Translate

Trang BVB1

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

MỘ BÀ TRẦU

               
       
.
 * MINH DIỆN
                  Con rạch  rộng khoảng gần chục mét, rong rêu và cỏ năn mọc kín.  Hai bên  bở lác đác những cây dâu, cây cậy khẳng khiu. Một chiếc cầu  đá  bắc  qua  con rạch  nối con đường mòn từ làng tôi đến làng  Đọ.  Cạnh  cầu đá có cây đa cổ thụ soi bóng xuống con rạch. Người ta gọi đó là cây đa Cầu Đá.
Cách đây lâu lắm, không nhớ rõ năm tháng nào, có một người đàn bà sinh sống  ở gốc đa này. Bà khoảng năm chục tuổi, thân hình nhỏ bé, khuôn mặt phúc hậu. Điểm nổi bật nhất ở bà là trừ khi ăn cơm còn lúc nào cũng nhai trầu . Không ai biết danh tính và quê quán bà ở đâu, dân làng quen gọi là bà Trầu.
                 Ngày ấy  hai bên đầu cầu có vũng lội. Làng tôi bảo vũng lội đó thuộc làng Đọ thì làng Đọ phải đắp. Ngược lại, làng Đọ nói vũng lầy ấy thuộc địa phận làng tôi. Hai làng cứ đùn đẩy nhau như vậy,  nên vũng lầy rộng mãi ra, khách bộ hành đi lại rất khó khăn. Người gồng gánh bị đổ vỡ, có những ông bà già trượt ngã, nhất là ban đêm lọ mọ đi qua vũng lầy ấy.
                Hiểu nỗi khổ của người qua đường, bà Trầu khi ấy còn khỏe ngày ngày túc trực bên cạnh vũng lầy. Bà sẵn sàng gồng gánh giúp những người buôn bán, hoặc cõng ông già bà lão qua vũng lầy. Ban đêm bà thắp ngọn đèn chai, báo hiệu  cho mọi người biết vũng lầy, và cũng sẵn sàng giúp đỡ  người qua đường. Ai  cho vài xu hoặc lon gạo, mớ rau tùy lòng, bà không than thở, van xin. Nắng cũng như mưa, cả những đêm đông rét cắt da thịt, bà vẫn một mình ở gốc đa, làm công việc đó. Hình bà in đậm òng dân làng và khách bộ hành. 
               Vào một buổi sáng, người đi đường không thấy Trầu đứng bên vũng lầy. Nhìn quanh thấy bà ngồi dựa vào gốc đa. Mọi người gọi, bà  không thưa, tới lay, thì thấy bà đã chết tự bao giờ rồi. Thân hình  nhỏ bé gầy ốm quắt queo như cây sậy với khuôn mặt hiền lành phúc hậu của bà  lạnh  ngắt trong bộ  bộ quần áo nâu nhiều mảnh vá, miệng bà vẫn ngậm miếng trầu.
               Quanh năm suốt tháng làm nghề ăn xin và giúp người qua lại vũng lầy, bà Trầu chẳng có tài sản gì ngoài cái niêu đất và ông bình vôi.  Dân làng gom góp tiền mua cho bà chiếc hòm và chôn bà gần gốc cây đa
                Bà không có con cái người thân, nhưng đám tang rất đông. Các cụ trong làng làm lễ  rước hồn  bà về chùa để bà nương nhờ cửa Phật. Tám cụ bà đội khăn đóng, mặc áo tứ thân, thắt lưng điều, cầm bơi chèo, chèo thuyền chở hồn bà Trầu :
                                                Dô hầy!
                                                Dô hầy!
                                         Nhổ sào mà đẩy!
                                         Mà đẩy thuyền lên!
                                          Ngược dòng bể khổ!
                                          Cho hồn lên tiên!
                                          Chèo lên cho đến cõi tiên!
                                          Lênh đênh mặt nước về miền bồng lai...
                                          Dô hầy!
              Ngôi mộ bà Trầu  không không có bia mộ, nhưng mỗi ngày lại cao thêm, bởi  mỗi người khi ngang qua đều bốc một nắm đất đắp lên  để tỏ lòng thương tiếc bà. Cạnh ông bình vôi trên mộ bà lúc nào cũng có trấu cau tươi. Có tin đồn bà rất linh thiêng, ai muốn cầu xin điều gì  ra thắp nhang thành tâm khấn , bà đều phù hộ. Ngôi mộ vô danh càng cao và ngày đêm nghi ngút hương khói. 
              Ngày còn bé tôi thường đi đánh dậm ở rạch Cầu Đá. Trước khi xuống rạch,  tôi cầm chiếc giỏ  khấn trước mộ bà Trầu : “Bà phù hộ cháu được đầy giỏ cá cháu sẽ mua cho bà quả cau lá trầu tươi !”  Có đêm  mưa rào, tiếng ếch kêu uôm uôm ở rạch  Cầu Đá, chúng tôi rủ nhau đi bắt, cũng khấn bà Trẩu phù hộ.
              Thời gian trôi đi, bao nhiêu  đổi thay. Người ta phá chiếc cầu cổ kính lấy đá nung vôi, thay vào một chiếc cống bê tông. Con đường được rải nhựa. Cây đa cổ thụ càng già cỗi, bão đánh đổ , dân làng trồng một cây đa khác. Rạch nước nông cạn hơn, hai bên bờ bị lấn, có chỗ nhỏ tóp lại, trở nên ngoằn ngoèo. Những cây dâu với những chùm quả chín thẫm ngày xưa cũng bị chặt hết , bờ rạch um tùm cỏ dại và gai mắc cỡ. Nhưng mộ bà Trầu vẫn không ai xâm phạm, vẫn có khói nhang, và vẫn có trầu cau bên bình vôi . Dân làng vẫn dành cho bà tình yêu thương, kính trọng như hàng chục năm trước.
               Năm kia tôi về thăm quê, thấy cạnh gốc đa, trước mộ bà Trầu, mọc lên ngôi miếu thờ , mái ngói đỏ tươi.
               Tôi đến thăm thầy giáo Quỳnh, người dạy tôi từ năm lớp ba, gần sáu chục năm trước. Thấy bảo   có người đàn ông khoảng bảy chục tuổi, đưa con cháu đến  nhận mộ và sau đó thuê xây miếu. Người ấy  nói, đây chính là mộ bà tổ cô mình. Câu chuyện  mang đậm tính liêu trai, rằng vào  năm  Bính Tý, 1936,  gia đình ông nội ông  chết đói gần hết,  còn lại phiêu dạt khắp nơi. Trong số người phiêu dạt  có bà tổ cô này. Bà  không có chồng con, từ nhỏ đã nổi tiếng hiền hậu, chăm làm, hay giúp đỡ người khác.  Sau bao nhiêu năm  tìm kiếm khắp nơi , vừa qua ông được bà tổ cô về báo mộng, chỉ đường cho ông tìm tới tận nơi bà yên nghỉ.
                Không ai  tìm hiểu câu chuyện đậm nét liêu trai kia sự thật đến đâu, ngược lại mọi người  rất hoan hỉ với gia đình người nhận mộ. Dân làng tình nguyện  góp thêm công của xây ngôi miếu.  Hôm khánh thành ngôi miếu, cả  làng tập trung  dâng hương. Ngôi miếu bà Trầu trở thành một di tích văn hóa tâm linh của làng tôi.
              Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
             -Dẫu  không phải mộ của gia đình người ta thì cũng đáng trân trọng! Một bà lão ăn xin vô danh, làm được một việc tốt giúp dân,tình cảm đọng lại trong lòng dân và lan tỏa  như vậy .  Thời gian tìm đến cái chết , mọi thứ  đều sẽ bị hủy diệt bởi thời gian, nhưng  tình yêu tìm đến linh hồn, vì vậy mà tình yêu bất tử.
               Thầy Quỳnh năm nay đã chín mươi tuổi, nhưng vẫn minh mẫn. Mỗi lời nói của thầy như được chắt lọc từ cuộc sống mà thầy đã trải qua gần một  thế kỷ
               Trong lúc nói chuyện về ngôi mộ bà Trầu, thầy bảo ở làng Vọng có một trường hợp đương đại,  hoàn toàn ngược lại với chuyện bà Trầu. Ở làng ấy, có người tên Lê Đắc, một  cán bộ to nhất nhì tỉnh. Thời hàn vi ông ta được làng xóm cưu mang, nhưng khi làm quan thì độc ác tham lam vô độ. Ông ta   đục khoét, trấn lột dân không trừ cả nơi chôn rau cắt rốn mình. Hàng chục  mẫu  ruộng của bà con làng Vọng, bị ông ta ký quyết định thu hồi, cho Trung Quốc thuê xây dựng nhà máy chế  biến  cao su. Gía bồi thường chỉ có 50.000 đồng một mét vuông. Bà con không nhận tiền, không giao đất vì biết ông ta và đồng bọn cho Trung Quốc thuê, thực tế là bán, giá 500.000 đồng một mét. Ông ta ký lệnh cưỡng chế, cho  công an  bắt giam những  người chống đối lệnh cưỡng chế đó. Gia đình ông ta giàu sang ít người sánh bằng nhờ tiền tham nhũng.
                Năm kia ông ta bị ung thư, đưa sang Singapore chữa gần một năm, tốn kém hàng chục tỷ không thoát chết. Lễ tang tổ chức trên tỉnh rất linh đình, nhưng tuyệt nhiên không có người dân làng Vọng nào, ngay cả người trong họ Lê đi viếng.  
                 Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
                  - Không biết của cải ông ta để lại, con cháu ông có giữ được lâu không, nhưng cái tình của ông với dân làng  thì hết sạch rồi, có chăng chỉ còn bia miệng tiếng đời!
                  Tôi thắp nén nhang trong  miếu thờ bà Trầu. Lời thầy Quỳnh vẫn văng vẳng  bên tai tôi:
                  -Thời gian tìm đến cái chết, tình yêu tìm đến linh hồn, vì vậy tình yêu là bất tử. Tình yêu làm  cho người ta đáng sống, hận thù làm cho người ta phải sống và, dù đi đâu ở đâu thì mình cũng là một phần của mảnh đất này !
M.D
-----------------                            

9 nhận xét:

  1. Đọc bác Minh Diện, nhớ về thời học đại học, có đứa bạn thân hay kể chuyện " Ở ngõ nhà tao..." rất nhiều chuyện suốt năm năm trời. Chuyện nào cũng rất Nhân văn, Trí lự, thâm thúy. Cảm ơn bác.

    Trả lờiXóa
  2. Anh Minh Diện thân ! Trăm năm bia đá thời mòn .... Tôi hiểu ý bài viết nầy của anh. Tôi copy bài nầy qua Gotphieudu nhé ! Nếu anh đồng ý . Cám ơn trước .

    Trả lờiXóa
  3. " cái tình của ông với dân làng thì hết sạch rồi "
    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG CẦN CÁI TÌNH VỚI NHÂN DÂN CẢ NƯỚC, SÁ GÌ CÁI TÌNH VỚI DÂN LÀNG. HỒN MA LÊ ĐẮC KIÊU HÃNH VỚI CỦA CẢI VẬT CHẤT, CHẲNG CẦN TÌNH CẢM TINH THẦN. CHỦ NGHĨA DUY VẬT MÀ. HỒN MA LÊ ĐẮC BIẾT ƠN BÁC HỒ ĐÃ RƯỚC CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ DẬY CHO LÊ ĐẮC.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ngậm miệng lại, đừng ăn theo nói leo. Bài học này bác Minh Diện muốn dạy rằng phải nhớ luật nhân quả. "Nặc danh05:06 Ngày 12 tháng 6 năm 2013" đừng xỏ xiên mà có ngày bị vặn cổ. Đồ bố láo !

      Xóa
  4. Văn tức là người, những diễn đạt của Nhà Báo Minh Diện và của Đại Tá Xứ Thanh Bùi Văn Bồng là những lời văn từ chân-tâm, như tiếng hót của loài chim báo bão, cảnh báo trước một đoạn-trường của Đất Nước, nếu không biêt đề phòng.
    Có ai đã từng đi đó đây, bên tòa nhà Liên Hiệp Quốc, trên bờ hồ Genève Thụy Sỹ, hay bên góc phố New York để nghe tiếng khóc than của những Người dân lưu-vong Tây Tạng hay Palestine mà cầm lòng được không?!
    Cám ơn nhiều những bài viết của NB Minh-Diên và Đại Tá Bùi Văn Bồng

    Trả lờiXóa
  5. Tạc một cái tượng bán thân bằng đá, kiểu tượng mặc áo đại cán thấy nhan nhản khắp nơi. Trên trán pho tượng khắc chứ LĐ (Lê Đắc chứ không phải lãnh đạo) Rồi đặt nó cạnh cửa vào miếu cho mọi người phân biệt so sanh rồi học tập làm theo tấm gương đạo đức của Bà Trầu.

    Trả lờiXóa
  6. Bác Minh Diện đang chửi xéo đ/ chí X. Đúng không vậy

    Trả lờiXóa
  7. Những bài học "nhân quả" cha ông để lại, nhưng chẳng kẻ tham nào để mắt. Tất cả vì lòng tham mà mù quáng, ngay cả những người có học, có chức quyền chỉ lo vung vén cho bản thân, gia đình mà không thấy nỗi khổ trước mắt của những con người bị họ làm khổ. Nhưng rồi sự giàu sang sung sướng của họ đâu tồn tại mãi, đến ngày nào đó họ cũng phải trả quả thôi. Đó là một quy luật muôn đời của tạo hóa.

    Trả lờiXóa
  8. Loại như Lê Đắc ngày nay rất nhiều,bạn có thể thấy ở quanh nhà bạn
    Hy vọng sau khi chết,họ được về ở chung 1 chỗ,nếu không,người dân chết oan vì họ sẽ tới trả thù,địa ngục lại thêm 1 phen hoảng loạn

    Trả lờiXóa