* MINH DIỆN
Con
rạch rộng khoảng gần chục mét, rong rêu
và cỏ năn mọc kín. Hai bên bở lác đác những cây dâu, cây cậy khẳng khiu.
Một chiếc cầu đá bắc qua con rạch nối con đường mòn từ làng tôi đến
làng Đọ. Cạnh cầu
đá có cây đa cổ thụ soi bóng xuống con rạch. Người ta gọi đó là cây đa Cầu Đá.
Cách đây lâu lắm, không nhớ rõ năm tháng
nào, có một người đàn bà sinh sống ở gốc đa này. Bà khoảng năm chục tuổi, thân hình nhỏ bé, khuôn mặt phúc hậu. Điểm nổi bật nhất ở bà là trừ khi ăn cơm còn lúc
nào cũng nhai trầu . Không ai biết danh tính và quê quán bà ở đâu, dân
làng quen gọi là bà Trầu.
Ngày ấy hai bên đầu cầu có vũng lội. Làng tôi bảo vũng lội đó thuộc
làng Đọ thì làng Đọ phải đắp. Ngược lại, làng Đọ nói vũng lầy ấy thuộc địa phận làng tôi. Hai
làng cứ đùn đẩy nhau như vậy, nên vũng lầy rộng mãi ra, khách bộ hành đi lại rất khó
khăn. Người gồng gánh bị đổ vỡ, có những ông bà già trượt ngã, nhất là ban đêm lọ mọ đi qua vũng lầy ấy.
Hiểu nỗi khổ của người qua đường, bà Trầu khi ấy còn khỏe ngày ngày túc trực bên cạnh vũng lầy. Bà sẵn sàng gồng
gánh giúp những người buôn bán, hoặc
cõng ông già bà lão qua vũng lầy. Ban
đêm bà thắp ngọn đèn chai, báo hiệu cho
mọi người biết vũng lầy, và cũng sẵn sàng giúp đỡ
người qua đường. Ai cho vài xu hoặc lon gạo, mớ rau tùy lòng, bà
không than thở, van xin. Nắng cũng như
mưa, cả những đêm đông rét cắt da thịt, bà vẫn một mình ở gốc đa, làm công việc đó. Hình bà in đậm òng dân làng và khách bộ hành.
Vào một buổi sáng, người đi đường không thấy Trầu đứng bên vũng lầy. Nhìn quanh thấy bà ngồi dựa vào gốc đa. Mọi người gọi, bà không thưa, tới lay, thì thấy bà đã chết tự bao giờ rồi. Thân hình nhỏ bé gầy ốm quắt queo như cây sậy với khuôn mặt hiền lành phúc hậu của bà lạnh ngắt trong bộ bộ quần áo nâu nhiều mảnh vá, miệng bà vẫn ngậm miếng trầu.
Vào một buổi sáng, người đi đường không thấy Trầu đứng bên vũng lầy. Nhìn quanh thấy bà ngồi dựa vào gốc đa. Mọi người gọi, bà không thưa, tới lay, thì thấy bà đã chết tự bao giờ rồi. Thân hình nhỏ bé gầy ốm quắt queo như cây sậy với khuôn mặt hiền lành phúc hậu của bà lạnh ngắt trong bộ bộ quần áo nâu nhiều mảnh vá, miệng bà vẫn ngậm miếng trầu.
Quanh năm suốt tháng làm nghề ăn
xin và giúp người qua lại vũng lầy, bà Trầu chẳng có tài sản gì ngoài cái niêu
đất và ông bình vôi. Dân làng gom góp
tiền mua cho bà chiếc hòm và chôn bà gần gốc cây đa
Bà không có con cái người thân, nhưng đám tang rất đông. Các cụ trong
làng làm lễ rước hồn
bà về chùa để bà nương nhờ cửa Phật. Tám cụ bà đội khăn đóng, mặc áo tứ
thân, thắt lưng điều, cầm bơi chèo, chèo thuyền chở hồn bà Trầu :
Dô hầy!
Dô hầy!
Nhổ
sào mà đẩy!
Mà đẩy
thuyền lên!
Ngược
dòng bể khổ!
Cho hồn
lên tiên!
Chèo lên cho đến cõi tiên!
Lênh đênh mặt nước về miền bồng lai...
Dô hầy!
Ngôi mộ bà Trầu không không có bia mộ, nhưng mỗi ngày lại cao
thêm, bởi mỗi người khi ngang qua đều bốc một nắm đất đắp lên để tỏ lòng thương tiếc bà. Cạnh ông bình vôi
trên mộ bà lúc nào cũng có trấu cau tươi. Có tin đồn bà rất linh thiêng, ai
muốn cầu xin điều gì ra thắp nhang thành
tâm khấn , bà đều phù hộ. Ngôi mộ vô danh càng cao và ngày đêm nghi ngút hương
khói.
Ngày còn bé tôi thường đi đánh dậm
ở rạch Cầu Đá. Trước khi xuống rạch, tôi cầm chiếc giỏ khấn trước mộ bà Trầu : “Bà phù hộ cháu được
đầy giỏ cá cháu sẽ mua cho bà quả cau lá trầu tươi !” Có đêm mưa rào, tiếng ếch kêu uôm uôm ở rạch Cầu Đá, chúng tôi rủ nhau đi bắt, cũng khấn bà Trẩu
phù hộ.
Thời gian trôi đi, bao nhiêu đổi thay. Người ta phá chiếc cầu cổ kính lấy
đá nung vôi, thay vào một chiếc cống bê tông. Con đường được rải nhựa. Cây đa cổ thụ càng già cỗi, bão đánh đổ , dân
làng trồng một cây đa khác. Rạch nước nông cạn hơn, hai bên bờ bị lấn, có chỗ
nhỏ tóp lại, trở nên ngoằn ngoèo. Những cây dâu với những chùm quả chín thẫm
ngày xưa cũng bị chặt hết , bờ rạch um tùm cỏ dại và gai mắc cỡ. Nhưng mộ bà Trầu
vẫn không ai xâm phạm, vẫn có khói nhang, và vẫn có trầu cau bên bình vôi . Dân
làng vẫn dành cho bà tình yêu thương, kính trọng như hàng chục năm trước.
Năm kia tôi về thăm quê, thấy cạnh
gốc đa, trước mộ bà Trầu, mọc lên ngôi miếu thờ , mái ngói đỏ tươi.
Tôi đến
thăm thầy giáo Quỳnh, người dạy tôi từ năm lớp ba, gần sáu chục năm trước. Thấy
bảo có người
đàn ông khoảng bảy chục tuổi, đưa con
cháu đến nhận mộ và sau đó thuê xây miếu. Người ấy nói, đây chính là mộ bà tổ cô mình. Câu chuyện mang đậm tính liêu trai, rằng vào năm Bính
Tý, 1936, gia đình ông nội ông chết đói gần hết, còn lại phiêu dạt khắp nơi. Trong số người phiêu dạt có bà tổ cô này. Bà không có chồng con, từ nhỏ đã nổi tiếng hiền hậu,
chăm làm, hay giúp đỡ người khác. Sau
bao nhiêu năm tìm kiếm khắp nơi , vừa qua ông được bà tổ cô
về báo mộng, chỉ đường cho ông tìm tới tận nơi bà yên nghỉ.
Không ai tìm hiểu câu chuyện đậm nét liêu trai kia sự thật đến đâu, ngược lại mọi người rất hoan hỉ với gia đình người
nhận mộ. Dân làng tình nguyện góp thêm
công của xây ngôi miếu. Hôm khánh thành ngôi
miếu, cả làng tập trung dâng hương. Ngôi miếu bà Trầu trở thành một di
tích văn hóa tâm linh của làng tôi.
Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
-Dẫu không phải mộ của gia đình người ta thì cũng
đáng trân trọng! Một bà lão ăn xin vô danh, làm được một việc tốt giúp dân,tình
cảm đọng lại trong lòng dân và lan tỏa
như vậy . Thời gian tìm đến cái
chết , mọi thứ đều sẽ bị hủy diệt bởi thời
gian, nhưng tình yêu tìm đến linh hồn,
vì vậy mà tình yêu bất tử.
Thầy Quỳnh năm nay đã chín mươi
tuổi, nhưng vẫn minh mẫn. Mỗi lời nói của thầy như được chắt lọc từ cuộc sống
mà thầy đã trải qua gần một thế kỷ
Trong lúc nói chuyện về ngôi mộ
bà Trầu, thầy bảo ở làng Vọng có một trường
hợp đương đại, hoàn toàn ngược lại với
chuyện bà Trầu. Ở làng ấy, có người tên Lê Đắc, một cán bộ to nhất nhì tỉnh. Thời hàn vi ông ta được
làng xóm cưu mang, nhưng khi làm quan thì độc ác tham lam vô độ. Ông ta đục khoét, trấn lột dân không trừ cả nơi chôn rau cắt rốn mình. Hàng chục mẫu ruộng
của bà con làng Vọng, bị ông ta ký quyết
định thu hồi, cho Trung Quốc thuê xây dựng
nhà máy chế biến cao su. Gía bồi thường chỉ có 50.000 đồng một mét vuông. Bà con không nhận tiền,
không giao đất vì biết ông ta và đồng bọn cho Trung Quốc thuê, thực tế là bán, giá 500.000 đồng một mét. Ông ta ký
lệnh cưỡng chế, cho công an bắt giam những người chống đối lệnh cưỡng chế đó. Gia đình
ông ta giàu sang ít người sánh bằng nhờ tiền tham nhũng.
Năm kia ông ta bị ung thư, đưa sang Singapore chữa gần một
năm, tốn kém hàng chục tỷ không thoát chết. Lễ tang tổ chức trên tỉnh rất linh
đình, nhưng tuyệt nhiên không có người dân làng Vọng nào, ngay cả người trong họ Lê đi viếng.
Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
- Không biết của cải ông ta để lại, con cháu ông có giữ được lâu không, nhưng cái tình của ông với dân làng
thì hết sạch rồi, có chăng chỉ còn bia
miệng tiếng đời!
Tôi thắp nén nhang trong miếu thờ bà Trầu. Lời thầy Quỳnh vẫn văng vẳng bên tai tôi:
-Thời gian tìm đến cái chết,
tình yêu tìm đến linh hồn, vì vậy tình yêu là bất tử. Tình yêu làm cho người ta đáng sống, hận thù làm cho người
ta phải sống và, dù đi đâu ở đâu thì
mình cũng là một phần của mảnh đất này !
M.D
-----------------
Đọc bác Minh Diện, nhớ về thời học đại học, có đứa bạn thân hay kể chuyện " Ở ngõ nhà tao..." rất nhiều chuyện suốt năm năm trời. Chuyện nào cũng rất Nhân văn, Trí lự, thâm thúy. Cảm ơn bác.
Trả lờiXóaAnh Minh Diện thân ! Trăm năm bia đá thời mòn .... Tôi hiểu ý bài viết nầy của anh. Tôi copy bài nầy qua Gotphieudu nhé ! Nếu anh đồng ý . Cám ơn trước .
Trả lờiXóa" cái tình của ông với dân làng thì hết sạch rồi "
Trả lờiXóaĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG CẦN CÁI TÌNH VỚI NHÂN DÂN CẢ NƯỚC, SÁ GÌ CÁI TÌNH VỚI DÂN LÀNG. HỒN MA LÊ ĐẮC KIÊU HÃNH VỚI CỦA CẢI VẬT CHẤT, CHẲNG CẦN TÌNH CẢM TINH THẦN. CHỦ NGHĨA DUY VẬT MÀ. HỒN MA LÊ ĐẮC BIẾT ƠN BÁC HỒ ĐÃ RƯỚC CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ DẬY CHO LÊ ĐẮC.
Ngậm miệng lại, đừng ăn theo nói leo. Bài học này bác Minh Diện muốn dạy rằng phải nhớ luật nhân quả. "Nặc danh05:06 Ngày 12 tháng 6 năm 2013" đừng xỏ xiên mà có ngày bị vặn cổ. Đồ bố láo !
XóaVăn tức là người, những diễn đạt của Nhà Báo Minh Diện và của Đại Tá Xứ Thanh Bùi Văn Bồng là những lời văn từ chân-tâm, như tiếng hót của loài chim báo bão, cảnh báo trước một đoạn-trường của Đất Nước, nếu không biêt đề phòng.
Trả lờiXóaCó ai đã từng đi đó đây, bên tòa nhà Liên Hiệp Quốc, trên bờ hồ Genève Thụy Sỹ, hay bên góc phố New York để nghe tiếng khóc than của những Người dân lưu-vong Tây Tạng hay Palestine mà cầm lòng được không?!
Cám ơn nhiều những bài viết của NB Minh-Diên và Đại Tá Bùi Văn Bồng
Tạc một cái tượng bán thân bằng đá, kiểu tượng mặc áo đại cán thấy nhan nhản khắp nơi. Trên trán pho tượng khắc chứ LĐ (Lê Đắc chứ không phải lãnh đạo) Rồi đặt nó cạnh cửa vào miếu cho mọi người phân biệt so sanh rồi học tập làm theo tấm gương đạo đức của Bà Trầu.
Trả lờiXóaBác Minh Diện đang chửi xéo đ/ chí X. Đúng không vậy
Trả lờiXóaNhững bài học "nhân quả" cha ông để lại, nhưng chẳng kẻ tham nào để mắt. Tất cả vì lòng tham mà mù quáng, ngay cả những người có học, có chức quyền chỉ lo vung vén cho bản thân, gia đình mà không thấy nỗi khổ trước mắt của những con người bị họ làm khổ. Nhưng rồi sự giàu sang sung sướng của họ đâu tồn tại mãi, đến ngày nào đó họ cũng phải trả quả thôi. Đó là một quy luật muôn đời của tạo hóa.
Trả lờiXóaLoại như Lê Đắc ngày nay rất nhiều,bạn có thể thấy ở quanh nhà bạn
Trả lờiXóaHy vọng sau khi chết,họ được về ở chung 1 chỗ,nếu không,người dân chết oan vì họ sẽ tới trả thù,địa ngục lại thêm 1 phen hoảng loạn