinh tế từ các thực thể này. Họ sẽ tiếp tục tăng cường sự hiện
diện quân sự trên các đảo nhân tạo. Bắc Kinh có thể tính đến việc chiếm đóng
thêm một số bãi đá không người.
Một kịch bản được nhiều chuyên gia dự đoán là Trung
Quốc sẽ triển khai xây đảo nhân tạo ở Scarborough .
Mỹ đã cảnh báo Trung Quốc không được vượt làn ranh đỏ. Song Scarborough không
phải là lãnh thổ nằm trong cái ô bảo vệ của Hiệp ước phòng thủ Mỹ- Phi. Một khả
năng không cao nhưng vẫn có thể xảy ra khi Bắc Kinh sử dụng vũ lực chiếm một số
vị trí thuộc quyền kiểm soát của các bên khác. Bắc kinh có thể cho rằng Tòa đã
không đúng khi xem xét quy chế pháp lý từng thực thể mà không xem quần đảo
Trường Sa là một thực thể. Thay vì thiết lập một vùng nhận diện phòng không kém
hiệu quả và khó kiểm soát, Bắc Kinh có thể tuyên bố đường cơ sở quần đảo Trường
Sa như đã làm với quần đảo Hoàng Sa năm 1996. Từ đường cơ sở này Trung Quốc sẽ
tiếp tục mở rộng các vùng biển tranh chấp, thay cho đường chín đoạn. Trung Quốc
không thể dễ dàng từ bỏ mưu tính kiểm soát Biển Đông, làm đối trọng với Mỹ
trong cạnh tranh chiến lược. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền còn diễn ra khốc liệt.
Đụng độ là có thể nhưng các bên đủ tỉnh táo, kiềm chế để không xảy ra chiến
tranh. Ngay sau phán quyết, một cuộc chạy đua vũ trang, củng cố sức mạnh đã
được các nước âm thầm phát động. Indonesia đã tăng cường an ninh
xung quanh các đảo Natura. Phản ứng của Trung Quốc cùng sự thiếu vắng cơ chế
cưỡng chế thực thi phán quyết của Tòa cho thấy dù quan trọng, giải pháp pháp lý
không là giải pháp toàn diện giải quyết xung đột ở Biển Đông. Trước mắt tình
hình sẽ căng thẳng.
Phán quyết
tác động đến Việt Nam
Là quốc gia ven biển có chủ quyền trên Biển Đông, Việt
Nam
thi hành chính sách nhất quán bác bỏ đường chín đoạn phi lý và ủng hộ Tòa Trọng
tài có thẩm quyền. Ngày 7/12/2014, BNG Việt Nam
đã gửi Tuyên bố lưu ý Tòa lập trường của Việt Nam ‘nhằm bảo vệ các quyền và lợi
ích có bản chất pháp lý của mình trong BĐ… mà có thể ảnh hưởng trong tiến
trình trọng tài”. Việt Nam
cũng thể hiện mạnh mẽ ủng hộ “các nước thành viên CULB tìm kiếm giải quyết các
tranh chấp của họ liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước…thông qua các
thủ tục quy định trong Phần XV của Công ước”. Tuyên bố nêu rõ “Việt Nam
không nghi ngờ Tòa có thẩm quyền trong tiến trình vụ kiện” và mong muốn quyết
định của Tòa có thể “làm sáng tỏ lập trường pháp lý của các bên trong vụ kiện
này và của các bên thứ ba có quan tâm”. Khi thực hiện hồ sơ ranh giới ngoài
thềm lục địa cùng Malaysia năm 2009, Việt Nam đã xuất phát từ tiền đề tất cả
các thực thể trong quần đảo Trường Sa chỉ có vùng biển không quá 12 hải lý.
Quan điểm của Việt Nam
hoàn toàn phù hợp với nội dung của phán quyết ngày 12/7/2016.
Ngày 12/7/2016, Việt Nam đã nhanh chóng tuyên bố ủng hộ
việc ra phán quyết. Người phát ngôn BNG Việt Nam tuyên bố: “Việt Nam một lần
nữa khẳng định lập trường nhất quán về vụ kiện, ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết
các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình
ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực theo quy định
của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS) năm 1982. Việt Nam ủng hộ duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực, an
ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, tôn trọng nguyên tắc
thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương. Việt Nam tiếp tục khẳng
định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền
đối với nội thủy và lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS
cũng như tất cả các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam liên quan đến các cấu
trúc địa lý thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Việt Nam cần nghiên
cứu kỹ phán quyết để có những chính sách và phản ứng phù hợp
Phán quyết của Tòa tạo điều kiện pháp lý bảo vệ toàn
vẹn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ đất liền tách khỏi vùng nước
tranh chấp. Hợp đồng công ty Trung Quốc Hai Zi Yang ký với công ty Mỹ Crestone
năm 1992 trên bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam sẽ không còn giá trị.
Cũng như vậy là 9 lô dầu khí mà CNOOC (Công ty dầu khí ngoài khơi Trung Quốc)
gọi thầu năm 2012 trên thềm lục địa Việt Nam. Đây là ví dụ đã được Tòa đề cập
trong phán quyết tr.89.
Việt Nam
và Malaysia
có thể yêu cầu Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc xem xét sớm hồ
sơ chung về ranh giới ngoài thềm lục địa hai nước đã đệ trình năm 2009.
Philippin sẽ rút lại yêu cầu Ủy ban chưa xem xét hồ sơ của Việt Nam và Malaysia và nước này có thể gia
nhập hồ sơ chung.
Các hoạt động cắt cáp, truy đuổi ngư dân Việt Nam thực hiện
quyền đánh bắt chính đáng tại các vùng biển của mình phải được chấm dứt. Quyền
tiếp cận tài nguyên của ngư dân Việt Nam tại các vùng biển Hoàng Sa,
Trường Sa phải được đảm bảo.
Việt Nam
cùng các nước có cơ sở đòi hỏi Trung Quốc chấm dứt lệnh cấm đánh bắt cá trái
phép trong Biển Đông ban hành từ 1998.
Việt Nam
cũng như các nước liên quan có cơ sở làm rõ đòi hỏi vùng biển quần đảo Trường
Sa trên cơ sở yêu sách chủ quyền các thực thể.
Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm, sử dụng giải pháp
pháp lý để xác định quy chế pháp lý của các thực thể tại quần đảo Hoàng Sa, bác
bỏ đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa năm 1996, giảm bớt các tranh chấp biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở duy trì đòi hỏi chủ quyền. Việt Nam cũng có cơ
sở để đấu tranh với các vi phạm môi trường biển.
Phán quyết của Tòa cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
Việt Nam thực hiện Nghị quyết khoáIX, kỳ họp thứ 5, ngày 23 tháng 6 năm 1994
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982. Nghị quyết cho phép nghiên cứu để có những sửa đổi,
bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho phù
hợp với Công ước 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam .
Giải pháp cho Biển Đông là tổng thể chính trị, ngoại
giao, pháp lý, kinh tế, an ninh quốc phòng. Công cụ pháp lý là quan trọng, thu
hẹp các bất đồng, giúp các bên điều chỉnh chính sách, có các quyết sách đúng,
giải quyết thỏa đáng tranh chấp chủ quyền vì hòa bình, ổn định, thịnh vượng của
khu vực và toàn thế giới.
Việt Long/(Nghiên cứu
Biển Đông)
------------
Tiếp sau đây, Indonesia muốn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế!
Trả lờiXóahttp://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/indonesia-muon-kien-trung-quoc-ra-toa-an-quoc-te-20160321160052674.htm
Đã bảo cấm đừng bàn luận bàn bóng bể Đông nữa cơ mà
Trả lờiXóaTrong bài diễn văn phát bằng tốt nghiệp vào năm 2005 tại trường Đại học Stanford, Steven Jobs
Trả lờiXóađã chia sẻ tâm trạng khi ông được chẩn đoán một dạng ung thư tuyến tụy hiếm thấy (một dạng ung thư mà không có nghĩa là án tử hình tức thì)
“Việc luôn nhớ rằng mình sẽ chết là một công cụ quan trọng nhất mà tôi từng gặp, nhằm giúp mình đưa ra những quyết định lớn trong đời.
Bởi hầu như mọi thứ - tất cả những mong đợi bên ngoài, tất cả những kiêu hãnh, tất cả nỗi sợ hãi về thất bại hoặc xấu hổ - tất cả đều hoàn toàn tan biến khi đối diện với cái chết, chỉ còn lại điều thật sự quan trọng với bản thân mình.
Nghĩ rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh rơi vào bẫy rằng tôi sẽ mất đi cái gì đó.
Khi ta không còn gì nữa thì chẳng có lý do gì mà bạn không nghe theo lời mách bảo của trái tim.
Khi bạn sống không cí trái tim, bạn có lẽ chỉ là loài lai tạp giữa người và động vật”.